Minh Lý Thánh Hội
Tuất thời, 22-9 Kỷ Dậu (Thứ Bảy 01-11-1969)
Thông công: Bộ phận Hiệp Thiên Đài
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam .
Pháp đàn: Huỳnh Chơn. Đồng tử: Hoàng Mai.
THIỆN HẠNH ĐỒNG TỬ
Tiểu Thánh chào chư Thiên mạng, chư
liệt vị tam ban.
Vâng lịnh Đức Vạn Hạnh Thiền Sư, Tiểu
Thánh đến báo đàn. Chư liệt vị thành tâm nghinh tiếp. Tiểu Thánh chào chung. Xin xuất ngoại hầu
lịnh. Thăng.
THI
Gióng chuông cảnh tỉnh giống Tiên Rồng
Đừng e tiếng gọi trong sa mạc
Vẫn có âm vang chốn bụi hồng.[2]
VẠN HẠNH
THIỀN SƯ
Bần Tăng chào
mừng chư Thiên mạng. Mừng chư đạo hữu đạo tràng.
Hôm nay Bần
Tăng giáng đàn để tiếp tục phần vụ còn dang dở. Bần Tăng thỉnh chư liệt vị, chư
đạo hữu đồng an tọa để giúp Bần Tăng hành tròn bổn phận.[3]
(. . .)
Chư
đạo hữu ôi! Nhiên Đăng Cổ
Phật là gì [4] mà
từ xưa đến nay đã có nhiều vị đạo hữu từng niệm danh hiệu, đã niệm, đang niệm
và sẽ niệm, nhưng có mấy ai hiểu nguồn gốc lịch sử danh từ Nhiên Đăng Cổ Phật.[5]
Thế gian lịch
sử loài người phần đông đã hiểu tông tích lịch sử các Đấng cứu thế hoặc các bực giáo chủ như Thái Thượng Đạo Tổ, Lão Tử, Khổng Phu
Tử, Quan Âm Bồ Tát, Bổn Sư Thich Ca Mâu Ni Phật và Gia Tô Giáo Chủ Jesus Christ,
v.v… Người ta chỉ biết rằng Nhiên Đăng Cổ Phật là một vị Phật rất xa xưa, không
biết có tự bao giờ, có thể là có trước khi tạo thiên lập địa không chừng, chỉ
hiểu ngần ấy để kỉnh thành vái niệm là đủ rồi.
Hôm nay Bần
Tăng muốn đem vấn đề này đặt ra đây để chư đạo hữu hiểu qua, tự đặt lấy cho mình một sứ mạng thế Thiên hành hóa [6] hay
là một bậc vĩ nhân cho hậu thế trên phương diện đạo lý và nhơn sanh thế đạo.[7]
Nhiên Đăng là gì nếu không phải là ngọn đèn lưu ly [8] sáng tỏ không ngừng không dứt từ cổ chí kim, từ thượng thiên đến hạ địa, từ tam
thập lục thiên, tam thiên thế giái, từ thất thập nhị địa, tứ đại bộ châu, từ
hàng giáo chủ đến hàng nhơn sanh tín hữu?
Nhiên Đăng có thể gọi
là đèn Thái Cực. Chư
đạo hữu hãy nhìn lên chánh điện, ngọn đèn lưu ly Thái Cực ngày đêm, năm tháng,
giờ khắc nào cũng phải rực cháy luôn luôn.
Nhiên Đăng có thể gọi
là ngôi Thái Cực,
hoặc đèn Thái Cực soi sáng, đem lại sự ấm áp cho vũ trụ trước khi phân định âm
dương và tạo thiên lập địa. Nhiên Đăng
có thể gọi là linh hồn của
vũ trụ.
Con người đã mang nhục thể,[9] tứ đại cấu hợp,[10] đương nhiên phải chịu màn bao bọc của cõi hồng
trần. Màn ấy cũng có thể gọi là màn vô minh. Chính bức màn vô minh ấy đã che án ngọn Nhiên Đăng nơi nội tâm của mỗi con
người. Vì vô minh mà con người dễ sa ngã, dễ bị quyến rũ,
dễ đọa lạc, dễ gây tội lỗi trở thành nghiệp chướng oan khiên.[11]
Đối với con người thì hai tiếng Nhiên Đăng có thể gọi
là tâm đăng.[12] Tâm đăng luôn luôn bất diệt nơi trung
tâm điểm của mỗi con người.[13] Người
nào đại căn đại kiếp, ít nghiệp chướng tiền khiên, sớm giác ngộ, lo tu thân lập
hạnh, tạo âm chất, gầy dựng phước đức, đem đạo giúp đời, thì bức màn vô minh ấy
càng sớm mỏng lần.
Hễ màn vô minh được mỏng, ngọn tâm
đăng hiện lần lần ra. Hễ ngọn tâm đăng càng hiện lần lần,
sáng tỏ chừng nào thì con người ấy sẽ được và đang được trở thành một
người thuần hậu, thuần lương. Từ tướng đi cách đứng, khi
nói lúc làm, luôn luôn tác phong người ấy rất nghiêm chỉnh, phúc hậu, đoan
trang, dễ gây sự thiện cảm, kỉnh mến với tất cả mọi người chung quanh. Một lời
người ấy nói ra sẽ đem lại sự thành công nên việc, an ủi và hạnh phúc cho kẻ
khác.
Thế nên người đời thường nói Phật tức tâm, tâm tức Phật mà không hiểu
tâm là gì, Phật là gì. Đó là tâm đăng hay là
Nhiên Đăng đó, chư đạo hữu à! Người ta chỉ nói một chiều thuận là Phật tức tâm, tâm tức Phật chớ không ai
nói ma quỷ tức tâm, tâm tức ma quỷ. Nếu có ai nêu được câu đó lên tức là đã
đánh thức được cơn mê của lớp người muội tánh.[14]
Tại làm sao chỉ nói Phật tức tâm? Nghĩa là ai ai cũng có Phật ở nơi tâm. Thế mà tại sao trên thế gian này đã
có lắm người có những ngôn ngữ, hành động còn tệ hơn ma quỷ hoặc ác thú chốn
rừng sâu? Có phải chăng ngọn tâm đăng đã bị đắm chìm quá sâu nơi tâm khảm [15] của lớp người ấy vì tham, si, dục đã cấu thành
bức màn vô minh càng ngày càng dày đặc, đã làm ngọn tâm đăng không một chỗ nào có
thể rọi soi ra được? Rồi tất cả những hành động của lớp người ấy hoàn toàn
do tham sân si dục và những vọng thức [16] ngự trị làm chủ, dìu dắt họ ư? Đó là nói về lãnh vực của người
học đạo, tu thân, hành đạo, còn phần sau đây nói về nhân sinh thế đạo.
Trong nhân sinh thế đạo
thì ý nghĩa của Nhiên Đăng là gì, hỡi chư đạo hữu?
Như trên đã nói, Nhiên Đăng là ngọn
đèn lưu ly soi sáng vũ trụ khi còn huyền bí hỗn
độn sơ khai trước ngày tạo thiên lập địa. Nói rằng lúc đó cả vũ trụ bao la tối
tăm dày đặc lạnh giá vô cùng, nhờ ngọn Nhiên Đăng rọi
soi mà bầu vũ trụ lúc bấy giờ được u u minh minh, nửa tối nửa sáng, bao
trùm Hồng Quân Lão Tổ đang ngồi
trầm ngâm trong tịch mịch. Mãi đến khi phân định âm dương nhựt nguyệt rồi thì
không còn ai để ý đến ngọn Nhiên Đăng, nhưng ngọn
Nhiên Đăng vẫn ngấm ngầm soi sáng và sưởi ấm muôn loài vạn vật suốt cả ngày đêm
hoặc từ các thượng từng không gian cho đến loài thủy tộc, côn trùng vẫn nhờ ánh
sáng và sự sưởi ấm đó giúp muôn loài vạn vật được sanh hóa mãi mãi, trưởng
dưỡng và bảo tồn.
Còn Nhiên Đăng, ngọn đèn sáng của
nhơn sinh thế đạo là gì?
(. . .)
Bần Tăng muốn nói ánh sáng đó là
Nhiên Đăng hay ngọn tâm đăng, hay khí thiêng anh linh vẫn trường tồn vĩnh cửu
của đất nước dân tộc. Tuy bao phen u tối, lắm lúc đau buồn vì bức màn vô minh
tham si dục của loài người đã che án ngọn tâm đăng khí thiêng ấy, nhưng nó vẫn
lưu ly ngấm ngầm cháy mãi, chỉ chờ khi nào có người biết vẹt bức màn vô minh ấy là có dịp cho ngọn tâm đăng
khí thiêng bừng dậy, đánh thức cơn mê cho mọi người cùng đem lại vinh quang cho
đất nước.
(. . .)
Nói trở lại thực tại, hiện giờ chư
đạo hữu là con dân của đất nước này. Hãy đem đạo lý tình thương, đem ngọn tâm
đăng soi sáng cho mọi người và gia công hành đạo giúp đời bằng cách khêu ngọn
tâm đăng cho tất cả mọi người.
Bần Tăng
tạm mượn lời sau đây để kết thúc vấn đề này: Không tiệc
vui nào mà chẳng tàn, không màn hát nào mà chẳng
vãn, không cơn mưa nào mà chẳng tạnh, không
có đêm trường nào mà chẳng sáng, và cũng không
có cuộc loạn ly nào mà không trị.
Vậy là bực tín hữu hay
hướng đạo [17] cũng thế. Hãy chuẩn bị mọi điều kiện, mọi mặt
cho ngọn tâm đăng soi rọi đêm trường đang dày đặc cho mọi người sớm hưởng ánh
sáng vinh quang, thanh bình an lạc trong nếp sống đạo lý.
THI
Tâm đăng soi sáng giúp
cho mình
Cầm đuốc rọi đường cho đại chúng
Phổ truyền giáo lý độ nhơn sinh.
(. . .)
Bần Tăng tạm ngừng bút
nơi đây vì còn phải hội nơi Đại Hùng Bửu Điện [19] trong giờ sau đây. Bần Tăng cảm ơn chư đạo hữu
đã có tâm thành kỉnh trong việc tiếp kinh.[20] Bần Tăng cũng mong sao tiếng trống Lôi Âm vang suốt trong tam thiên đại
thiên thế giới để ngày ngày có những nguyên nhân [21] thức tỉnh hồi đầu,[22] Bần Tăng mới được một lúc sum vầy bạn lữ [23] nơi niết bàn Phật cảnh.
Bần Tăng hẹn Thứ Bảy tuần
tới, cũng trong giờ này, lại đến với chư đạo hữu. Bần Tăng chào chung tất cả
chư đạo hữu lưỡng phái. Thăng.
[5] Nhiên đăng 燃燈: Thắp đèn, đốt đèn (to light a lamp). Ám chỉ đèn Thái Cực, ánh sáng tâm linh bất
hoại trong con người. Tên vị Phật xưa (thời Nhất Kỳ Phổ Độ), tiếng Sanskrit là Dipankara. Ngài có trước Phật Thích Ca
(thời Nhị Kỳ Phổ Độ), hồng danh là Nhiên Ðăng Cổ Phật 然燈古佛 (Dipankara the Ancient Buddha). Phật Nhiên Đăng cũng
là Định Quang Phật 定光佛 (Buddha of Fixed Radiance). Theo Phật Giáo, Ngài có ba ngày kỷ niệm
(ngày vía) là 06-01 âm lịch, 15-3 âm lịch, và 22-8 âm lịch.
[19] Đại Hùng 大雄:
Hàm ý là Đức Phật Tổ (Thích Ca). Người tự chiến thắng chính mình, vượt lên lục
dục thất tình để thành chánh quả còn khó hơn chiến thắng muôn vạn tinh binh; vì
thế gọi Phật là Đại Hùng. Điện thờ Phật Thích Ca là Đại Hùng Bửu Điện 大雄寶殿. Trong thánh
giáo này, Đức Thiền Sư ngụ ý cho biết sau khi từ giã đàn cơ, Ngài sẽ về chùa
Lôi Âm họp với Đức Phật Tổ.
[23] Bạn lữ 伴侶: Bạn bè. (Lữ 侶 cũng là bạn.) Đức
Thiền Sư hàm ý những người thế gian đang tu hành hôm nay vốn là bạn bè của Ngài
trong các kiếp trước. Sau khi trọn vẹn công quả, công trình, công phu tu học và
hành đạo, từ giã thế gian rồi thì tất cả sẽ hội ngộ Đức Thiền Sư trên cõi trời.
Huệ Khải chú thích
(18-3-2014)
PHỤ LỤC: TRUNG TÂM ĐIỂM CỦA MỖI CON NGƯỜI
Lấy một điểm giữa trán và một điểm giữa đỉnh
đầu; từ hai điểm ấy, kéo hai đường ngang dọc A và B, thì giao điểm T ở ngay
trung tâm não bộ, cũng là trung tâm điêm của mỗi con người. Y học gọi nơi này
là Não Thất Ba (the Third Ventricle),
kinh sách gọi là Thiên Tâm, Nê Huờn
Cung, Cốc Thần, Huyền Quan Khiếu, Cao Đài... Bác sĩ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ
(1921-2014) có công phát hiện về ý nghĩa của Não Thất Ba trong Đạo học.