Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2017

ĐẠO UYỂN - DỰ KIẾN 2018


Dự kiến trong năm 2018, sau tập 25 (XUÂN 2018),
ĐẠO UYỂN 道苑-- nghĩa là “Vườn Đạo” -- sẽ gởi tới quý đạo hữu ba tập nữa, lần lượt như sau:

ĐẠO UYỂN HẠ 2018 - TẬP 26



Ảnh bìa 1 và bìa 4: Măng non Cao Đài.

Ảnh: Kim Trúc (Hội ThánhTruyền Giáo Cao Đài)

https://www.facebook.com/kimtruc.kimtruc.58


ĐẠO UYỂN THU 2018 - TẬP 27


Bìa 1: Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài (Đà Nẵng):

Vầng trăng Mẹ. Ảnh: Kim Trúc 



Bìa 4: Áo trắng Cao Đài.

Ảnh: Kim Trúc (Hội ThánhTruyền Giáo Cao Đài)

https://www.facebook.com/kimtruc.kimtruc.58

ĐẠO UYỂN ĐÔNG 2018 - TẬP 28


Bìa 1: Thánh thất Từ Vân (Phú Nhuận): 

Thượng Đế trong tất cả.

Ảnh: Kim Trúc (Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài)



Bìa 4: Mầm non nhà Đạo.

Ảnh: Kim Trúc (Hội ThánhTruyền Giáo Cao Đài)

https://www.facebook.com/kimtruc.kimtruc.58


Thứ Sáu, 29 tháng 12, 2017

ĐẠI ĐẠO VĂN UYỂN – SÁU NĂM NHÌN LẠI (2012-2017)


Quý đạo hữu còn thiếu ĐẠI ĐẠO VĂN UYỂN và muốn bổ túc để lưu giữ đủ bộ, xin vui lòng gởi thư về daidaovanuyen@gmail.com.

Trân trọng.

ĐẠO UYỂN

2012 - TẬP 01-04






2013 - TẬP 05-08




(Số kép 7-8)

2014 - TẬP 09-12






2015 - TẬP 13-16



(Số kép 15-16)

2016 - TẬP 17-20






2017 - TẬP 21-24





CHÀO NĂM MỚI 2018

Quý đạo hữu thân mến,
Sau 24 tập ĐẠI ĐẠO VĂN UYỂN (2012-2017), bước sang năm 2018, chúng ta rút gọn tên gọi là ĐẠO UYỂN (Vườn Đạo), và vẫn ấn tống mỗi quý một tập, liên kết Nxb Hồng Đức (Hà Nội). Như vậy:
Tập 25 gọi là ĐẠO UYỂN XUÂN 2018.
Tập 26 gọi là ĐẠO UYỂN HẠ 2018.
Tập 27 gọi là ĐẠO UYỂN THU 2018.
Tập 28 gọi là ĐẠO UYỂN ĐÔNG 2018.
Kính mời quý đạo hữu đón đọc 


ĐẠO UYỂN XUÂN 2018 (148 trang):



Bìa 1: Tòa Thánh Tây Ninh:

Đồng nhi đọc kinh (có ban nhạc lễ)

Ảnh: Quinn Ryan Mattingly

https://lorcanlovett.com/2015/06/21/...




Bìa 4: Dáng xuân.

Ảnh: Kim Trúc (Hội ThánhTruyền Giáo Cao Đài)

https://www.facebook.com/kimtruc.kimtruc.58

Nội dung:
Giao Cảm – Văn Uyển
THÁNH GIÁO
Đàn Khai Xuân Năm Xưa – Đức Hiển Thế Đạo Nhơn,
Đức Thiên La Đạo Nhơn, Đức Đại Tiên Lê Văn Duyệt
KHẢO CỨU / SÁNG TÁC / TRAO ĐỔI
Đôi Nét Về Tiền Bối Thiên La Tinh Thanh Căn
Tiền Bối Thiên La Tinh Qua Dòng Thánh Giáo Huệ Khải
Khái Niệm Về Tính Mệnh – Lê Anh Minh
Trở Về Chánh Đạo – Trần Dã Sơn
Vài Nét Về Đàn Tiên Hiệp Minh Cái KhếHuệ Khải
Đức Thịnh Thời Hưng – Diệu Nguyên
Hoa Đào Năm Trước – Lộc Đình
Cụ Phan Và Lòng Dân – Lộc Đình
Canh Hiếu – Như Không Đặng Công Tạo
Tôi Học Tiểu Học … – Như Không Đặng Công Tạo
Những Gánh Hát Xưa – Kha Tiệm Ly
Gió Bốn Phương – Huệ Khải
Kinh Sách Mới In
Phương Danh Ấn Tống
THƠ
Đỗ Thị Kết | Hoàng Nguyên | Hồ Xoa | Mai Sau Le | Nguyễn Quốc Huân | Phan Thành Minh | Trần Dã Sơn | Võ Văn Pho | Vương Trọng


Thứ Hai, 30 tháng 10, 2017

29/29 ĐĐVU 24 / GIÓ BỐN PHƯƠNG

Gió muốn thổi đâu thì thổi. GIOAN 3:8

* Hiền hữu Sử Kiến Nguyên. Điện thư ngày 21-5-2017:
Văn Uyển có thể cung cấp những tài liệu ảnh chụp điện tín phúc đáp về việc an táng Quyền Đầu Sư Ngọc Trang Thanh tại Tòa Thánh Tây Ninh, ảnh của Giáo Sư Thượng Latapie Thanh, văn thư thôi việc giao thiệp với chánh quyền của Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh, danh sách các thánh thất buổi đầu nền đạo cũng như một số văn thư của đạo buổi đầu được không ạ? Xin trân trọng cảm ơn.
Ban Ấn Tống: Chào hiền hữu, về các câu hỏi của hiền hữu, chúng tôi rất tiếc không sẵn có đủ tài liệu trong tay.
1. Riêng về văn thư thôi việc giao thiệp với chánh quyền của Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh”, chúng tôi không có trọn văn bản, chỉ tìm được một đoạn ngắn trích từ hai trang 283 và 285, trong LỊCH SỬ ĐẠO CAO ĐÀI (quyển II), do Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo liên kết Nxb Tôn Giáo ấn tống (Hà Nội, 2008), nguyên văn như sau:
Ngày 1-4-1933, Ngài Quyền Đầu Sư Thượng Tương Thanh gởi đạo thơ số 54 cho Thống Đốc Nam Kỳ, đạo thơ có đoạn: “J’ai l’honneur de venir très respectueusement vous faire connaître qu’à partir du 1er Avril 1933 je ne repésente plus le Caodaïsme en Cochinchine.
Élevé à la dignité de Đầu Sư, je ne m’occupe plus, de par mes nouvelles attributions que des questions spirituelles.
Le successeur de mon ancien poste sera choisi ultérieurement par le Sacerdoce et porté à votre connaissance par les soins du Supérieur du Caodaïsme, Monsieur Lê Văn Trung.”
Tạm dịch: “Tôi trân trọng thông báo với Ông rằng kể từ ngày 1 tháng Tư năm 1933 tôi không còn làm đại diện cho đạo Cao Đài tại Nam Kỳ.
Thăng lên phẩm vị Đầu Sư, tôi chỉ còn lo phần thiêng liêng cho Đạo mà thôi.
Người kế vị tôi sẽ do Hội Thánh chọn và Ông Lê Văn Trung, người lãnh đạo đạo Cao Đài, sẽ thông báo cho Ông biết.”
2. Bên cạnh là ảnh tiền bối Thượng Giáo Sư Léopold Latapie.


Tiền bối sanh năm 1885, quy thiên ngày 07-8 Giáp Tuất (Thứ Bảy 15-9-1934), được an táng tại nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Sau khi chánh quyền giải tỏa nghĩa trang để làm công viên Lê Văn Tám (quận 1, TpHCM), chúng tôi chưa biết tiền bối được cải táng về đâu.
Nếu hiền hữu may duyên tìm được các tài liệu đã hỏi (mà chúng tôi hiện chưa có), rất mong hiền hữu hoan hỷ chia sẻ lại với Văn Uyển. Cầu nguyện Thầy Mẹ ban ơn lành đến hiền hữu.
*
* Hiền tỷ Ngọc Sương. Thư Bình Phước ngày 07-6-2017:
Đọc Sống Đẹp Là Sống Đạo (quyển 105-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo), thấy ở trang 123 viết: Để cảm hóa tù nhân, trong hai mươi mốt năm làm giám ngục (1920-1941), Lawes giúp họ lập đội bóng Những Con Cừu Đen (Black Sheep) với trình độ gần như chuyên nghiệp.” Tại sao lại lấy tên là cừu đen”? Kính nhờ Văn Uyển vui lòng giải thích.
Huệ Khải: Thưa hiền tỷ, ở trang 52 quyển Nhịp Cầu Tương Tri (Nxb Tôn Giáo 2013, quyển 42-2 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống), tôi viết:
“Trong một bầy cừu trắng tình cờ có một con lẻ loi sanh ra mang bộ lông đen vì cái mà di truyền học gọi là tính lặn (recessive trait). Khi làm len thì lông cừu đen không thể nhuộm màu được như lông cừu trắng, do đó lông cừu đen bị chê vì không có giá trị thương mại. Người Anh thế kỷ 18, 19 xem cừu đen như một dấu hiệu của quỷ sứ. Về sau, trong tiếng Anh, cừu đen (black sheep) là thành ngữ (idiom) diễn tả một phần tử bị cộng đồng, phe nhóm, tập thể, gia đình… cho ra rìa, bị phân biệt đối xử.”
Đội bóng nhà tù mang tên Những Con Cừu Đen để ngụ ý rằng những người tù là phần tử bị xã hội xa lánh, chối bỏ...
*
* Hiền hữu Ngô Văn Biên. Điện thư ngày 10-6-2017:
Là một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, qua lời giới thiệu của đồng đạo, tôi có vào daidaovanuyen.blogspot.com, và thấy blog có trích đoạn văn này của ông Lâm Võ Hoàng:
Khi Thủ Tướng Chính Phủ ký quyết định cho phép Giáo Hội Phật Giáo Hòa Hảo hoạt động hành đạo công khai trở lại, tôi là một trong những người vui mừng nhất (…). Đức Thầy vắng mặt, nền đạo chuyên lo tu hành vẫn tiếp tục tồn tại. Với sức sống âm thầm bền bỉ, gắn liền với sức bật của đồng bằng sông Cửu Long, nền đạo biểu hiện khả năng thích nghi dẻo dai phi thường với mọi hoàn cảnh: rộng càng tốt, hẹp không sao, thắt tới đâu chịu cũng thấu, mỗi người cứ sống theo tâm đạo, và với niềm tin của riêng mình, ai sao mặc ai, mọi việc có Phật Trời chứng giám.”
Là môn đồ của Đức Thầy, tôi cảm động thấy ông Lâm Võ Hoàng viết ra như vậy. Kính nhờ Đại Đạo Văn Uyển vui lòng cho tôi biết Lâm tiên sinh là ai?
Huệ Khải: Thưa đạo hữu, trong Nhịp Cầu Tương Tri (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2013, tr. 221, quyển 42-2 của Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo) có ảnh ông Lâm Võ Hoàng như dưới đây:


Một thân hữu của Chương Trình Chung Tay Ấn Tống là thầy Tú Đoàn (có thể nói là bạn vong niên và hàng xóm lâu năm của ông Lâm Võ Hoàng) cho tôi biết như sau:
Trước tháng 4-1975, ông Lâm Võ Hoàng làm việc ở Ngân Hàng Việt Nam Thương Tín (Sài Gòn), sống độc thân tại cư xá của ngân hàng này tọa lạc ở đường Thoại Ngọc Hầu, Gia Định (nay là đường Phạm Văn Hai, phường 1, quận Tân Bình). Những người khác, ngoài giờ làm việc, có thể chơi tennis (sân lập ngay trong cư xá), đi xem phim, nhà hàng... nhưng ông Hoàng lại dành thời giờ nói chuyện với thế hệ sau, tuy chẳng có nhiều thanh niên “đồng thanh khí” để ông trò chuyện.
Đời ông trải qua nhiều thăng trầm: chuyên viên ngân hàng, sĩ quan (bị động viên), thứ trưởng thương mại... Sau tháng 4-1975, ông đi tập trung cải tạo, mất hết nhà cửa (vì ông sống độc thân, ngôi nhà trở thành vắng chủ). Khi mãn hạn cải tạo trở về, ông đến tá túc nhà người em (đường Hồ Xuân Hương, quận 3). Sau đó, ông tham gia “Nhóm Nghiên Cứu Chuyên Đề Kinh Tế Của Thành Ủy” (do ông Võ Trần Chí, bí thư Thành Ủy, chánh thức thành lập năm 1986 tại Tp.HCM). Nhóm này thường được gọi là “Nhóm Thứ Sáu” vì các thành viên gặp nhau định kỳ vào chiều Thứ Sáu hàng tuần. Về sau nữa, ông Hoàng tham gia Tổ Tư Vấn Cải Cách của Thủ Tướng Võ Văn Kiệt (từ năm 1993)...
Thủ Tướng Võ Văn Kiệt bình sinh rất quan tâm hoàn cảnh khó khăn của giới trí thức Sài Gòn, hết lòng giúp đỡ nên một số vị lần hồi đã được trả lại nhà cũ. Riêng ông Hoàng dù có điều kiện thường gần gũi Thủ Tướng, nhưng không hề “tranh thủ” cơ hội để lấy lại nhà cũ.
Ông Lâm Võ Hoàng tâm sự với người thân quen rằng ông “tay trắng” nhưng “lòng thanh” là nhờ đức tin tôn giáo. Ông coi thời gian đi tập trung cải tạo là vào một “trường chuyên” do Chúa gởi ông đến để học bổ túc những gì còn thiếu sót trong chương trình đào tạo trước đây - đó là đói rét, lao động cực nhọc, thiếu thốn mọi thứ, lòng lân tuất chia sẻ nhường nhịn với mọi anh em đồng cảnh.
Hành trình đến với đức tin Công Giáo của ông cũng lạ: Mẹ ông theo đạo Hòa Hảo, khai mở tâm đạo cho ông là những bài sấm giảng; cha ông theo đạo Cao Đài và ông rất say mê hầu đàn nghe cơ bút giảng dạy. Rồi một hôm, ngồi học bài ở công viên, ông gặp một nữ bác sĩ quân y người Pháp, bà này khuyên ông đến nhà thờ Mỹ Tho gặp cha phó xứ (thuộc Hội Thừa Sai Paris). Ông bắt đầu đến với đức tin Công Giáo như thế.
Hiện nay ông Lâm Võ Hoàng đã ngoài bát tuần, là hiến sinh đang tu dưỡng tại Đan Viện Biển Đức Thiên Phước (thuộc Đan Hội Subiacô, gốc bên Ý), số 18 Đường Số 7, phường Tam Bình, quận Thủ Đức, TpHCM. Ông sức khỏe tốt, chỉ phiền thính lực suy giảm do tuổi tác.
Huệ Khải vài lần có gặp ông Lâm Võ Hoàng trong dịp báo Công Giáo Và Dân Tộc họp mặt cộng tác viên. Qua trò chuyện, tôi thấy rõ ông là người đạo đức, sẵn tinh thần liên tôn từ bé (sinh trưởng trong gia đình liên tôn: mẹ Hòa Hảo, cha Cao Đài). Qua thông tin do thầy Tú Đoàn kể, qua báo chí tường thuật nhân kỷ niệm “ba mươi năm của Nhóm Thứ Sáu” (1986-2016), v.v... tôi cảm nhận rõ thêm ông Lâm Võ Hoàng là người có tài và có tâm, nặng lòng phụng sự dân tộc và không cầu tư lợi. Ông là một nhà tu nhập thế, dẫu lao đao với thế sự mà trước sau vẫn trong sạch và thanh thản, để rồi khi việc xong, chí thỏa, ông nhẹ nhàng trở gót vào đan viện, dành hết những năm tháng cuối đời bên Chúa. Con người ấy, nhân cách ấy, cao quý biết bao!
*
* Hiền huynh Bùi Tấn Nhã. Điện thư ngày 14-6-2017:
(...) Riêng với Huệ Khải tiên sinh, tôi cũng chưa có cơ duyên hạnh ngộ, nhưng đã đọc nhiều tác phẩm của ông, như Giải Mã Truyện Tây Du, chuyên mục liên tôn trên báo Công Giáo Và Dân Tộc, một số sách về đạo Cao Đài xuất bản sau năm 1975. Nhưng ấn tượng đọng lại trong tôi là bài phát biểu, tại hội trường Bảo Tàng Phụ Nữ Nam Bộ nhân đại lễ Khai Đạo Phật Giáo Hòa Hảo 18-5. Tôi không có mặt hôm ấy, và nhờ cô Kim Thoa (Trưởng Ban Đại Diện Phật Giáo Hòa Hảo tại Tp.HCM chuyển cho video clip đại lễ, nhờ vậy mà nghe tiếng và thấy người, cùng toàn văn bài phát biểu. Có thể nói bài văn này đã chinh phục tất cả người nghe, trong ấy có tôi. Khi nhắc đến đây, tôi vẫn nhớ như in, giọng nói từ hòa, trầm ấm, với một văn phong minh triết, nhưng vô cùng khiêm tốn, tiên sinh Huệ Khải đã làm cho tôi xúc động và ngưỡng mộ tột cùng, khi đã “thay lời muốn nói” cho cộng đồng Phật Giáo Hòa Hảo, rằng sự công nhận Phật Giáo Hòa Hảo, dù muộn màng nhưng vẫn tốt, chỉ có điều, thừa nhận Đức Huỳnh Giáo Chủ là nhà yêu nước thì vẫn chưa đúng vị trí của Đấng cứu thế, Đấng tiên tri...([1]) Nói ra điều này hẳn là Huệ Khải tiên sinh muốn có sự khách quan, công bằng cho Phật Giáo Hòa Hảo. Mặc dù ông thừa biết vị Giáo Chủ Phật Giáo Hòa Hảo đã vượt qua cái bản ngã phàm nhân, khi mà Ngài xưng hiệu Khùng Điên và nói “Mặc tình thế sự kêu thằng hay ông”, nhưng tấm lòng mà ông dành cho Phật Giáo Hòa Hảo hôm nay càng sâu đậm hơn ....
Được biết anh Chánh là bạn thân của tiên sinh Huệ Khải, xin phép được qua anh mà chuyển đến ông lời biết ơn chân thành nhất của một tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo ở miền Tây.
Thánh Địa Hòa Hảo, mùa đại lễ 18-5 Đinh Dậu, 2017.
Bùi Tấn Nhã, kính bút.
Huệ Khải: Kính thưa Bùi tiên sinh, sau đây tệ đệ xin gọi tiên sinh là hiền huynh cho thân mật, như cách xưng hô quen thuộc trong cộng đồng tín hữu Cao Đài.
Anh Trần Văn Chánh, ngay sau khi nhận được thư hiền huynh, thể theo nhã ý của hiền huynh đã chuyển ngay lá thư dài dạt dào tình cảm, chan chứa tâm đạo của người viết. Tệ đệ vô vàn cảm kích trước những mỹ ý, thiện cảm mà hiền huynh sẵn dành cho tệ đệ.
Nhà thơ Mỹ Henry Wadsworth Longfellow (1807-1882) từng ví kẻ cầm bút viết văn, làm thơ chẳng khác chi cung thủ bắn mũi tên vào không trung mà chả hề biết mũi tên của mình sẽ ghim vào nơi nào. Lá thư của hiền huynh vì vậy là niềm vui đối với tệ đệ, vì tệ đệ biết mũi tên” của mình may mắn không mất hút vào hư vô.
Những tình cảm chân thật, tự nhiên của tệ đệ đối với Phật Giáo Hòa Hảo một phần là do chánh pháp Cao Đài un đúc từ tuổi đôi mươi suốt tới hôm nay; ngoài ra, còn có yếu tố nữa là những năm tháng thiếu thời sống ở miền quê, gần gũi sinh hoạt của tín đồ đạo Phật Giáo Hòa Hảo.
Thật vậy, thuở bé là học trò trường làng (xã Mỹ Luông, quận Chợ Mới, tỉnh An Giang), tệ đệ chơi thân với đám bạn nhỏ có ba má là tín đồ Hòa Hảo. Ông thân một đứa là thành viên ban trị sự của Phật Giáo Hòa Hảo ở xã; ông lại là bằng hữu của thân phụ tệ đệ (bấy giờ đang theo đạo Phật). Do đó, khi bộ Sấm Giảng Thi Văn Toàn Bộ của Đức Huỳnh Giáo Chủ (Sài Gòn, 1966) vừa phát hành, ông biếu ngay thân phụ tệ đệ một bộ. Đến bây giờ trong ký ức tệ đệ vẫn còn giữ được hình dạng trang bìa thanh nhã của bộ bửu kinh ấy.
Rồi chú bé trường làng và hai đứa bạn nhỏ (gia đình Hòa Hảo) xa nhà qua Long Xuyên lạ lẫm, cùng theo học trường trung học công lập Thoại Ngọc Hầu, cùng ở trọ trên đường Nguyễn Trường Tộ ở chân cầu Hoàng Diệu, cặp theo bờ sông. Ngay đầu hẻm để rẽ vào nhà trọ là một cơ sở khang trang của Phật Giáo Hòa Hảo. Vuông sân mát mẻ nơi đó thường phủ đầy hoa sứ trắng rụng rơi... Hình ảnh ấy cũng là một kỷ niệm thiếu thời, dai bền nơi tâm tưởng.
Kính chúc hiền huynh và bửu quyến an khang. Xin hiệp tâm cầu nguyện Đức Thầy ban ơn phù trì để chánh pháp Phật Giáo Hòa Hảo hoằng dương, bổn đạo Hòa Hảo đâu đâu cũng được hạnh hưởng trọn vị pháp lạc.
*
* Hiền hữu Nguyễn Quang Tín (thánh thất Trung Dương, Lâm Đồng). Điện thư ngày 12-7-2017:
Theo “Tiểu Sử Quan Thánh Đế Quân”, di cảo của đạo trưởng Huệ Lương in trong Sống Đạo Đinh Dậu 4 (Nxb Tôn Giáo, Hà Nội, 2017, tr. 15) có viết “Ngài Vân Trường với con nuôi là Quan Bình (...) bị hại nhằm ngày 18 tháng 10 năm Kiến An thứ hai mươi bốn, thọ đặng 58 tuổi.” Vậy, tại sao ngày vía của ngài lại là 24 tháng 6 âm lịch hằng năm?
 Huệ Khải: Kính thưa hiền hữu, trước hết nên nhớ rằng đồng bào chúng ta thoạt đầu dùng chữ vía để nói tới ngày sinh (birthday) của một đấng thiêng liêng. Về sau, bà con dùng theo nghĩa rộng, cứ ngày kỷ niệm (anniversary) một đấng thiêng liêng thì lại gọi là vía. Chẳng hạn, theo dân gian, Đức Quan Âm có ba ngày vía như sau:
Ngày 19 tháng 02: Vía Quan Âm đản sanh.
Ngày 19 tháng 6: Vía Quan Âm thành đạo.
Ngày 19 tháng 9: Vía Quan Âm xuất gia.
Trở lại ngày vía của Đức Quan Thánh trong tín ngưỡng dân gian và trong đạo Cao Đài, tôi đã trình bày chi tiết trong quyển Quan Thánh Xưa Và Nay (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2013, tr. 93-96; quyển 59-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo). Hiền hữu vui lòng xem lại sách này.
*
* Hiền huynh Biên Nhân (Thạnh Phú, xã Khánh An, huyện An Phú, tỉnh An Giang). Điện thư ngày 20-7-2017:
Tháng trước, tôi được anh Trần Văn Chánh trao tặng quyển Tưởng Nhớ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo thực hiện (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2014).
Gặp sách đã mừng, gặp sách in được chăm chút sạch đẹp mừng hơn, nhưng gặp sách tưởng niệm về một nhà văn hóa Việt có tâm và tầm mà mình từng có dịp kính quý, thì vui và mừng khó tả! Già, lại cư ngụ nơi vùng biên địa mà bao người phải lo cái ăn mặc ở chưa đủ thì ít ai ngó mong chi sách báo, lại sách báo tưởng niệm một người xa lạ giới nông dân thì...
Khoảng 1974, lúc tuổi thanh niên tầm 25 tuổi, tôi đã thỉnh được ông về nhà qua tác phẩm Khổng Học Tinh Hoa(Sài Gòn: nhà sách Khai Trí 1970), mà lúc đó phải nhịn ăn sáng hơn tháng mới đủ tiền mua, nhưng rồi với vốn kiến thức còn nghèo thủa ấy tôi thất vọng về ông! Sau đó qua nguyệt san Đông Phương, Bách Khoa... tôi có được hiểu thêm và "quen, kính nể" về ông, nhưng gần mười năm gần đây qua Internet và hôm nay gặp lại ông qua sách tưởng nhớ ông, tôi mới tạm đủ hối tiếc và tạm đủ kính quý ông - khi ông đã thành người thiên cổ.
Tôi gởi vài dòng này là vì muốn cảm ơn Chương Trình Chung Tay Ấn Tống và những tác giả tưởng nhớ về ông đã cho tôi được cùng tưởng nhớ, dù đã trễ tràng!
Ban Ấn Tống: Kính thưa hiền huynh, chúng tôi rất vui và cảm kích những lời chứa chan tình cảm của một bạn đọc đồng điệu như hiền huynh, nhất là một bạn văn ở nơi biên địa như hiền huynh tự giới thiệu.
Hiền huynh tỏ rõ lòng hân thưởng quyển Tưởng Nhớ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ” khiến chúng tôi lòng vui không ít mà ngậm ngùi cũng nhiều, bởi lẽ quyển sách này là một trong những nhan đề mà chúng tôi bị tồn đọng, đến nay số sách cũ hãy còn nhiều! Thú thật như vậy để hiểu vì sao lá thư hiền huynh gởi làm chúng tôi vui và biết ơn lắm. Kính chúc hiền huynh an lạc.
*
* Hiền tỷ Đinh Thanh Út (xã Thới Thạnh, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre). Tin nhắn ngày 23-7-2017:
Vui lòng cho đạo muội hỏi chín mươi hai ức nguyên nhân, cụ thể là bao nhiêu vị? Đạo muội cảm ơn Văn Uyển.
Huệ Khải: Kính thưa hiền tỷ, trong bài Hỗn Độn Tôn Sư, càn khôn chủ tể có câu Cửu thập nhị tào chi mê muội, tức là nhắc tới chín mươi hai (cửu thập nhị) ức nguyên nhân. Một ức ngày xưa tính là mười vạn (10x10.000), hay một trăm ngàn (100.000). Như vậy chín mươi hai ức là chín triệu hai (92x100.000 = 9.200.000).
Ngày nay, một ức là một vạn lần một vạn (10.000x10.000), tức là một trăm triệu (100.000.000). Như vậy, chín mươi hai ức là chín tỷ hai (92x100.000.000 = 9.200.000.000).
Theo Liên Hiệp Quốc, dân số thế giới tính tới ngày 31-12-2011 là bảy tỷ. Theo Đồng Hồ Dân Số Thế Giới (World Population Clock) hiện nay dân số thế giới là khoảng bảy tỷ rưỡi (www.worldometers.info/world-population).
Do đó, chín mươi hai ức (nguyên nhân) nên hiểu theo xưa, tức là chín triệu hai.
*
* Hiền hữu Trần Thanh Tạo (quầy kinh sách ấn tống ở Tam Kỳ, Quảng Nam). Điện thư ngày 24-7-2017:
Qua hai tháng hoạt động, quầy kinh sách ấn tống ở Tam Kỳ đã phát hành được một số lượng kinh sách, chủ yếu cho các thành phần sau:
- Phổ Tể và các họ đạo: Phát hành các đầu sách mới do Chương Trình Chung Tay Ấn Tống gởi về và sách phục vụ nghiên cứu thuyết trình.
- Tín hữu mới nhập môn (loại kinh sách riêng).
- Khách thập phương ghé quầy thỉnh kinh sách (khoảng hai mươi người).
- Khách thông qua Internet xin thỉnh sách: ba người.
Thông qua kết quả phát hành nói trên, chúng đệ muội biết được hai đạo tâm có ý nguyện nhập môn nên đã thông tin về cho họ đạo gần nhất để tìm cách hướng dẫn.
Các hoạt động của quầy vẫn tiếp tục triển khai tốt.
Đạo đệ kính chia sẻ thông tin để Chương Trình Chung Tay Ấn Tống cùng vui với quầy phát hành ở Tam Kỳ...
Ban Ấn Tống: Kính thưa hiền hữu, chúng tôi rất vui khi nhận được tin tức tốt đẹp do hiền hữu chia sẻ. Như vậy, công việc pháp thí đã có chút hoa trái đầu mùa”. Chúng tôi tin rằng với lòng nhiệt thành chăm lo quầy phát hành kinh sách ở Tam Kỳ, quý hiền sẽ gặt hái thêm nhiều kết quả hơn nữa. Chậm mà chắc. Luôn luôn có các Đấng và nhất là Liệt Thánh Tông Đồ miền Trung phù trợ chúng ta. Kính chúc hiền hữu và các đồng sự an hảo, quầy phát hành kinh sách ở Tam Kỳ được phát triển. Chúng tôi rất hân hạnh được sát cánh cùng quý hiền.
*
* Hiền huynh Trương Văn Ba (Long An). Điện thư ngày 04-8-2017:
Tôi có đọc Bài Thơ Xuống Núi” in trong Văn Uyển tập 23, và nhớ tới lời của Bạch Tẫn Lão Nhơn in trong cuốn Dưỡng Chơn Tập (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2012). Ngài Bạch Tẫn chẳng những xem sắc đẹp đàn bà đối với người tu thiền (hành giả) là cọp mà còn gọi đó là quỷ, là rắn, là trộm cướp. Ngài Minh Thiện dịch như sau:
Người đều sợ quỷ, duy không sợ thứ quỷ đội lốt [quỷ đội lốt giai nhơn, ý nói người đàn bà đẹp] ở trong nhà, nó câu thần hồn con người. Người đều sợ cọp, duy không sợ thứ cọp ngủ chung với mình trên giường, nó ăn cốt tủy con người. Người đều sợ rắn, duy không sợ thứ rắn bao quấn người trong mền, nó hút khí huyết con người. Người đều sợ trộm cướp, duy không sợ thứ trộm cướp đoạt khí dương ban đêm, nó hại tánh mạng con người. Sắc nó hại người lớn lắm thay!(trang 73)
Bài thơ Nhị bát giai nhân” in trong Văn Uyển tập 23 không nói ai là tác giả, nhưng theo Dưỡng Chơn Tập” (sách đã dẫn, trang 74) thì tác giả là Đức Lữ Động Tân. Đáng nói hơn nữa là bốn câu trong Bài Thơ Xuống Núi và bốn câu trong Dưỡng Chơn Tập” lại không giống nhau. Đó là chi tiết tôi thắc mắc, muốn nêu ra với Văn Uyển.
Dũ Lan: Kính thưa hiền huynh, quả là Dưỡng Chơn Tập (bản in 2012) nói rằng tác giả bài thơ Nhị bát giai nhân” là Đức Lữ Tổ (Lữ Động Tân). Một số tài liệu khác cũng nói như vậy, nhưng cũng không ít tài liệu chỉ nhắc tới bài thơ mà không nói rõ ai là tác giả. Vì vậy, tệ đệ dè dặt, chỉ viết từ xưa tới nay còn lưu truyền bốn câu thơ”: Nhị bát giai nhân, thể tợ tô / Yêu gian trượng kiếm trảm ngu phu / Tuy nhiên bất kiến nhân đầu lạc / Ám lý giao quân cốt tủy khô. (Lẽ ra tệ đệ nên nói thêm: Tương truyền tác giả là Đức Lữ Tổ.)
Bài thơ trong Dưỡng Chơn Tập (bản in 2012) có ba từ khác hơn như sau: Nhị bát giai nhân, thể tợ tô / Yêu huyền lợi kiếm trảm ngu phu / Tuy nhiên bất kiến nhân đầu lạc / Âm lý giao quân cốt tủy khô.
Bốn câu tệ đệ dẫn trong Bài Thơ Xuống Núi” dường như phổ biến hơn cả (qua truy tầm trên Google). Tuy nhiên, lại thấy không ít dị bản. Như câu hai, có bản chép:
腰中仗劍斬愚夫: Yêu trung trượng kiếm trảm ngu phu.([2]) (Trong lưng đeo kiếm chém trai ngu.)
Hoặc có bản khác chép câu hai và câu bốn như sau:
腰肢如劍斬凡夫 / 暗里叫君精神枯: Yêu chi như kiếm trảm phàm phu / Ám khiếu quân tinh thần khô.([3]) (Sống lưng giống như kiếm chém kẻ tầm thường / Bên trong ngầm làm cho chàng bị khô tinh thần.)
Bốn câu trong Dưỡng Chơn Tập thì giống với một bản khác nữa,([4]) và bản ấy cũng cho tác giả là Đức Lữ Thuần Dương (Lữ Tổ):
二八佳人體似酥 / 腰懸利劍斬愚夫 / 雖然不見人頭落 / 暗里教君骨髓枯 : Nhị bát giai nhân, thể tợ tô / Yêu huyền lợi kiếm trảm ngu phu / Tuy nhiên bất kiến nhân đầu lạc / Ám lý giao quân cốt tủy khô.
Huyền là treo. Lợi kiếm là gươm sắc bén. Vậy câu hai nghĩa là: Lưng đeo gươm bén chém trai ngu.
Riêng câu bốn, các bản tìm thấy (như dẫn trên) đều viết là ám . Vậy, bản in Dưỡng Chơn Tập 2012 (không có chữ Hán kèm theo) rất có thể đã ghi nhầm chữ ám thành chữ âm khi người sau sao chép văn bản xưa của ngài Minh Thiện chăng?
*
* Hiền hữu Châu Kim Lan (Ninh Kiều, Cần Thơ). Thư ngày 24-8-2017:
Cháu thấy trên Internet khi nói về tiên tri Cao Đài xuất thế hay nhắc câu Cao Đài tiên bút thi văn tự”. Nhưng xem sách thì thấy có người viết Cao Đài tiên bút thơ văn tự”. Cháu bèn hỏi một vị đạo trưởng quen biết thì vị ấy bảo rằng câu Cao Đài tiên bút thi văn tự” gồm bảy từ Hán-Việt, vậy rất đúng. Thi văn tức là thơ phú văn chương. Vị ấy quả quyết câu Cao Đài tiên bút thơ văn tự” chắc chắn sai, vì thơ là từ thuần Việt, không thể lọt vào một câu đọc theo âm Hán-Việt được. Cháu nghe giảng như vậy mà lòng vẫn chưa hết phân vân. Kính mong Văn Uyển giải thích giúp cháu ạ.
Huệ Khải: Chào hiền hữu. Hiền hữu quả là thận trọng với chữ nghĩa. Nếu phần đông bà con Cao Đài của mình cũng đều có đức tính này giống như hiền hữu thì sách vở (thư tịch) Cao Đài sẽ bớt đi rất nhiều lỗi sai đáng tiếc.
Trước hết, xin xác định rằng câu Cao Đài tiên bút thi văn tự” là SAI. Câu ĐÚNG phải là Cao Đài tiên bút thơ văn tự”. Tại sao vậy?
Chữ THƯ người miền Nam quen đọc là THƠ. Cho nên ngoài Bắc bảo THƯ SINH 書生, THƯ PHÒNG 書房, THƯ TÍN 書信, VĂN THƯ 文書, v.v... thì trong Nam nói THƠ SANH, THƠ PHÒNG , THƠ TÍN, VĂN THƠ, v.v...
Nói cách khác, chữ THƯ/THƠ này chẳng liên quan gì tới chữ THI/THƠ theo nghĩa bài thơ (poem).
Câu Cao Đài tiên bút thơ văn tự” vì vậy còn viết là Cao Đài tiên bút thư văn tự”. Câu này vốn nằm trong một bài kinh xưa của đạo Lão (Trung Quốc), dùng để tụng đọc mỗi khi lập đàn cơ thỉnh Tiên. Nguyên văn: 高臺仙筆書文字 ...
Giải thích từng từ trong câu như sau:
Tiên bút: Bút tiên, ngọn cơ (chữ Nho là ; cầu cơ là phù kê 扶乩, người miền Nam đọc là phò cơ).
Thư: Nghĩa là viết (writing). Thư pháp 書法 là nghệ thuật viết chữ đẹp (caligraphy).
Văn tự: Chữ viết (characters, script).
Cao Đài tiên bút thư văn tự: Bút tiên Cao Đài viết ra chữ.
Qua câu hỏi của hiền hữu, chúng ta liên tưởng tới thực trạng chữ nghĩa trong sách vở Cao Đài xưa nay rất đáng lo ngại, nhất là với phương tiện Internet thời @. Đơn cử, câu Cao Đài tiên bút thi văn tự” viết sai, giảng sai có thể tìm thấy khoảng 78 lần trên Internet.
Nhiều đạo hữu chúng ta tuy viết tiếng Việt còn quá sai chánh tả, lại hay ngộ nhận về các từ Hán-Việt, nhưng có thừa nhiệt tâm tự phổ biến các bài viết của mình lên Internet (blogs, facebook, v.v...). Các sai lầm chữ nghĩa như thế khiến cho người ngoài đạo Cao Đài hoặc không hiểu đúng Đạo Thầy, hoặc dễ đem lòng thiếu tin cậy thư tịch nhà Đạo chúng ta.
Tự đăng bài lên Internet (blogs, facebook, v.v...) là một cám dỗ của thời @. Tự đăng bài viết của mình trên Internet mà không có người thạo việc giúp biên tập câu văn, sửa lỗi chánh tả, sửa từ dùng sai... thì tai hại chẳng ít. Ngôn ngữ là lợi khí truyền giáo. Có lòng hăng say viết lách để truyền giáo mà không trau giồi, mài giũa tiếng Việt cho tinh xác, sắc sảo thì chẳng khác gì người lính xông pha bảo vệ đất nước với gươm cùn, giáo lụt, súng ống rỉ sét. Bởi vậy, nhận được câu hỏi của hiền hữu, chúng tôi hoan hỷ được thấy thêm một đồng đạo có đức tính cẩn thận chữ nghĩa như hiền hữu. Quý mến.




([1]) Xem thêm Huệ Khải, Nhịp Cầu Tương Tri. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2013, tr. 216. (Văn Uyển chú)
([2]http://www.xys.org/forum/db/2/77/84.html
([3]http://www.ximalaya.com/1016942/sound/4632704
([4]http://blog.sina.com.cn/s/blog_4c5f5df80102dqtm.html