Ngựa là chủ đề quen thuộc trong tranh Trung Quốc. Ðể hiểu lý do tại sao
tranh Trung Quốc thường có chủ đề như vậy, chúng ta cần xét hai điểm: một là ý
nghĩa và giá trị đích thực của ngựa trong lịch sử Trung Quốc, và hai là ý nghĩa
biểu tượng của ngựa trong quan niệm dân gian.
Ngựa đóng vai trò rất quan trọng trong lịch sử Trung Quốc. Nguồn gốc ngựa
của Trung Quốc là từ Trung Á nhưng các chủng loại ngựa phổ biến hiện nay có gốc
Mông Cổ. Ngựa đã xuất hiện ở Trung Quốc tự bao giờ? Giống động vật lớn này được
thuần dưỡng tại Trung Quốc có lẽ khoảng 2500 năm trước Công Nguyên (TCN), nghĩa
là cách nay khoảng trên 4000 năm. Ðó là loài gia súc quý báu, sang trọng, cần
chăm sóc đặc biệt.
Những mảnh giáp cốt khai quật cho thấy ngựa đã được sử dụng vào đời
Thương 商. Cuối đời Thương, việc nuôi ngựa và sử dụng xe ngựa càng
thấy rõ. Sử Ký Tư Mã Thiên từng ghi
chép rằng dân đời Thương rất giỏi buôn bán, họ đã đánh xe đến những nơi xa xôi
buôn bán rồi quay về. Từ ngữ Thương nhân
商人 ban đầu ám chỉ cụ thể là dân
đời Thương về sau được dùng để chỉ tất cả những người hoạt động kinh doanh
(cũng giỏi giang như dân đời Thương); và đây chính là từ nguyên của từ tố thương trong các từ thương nghiệp 商業, thương
mại 商賣, thương gia 商家, v.v...
Nhiều người chưa quen với ý nghĩ cho rằng việc cưỡi ngựa cũng là một phát
minh quan trọng như bao phát minh khác. Song song với việc nuôi ngựa là sự xuất
hiện các chiến xa hai bánh do ngựa kéo. Tuy nhiên, theo Wolfram Eberhard, xe
ngựa không phải là phát minh của Trung Quốc, mà nó được du nhập từ Thổ Nhĩ Kỳ.
Các chiến xa hai bánh phổ biến cuối đời Thương chở ba người: người đánh
xe, chiến sĩ (giới quý tộc), và người phục dịch (thí dụ, đưa mũi tên hoặc trao
vũ khí cho chiến sĩ). Chiến xa là tài sản quý giá, phải do thợ chuyên nghiệp
chế tạo. Lúc đầu xe có hai càng, về sau cải tiến còn một càng cho hai ngựa kéo.
Ngựa luôn đắt và hiếm tại Trung Quốc, và trong nhiều thời kỳ lịch sử của
Trung Quốc, ngựa được mua trực tiếp từ các bộ tộc du mục ở phương Bắc và phương
Tây. Ðồng thời, Trung Quốc đã tiếp thu thuật sử dụng ngựa như chiến mã, thuật
nuôi dưỡng, thắng yên cương, v.v... tức là tiếp thu nền văn minh thảo nguyên
của các bộ tộc du mục như Ðột Quyết, Hung Nô, Si Vưu, Mông Cổ.
Trong chiến tranh ở Trung Quốc cổ đại, ngựa giữ vai trò rất quan trọng,
có thể gọi là nền tảng sức mạnh quân sự. Các kỵ binh du mục trên lưng các chiến
mã thần tốc và dũng mãnh luôn là mối kinh hoàng cho binh quân Trung Quốc. Do đó
Trung Quốc rất quan tâm tới vấn đề cung cấp và huấn luyện ngựa cho quân đội.
Binh bộ vì thế cũng gọi là Tư Mã 司馬.
Vì ngựa rất cần cho quân đội, nên nghề buôn ngựa có quan hệ đến giới lãnh
đạo quân đội và chính trị của triều đình (như trường hợp Lã Bất Vi, tương
truyền ông là một người buôn ngựa). Một trong những danh tướng đời Hán là Mã
Viện (14 TCN-49 CN) (tức tướng quân Phục Ba) nổi tiếng là sành ngựa. Tổ tiên
của Mã Viện vốn là quan tướng của nước Triệu, một nước chuyên xuất khẩu ngựa và
có lực lượng kỵ binh hùng mạnh. Tổ tiên của Mã Viện có danh hiệu là Mã Phục
Quân (người giỏi thuần dưỡng ngựa) và vì thế con cháu về sau đều lấy họ Mã.
Chính Mã Viện ban đầu là nhà chăn nuôi giàu có ở biên giới phía bắc, chuyên
nuôi trâu, bò, cừu, ngựa. Ông có công chiến đấu giúp thành lập nhà Hậu Hán, nên
trở thành danh tướng, và đã gả con gái cho một hoàng tử. Mã Viện thích cưỡi
ngựa bắn cung. Mã Viện từng lấy một trống đồng (chiến lợi phẩm) nấu ra và đúc
thành hình con ngựa, trên đó ghi dấu những vị trí mà người giám định ngựa cần
biết, ngoài ra ông còn khắc nguồn gốc hiểu biết và kinh nghiệm về ngựa của ông
tức là ông khắc tên thầy dạy ngựa cho ông và tên thầy của vị thầy đó, cứ thế
lần lên đến bốn đời thầy dạy ngựa. Ông còn khắc trên tượng ngựa đồng rằng: Ngựa là cơ sở của sức mạnh quân sự, là tài
nguyên lớn của quốc gia. Theo từ điển Từ
Hải ghi chép, quan điểm của Mã Viện về chí khí nam nhi phải là xông pha
trận mạc, da ngựa bọc thây, chứ không phải nằm chết trên giường trong vòng tay
của thê tử.
Ngoài giá trị quan trọng của ngựa trong vận tải và quân sự, người ta còn
tìm thấy giá trị y học của ngựa, được mô tả trong Bản Thảo Cương Mục (xuất bản 1596). Theo sách này, chữ mã 馬
(ngựa) trong Hán văn là chữ tượng hình ,
phác họa hình dáng của ngựa. Rồi sách liệt kê tên các chủng loại ngựa và loại
nào có tác dụng về mặt y học kèm theo mô tả giản lược, chẳng hạn giống ngựa
thuần bạch có tác dụng y học rất tốt. Loài ngựa phương nam và phương đông thì
nhỏ thó và yếu đuối. Muốn biết tuổi ngựa thì xem răng của nó. Cho ngựa ăn lúa
thì chân nó sẽ nặng nề. Cho nó ăn phân chuột thì bụng nó sẽ dài ra, v.v... (đại
khái là cách nuôi dưỡng ngựa).
Một tác phẩm khác xuất hiện vào thế kỷ 17 là Mã Kinh (sách kinh điển giảng về ngựa), trong đó ghi chép cách xem
tướng ngựa, v.v...
Vì những giá trị thực tế và quan trọng (thậm chí rất quý giá) của ngựa
trong lịch sử Trung Quốc như vậy, nên không có gì ngạc nhiên khi ngựa trở thành
một đề tài quen thuộc trong hội họa Trung Quốc. Tuy nhiên, còn một lý do khác
nữa để giải thích điều này, xuất phát từ quan niệm dân gian.
Dân gian cho rằng ngựa có đức tính trinh tiết, ý thức rõ quan hệ truyền
chủng, không vi phạm cái mà luân lý loài người gọi là loạn luân. Như Dịch Kinh từ đời Chu
đã ca ngợi là Tẫn mã chi trinh 牝馬之貞
(đức trinh tiết của ngựa cái). Ngựa còn có đức tính trung thành, một đức tính
mà Nho Gia rất coi trọng trong các mối quan hệ xã hội. Câu chuyện ngựa xích thố
của Quan Vân Trường (tức Quan Công) thời Tam Quốc là một giai thoại tiêu biểu.
Ngựa xích thố mỗi ngày đi nghìn dặm (nên gọi là thiên lý câu). Lúc đầu
xích thố thuộc Ðổng Trác. Lý Túc và Lý Nho lập mưu bảo Trác đem vàng bạc châu
báu và ngựa xích thố tặng cho Lã Bố để mua chuộc Bố bỏ cha nuôi là Ðinh Nguyên
mà đầu quân bên Trác. Khi Bố thua chạy về thành Hạ Bì, bị quân Tào Tháo vây
khổn. Thuộc hạ của Bố là Hầu Thành ban đêm trộm ngựa rồi dâng Tào Tháo. Hôm sau
hai thuộc hạ khác là Tống Hiến và Ngụy Tục lừa dịp Bố ngủ bèn trộm cây phương
thiên họa kích và trói gô Lã Bố đem nạp cho Tháo. Sau khi Tháo xử trảm Lã Bố,
ngựa xích thố thuộc về Tháo. Khi Quan Vũ tá túc bên Tào Tháo, được Tháo hết lòng
trọng đãi, và ngựa xích thố là món quà của Tháo nhằm mua lòng Quan Vũ. Về sau,
khi Quan Vũ bị Tôn Quyền chém chết, ngựa xích thố nhịn ăn mà chết. Người đời
lập miếu thờ Quan Vũ cũng đắp tượng thờ ngựa xích thố, và tục này cũng lan sang
Việt Nam.[1] Lòng
trung thành đối với chủ của ngựa (mã) cũng như chó (khuyển) luôn được người đời
coi trọng. Những kẻ bội
tín thường bị mạ lỵ khinh rẻ là thua cả loài chó ngựa.
Ngựa – loài vật quý giá với đức tính trinh tiết và trung thành, đứng hàng
thứ bảy trong mười hai địa chi – xuất hiện trong tranh Trung Quốc như là biểu
tượng của sự mau chóng và thành đạt.
Thí dụ, bức tranh có chủ đề phổ biến nhất là mã đáo thành công 馬到成功 thể hiện qua một bầy ngựa phi nước
đại gió bụi mịt mù. Nguyên ý câu này là: Kỳ
khai đắc thắng, mã đáo thành công. 旗開得勝馬到成功. (Cờ phất [làm hiệu thì] chiến thắng,
ngựa quay về [báo tin] thành công).
Ngày xưa khi xuất binh phải phất cờ hiệu, mà cờ đã phất rồi thì phải
chiến thắng; tướng soái khi lấy đầu tướng giặc, chiến mã quay về tất báo tin
thành công.
Ý nghĩa câu mã đáo thành công
ngày nay chỉ còn tượng trưng là tốc chiến tốc thắng. Và một bức tranh mã đáo thành công làm quà khai trương
cho một cửa hiệu chỉ đơn giản tương tự như là khai trương hồng phát 開張鴻發 (mở cửa tiệm thì phát đạt lớn) chứ
không có ý là mau chóng thành công nhờ ... cứa cổ khách hàng.
Tranh vẽ một chú khỉ (hầu 猴)
cưỡi trên lưng ngựa (mã thượng 馬上)
lại là một lời cầu chúc tốt đẹp. Hầu 猴
(khỉ) đồng âm hầu 侯
(tước hầu); mã thượng 馬上
còn có nghĩa là ngay tức khắc. Do đó tranh chúc này có nghĩa rộng là chúc cho
mau chóng thăng quan tiến chức.
Bát Tuấn (tám con ngựa hay) của Chu Mục Vương (1001-746) đời Chu cũng là một chủ đề nổi tiếng trong tranh cổ. Mục
Vương có tám tuấn mã, đặt tên khác nhau (Xích Ký, Ðạo Ly, Bạch Nghĩa, Du Luân,
Sơn Tử, Cừ Hoàng, Hoa Lưu, Duyên Nhĩ), và có một xa phu tên Tạo Phụ, đánh xe
đưa vua ngao du khắp nơi.
Trong những miếu thờ dọc đường, người ta thấy tranh vẽ Mã Vương vốn là
thần nhân xấu xí có ba mắt, bốn tay, mang vũ khí. Ðó là thần mà dân nuôi ngựa
phải thờ cúng. Tương tự như thế, dân nuôi trâu bò thờ Ngưu Vương, cũng có tranh
thờ trong miếu. Mã Vương được vẽ cùng với một con ngựa, Ngưu Vương được vẽ cùng
với con trâu. Theo tin tưởng của dân chăn nuôi trâu và ngựa, hai vị thần này có
thể bảo vệ ngựa và trâu bò khỏe mạnh, không bị tà ma quấy nhiễu.
Họa gia vẽ ngựa nổi tiếng đời Ðường có Hàn Cán 韓幹 và
Tào Bá 曹霸; đời Nguyên có Triệu Mạnh Phủ 趙孟頫.
Hàn Cán (không rõ năm sinh và năm mất) người Kinh Triệu 京兆
(nay thuộc Thiểm Tây), có thuyết nói ông người Ðại Lương 大梁
(nay thuộc Hà Nam ).
Ông làm chức Thái Phủ Tự Thừa 太府寺丞 (vào đời Ðường, Thái Phủ Tự là cơ
quan phụ trách ngân khố của hoàng cung), nhưng ông lại nổi tiếng về vẽ ngựa và
vẽ nhân vật cũng như thầy ông là Tào Bá 曹霸.
Tào Bá (không rõ năm sinh và năm mất) người quận Tiêu 譙
(nay là huyện Bạc 亳 của tỉnh An Huy) là họa gia của
triều đình, chuyên vẽ ngựa và chân dung các công thần. Ông giữ chức quan Tả Vũ
Vệ tướng quân 左武衛將軍. Nhà thơ Ðỗ Phủ xem tranh của Tào Bá
vô cùng thích thú và không tiếc lời tán tụng.
Ðến đời Nguyên, thư pháp gia kiêm họa gia Triệu Mạnh Phủ (tức Triệu Tùng
Tuyết) ghi nhận xét trong Tùng Tuyết Trai
Văn Tập rằng: Ðời Ðường có nhiều họa
gia giỏi về vẽ ngựa, nhưng nổi bật nhất là Hàn (Cán) và Tào (Bá).[2]
Tranh ngựa của Triệu Mạnh Phủ
Triệu Mạnh Phủ 趙孟頫 (1254-1322) tự là Tử Ngang 子昂, hiệu là Tùng Tuyết Đạo Nhân 松雪道人, Thủy Tinh Cung Đạo Nhân 水晶宮道人. Ông là đạo sĩ tại gia, nguyên quán Hồ Châu 湖州
thuộc Chiết Giang 浙江, và dòng dõi tôn thất nhà Tống. Cuối
đời Nam Tống ông giữ chức Tư Hộ Tham Quân 司戶參軍 ở Chân Châu 真州.
Qua đời Nguyên ông giữ nhiều chức quan như Binh Bộ Lang Trung 兵部郎中,
Tập Hiền Trực Học Sĩ 集賢直學士, Tập Hiền Thị Giảng Học Sĩ 集賢侍講學士,
Hàn Lâm Học Sĩ 翰林學士, và được phong là Ngụy Quốc Công 魏國公.
Người đời khen tặng ông là: Vinh hiển
trải năm đời vua, danh tiếng đầy bốn biển.[3] Khi mất, ông được tên thụy là Văn Mẫn 文敏. Về thư pháp ông giỏi đủ loại thư thể.
Thể chữ Khải của ông (gọi là Triệu thể) thật yểu điệu kiều lệ, đứng ngang hàng
với ba đại thư pháp gia đời Ðường là Liễu Công Quyền, Nhan Chân Khanh, Âu Dương
Tuân. Từ đời Nguyên đến nay người luyện chữ Khải phải nghiên tập không ngoài
bốn kiểu chữ Khải của bốn nhà thư pháp tên tuổi này. Không chỉ thế, Triệu Mạnh
Phủ còn giỏi vẽ ngựa, nhân vật, trúc thạch, sơn thủy. Về vẽ nhân vật, ông chịu
ảnh hưởng phong cách đời Tấn, đời Ðường. Ông học vẽ ngựa nơi họa gia Lý Công
Lân 李公麟, học vẽ sơn thủy nơi các họa gia Ðổng Nguyên 董源 và
Lý Thành 李成. Giới thưởng ngoạn xem ông là người đứng đầu hội họa đời Nguyên.[4]
Tranh ngựa của Từ Bi Hồng
Ðến thời hiện đại, nổi tiếng vẽ ngựa có Từ Bi Hồng 徐悲鴻
(1895-1953). Ông quê ở Nghi Hưng 宜興, tỉnh Giang Tô 江蘇. Từ
Bi Hồng từng du học hội họa ở Pháp. Khi về nước ông vừa dạy hội họa vừa sáng
tác. Ông chủ trương dung hợp cách vẽ truyền thống của Trung Quốc (gọi là Quốc
họa) với lối vẽ theo định luật phối cảnh và một số kỹ pháp khác của hội họa
phương Tây.
Nhưng Từ Bi Hồng không phải là người duy nhất theo chủ trương này. Chủ
trương dung hợp hội họa Ðông Tây bấy giờ là một phong trào mà họa phái Lĩnh Nam do Cao Kiếm
Phụ sáng lập là một thí dụ tiêu biểu. Phái Lĩnh Nam
về sau được Lương Thiếu Hàng truyền vào Chợ Lớn, Việt Nam , và hiện
nay kế tục là nhóm Nam Tú Nghệ Uyển.
Trong tranh Trung Quốc người ta thấy rõ hai loại bút pháp: Công bút và ý
bút.
Tranh cổ đại đa số là công bút, vẽ vật thể gì thì cũng phải có đường
viền, rồi tỉ mỉ tô màu lên, lá lan, lá tre thì cũng thế, nên những đường viền
này làm nét vẽ cứng và thiếu sinh động.
Ý bút thì ngược lại, nét bút phóng khoáng sinh động vì loại bỏ các đường
viền. Một lá lan, lá tre chỉ do một nét bút nhưng chính độ đậm nhạt của màu đã
tạo ra sáng tối và sự sinh động. (Trước lúc vẽ, búp lông của cây bút được tẩm
màu tươi sáng, rồi ngọn bút được chấm vào màu tối; do đó chỉ một nét vẽ mà hiệu
quả sáng tối đậm nhạt đều có đủ).
Tranh theo chủ trương dung hợp Ðông Tây có xu hướng dùng ý bút. Ý bút thể
hiện rất rõ trong các tranh vẽ ngựa của Từ Bi Hồng. Những mảng sáng tối, những
chỗ chừa trắng, những nét bút phóng khoáng ở bờm và đuôi ngựa, và bố cục theo
luật phối cảnh Tây Phương, tất cả những điều ấy đã giúp tranh có sinh khí và
thần thái.
Ngoài Từ Bi Hồng, còn có Diệp Túy Bạch là họa gia hiện đại cũng rất nổi
tiếng về vẽ ngựa.
LÊ ANH MINH
*
Biết cỡi ngựa chưa đủ, đàn
ông còn phải biết ngã ngựa. / It is not enough for a man
to know how to ride; he must know how to fall. - Ngạn ngữ Mêhicô
Một con ngựa còn đáng giá hơn của cải. / A horse is worth more than
riches. - Ngạn ngữ Tây Ban Nha
Đại Đạo Văn Uyển trân
trọng giới thiệu quý đạo hữu
blog UNDERSTANDING CAODAISM gồm các bài
tiếng Anh của
HUỆ KHẢI viết về đạo Cao Đài tại địa chỉ:
|