Thứ Năm, 9 tháng 5, 2019

CÒN LẠI TRONG TÔI / Đạo Uyển 31


CÒN LẠI TRONG TÔI
Nhà tôi ở cạnh bờ sông
Bên kia nỗng cát mênh mông biển trời
Đêm nghe tiếng biển gọi mời
Sóng trùng dương vẫn vọng lời thâm u
Những hôm sông nhớ mùa thu
Nước buồn quên chảy để mù sương giăng
Thuyền buồn nằm đợi bóng trăng
Tôi buồn ngắm cánh sao băng lưng trời
Trong tôi biển vẫn gọi mời
Vẫn âm ỉ sóng suốt thời tuổi thơ
Dù khi xa biển đến giờ
Xa sông nước mặn, xa bờ tre xanh
Chiều không khói biếc xây thành
Chỉ toàn núi trọc, đâu gành bãi xưa
Đâu rồi giọng hát đò đưa
Trả lại tôi cái-quê-mùa người ơi!
Tôi ôm kỷ niệm một thời
Đi vào giấc ngủ, vào trời thi ca
Dẫu cho mòn mỏi tuổi già
Vẫn yêu Thơ – Đạo như là quê hương.
TRẦN DÃ SƠN
08-5-2019

Thứ Bảy, 4 tháng 5, 2019

TRẦN VĂN CHÁNH: ĐỌC THƠ NGƯỜI ÁO TRẮNG


Trần Văn Chánh (nhà hàng chay Hoa Khai,
Sài Gòn: 19-10-2016). Ảnh: Dũ Lan


ĐỌC THƠ NGƯỜI ÁO TRẮNG

Anh bạn Huệ Khải (người chủ biên tập Thơ Người Áo Trắng này) ghé nhà chơi, trao cho bản thảo tuyển tập thơ mà anh cho biết đang chuẩn bị in trong Chương TrìnhChung Tay Ấn Tống, đề nghị tôi viết mấy lời giới thiệu. Chương trình này tôi đã từng biết đến từ lâu rồi, nhưng thật tình, khi nghe nói thế, cảm giác đầu tiên của tôi là bối rối, định tìm cách nói quanh để tránh né nhưng chưa kịp tìm ra câu diễn đạt sao cho vừa có tính thuyết phục cao, vừa không phụ lòng tin cậy của bạn.
Lý do, phần vì bận, nhưng phần khác quan trọng hơn, tôi thật sự lúng túng chưa biết sẽ viết cách nào, bởi tự biết bản thân không có sở trường về làm thơ cũng như thưởng thức, phân tích thơ. Phần khác nữa, khi nghe nói đến thơ của anh em đạo Cao Đài, khởi đầu tôi có ý hơi ngờ vực, vì đã quen theo lối nghĩ, thơ văn của các tín hữu Cao Đài thường chỉ là những câu chữ ghép lại cho có vần, vốn được coi như hình thức hay phương tiện để rao giảng đạo đức, truyền bá giáo lý, cốt sao cho các đồng đạo dễ thuộc dễ nhớ, chứ về mặt văn chương, nghệ thuật thì các tác giả ấy dường như cũng chưa quan tâm đến mấy.
Nghĩ vậy, nhưng một khi vì lý do tế nhị này khác không thể từ chối được thì phải nhận, và phải đọc!
Chỉ sau vài ngày, luồng suy nghĩ như trên của tôi đã có phần thay đổi, khi tự buộc mình phải tạm gác lại mọi định kiến để lật giở từng trang thơ thưởng thức. Đọc qua mới thấy, thơ của anh em đạo Cao Đài ngày nay đã có nhữngnét thanh tân đặc biệt, khác hẳn với lối thơ ca giảng đạo như tôi đã biết. Ngẫm kỹ lại thì tình hình tốt đẹp này cũng có những lý do rất tự nhiên thôi, trước hết do bối cảnh thời đại bây giờ có khác. Với lại, một cách căn bản hơn, một người dù đi theo tín ngưỡng nào cũng đều tồn tại cùng lúc với nhiều nhân cách khác nhau, là tín đồ Cao Đài nhưng cũng là người cha, người mẹ, người bạn, người con; khi theo đuổi một nghề nghiệp nào đó thì họ còn là cô hay chú sinh viên, ông bác sĩ, thậm chí người hốt rác, anh bán vé số… với tâm tư tình cảm và sự rung động giống như hết thảy mọi người, vậy đâu có bất kỳ sự giới hạn nào để bảo họ không thể làm thơ hay được.
Nhưng làm thơ hay hoặc chưa hay là do ở tư tưởng, tình cảm, độ thấm sâu rung cảm trước những sự vật và tình huống cuộc sống, cộng với năng khiếu biểu đạt bằng những câu chữ được kết nối khéo léo rồi phát ra một cách tự nhiên với ý vị văn chương, nghệ thuật. Nếu thiếu tình cảm chân thật, bài thơ không thể truyền được sự xúc cảm sâu xa nơi lòng người khác. Tất nhiên vẫn không thể loại trừ vai trò của kiến thức, kinh nghiệm, ít nhất cũng một số kiến thức tối thiểu về cách gieo vần chẳng hạn, nhưng để làm thơ hay không thể chỉ thông qua sự truyền thụ kiến thức – kỹ năng như những môn học khác mà làm được, cho nên một ông tiến sĩ văn chương vẫn có thể làm thơ dở ẹc, không bằng một người bình dân ít học mà có năng khiếu, tư tưởng tình cảm dạt dào phong phú.
Nghĩ vậy rồi, tôi bắt đầu giở vô những trang đầu tiên, thấy bài Không Đề của Cát Tường:
Tôi là cây cỏ
Người là hướng dương
Ai đâu thấu tỏ
Cỏ cũng như người.
Bài thơ dường như có một chút gì gọi là “đạo vị”, đọc lên cảm thấy lâng lâng man mác, mà không cần nhắc tới những chữ như Đạo, Thượng Đế, Cao Đài… trong đó.
Đến cuối tập, lại thấy xuất hiện một bài trùng tên Không Đề, nhưng của tác giả khác, Võ Văn Pho, với bốn câu thơ vần điệu hoàn chỉnh, lời lẽ bình dị nhưng ý tứ thanh thoát, mô tả được thái độ ung dung đạt quan của một người hiểu đạo trước hiện thực cuộc sống vốn dĩ đa tạp và đầy những tình huống gay go bất như ý:
Nổi chìm cũng thể cuộc chơi
Bấp bênh là những nẻo đời buồn vui
Díu dan mấy bận khóc cười
Ngẩng nhìn mây trắng bên trời lang thang.
Tên tập thơ đã cho thấy thành phần tác giả và khuynh hướng chung về tư tưởng của họ. Lẽ tất nhiên, với người có lý tưởng và tình cảm tôn giáo sâu đậm mà làm thơ, như nhiều tác giả trong tập thơ này, thì nội dung thơ có khác hơn so với người không tôn giáo gì cả. Trong thơ của họ nói chung ít khi thoát ly khỏi những yếu tố mang màu sắc tôn giáo, với bóng dáng của thánh thất, xóm đạo, hoạt động tu tập, thánh lễ, việc cầu kinh, hành thiền, mùi đạo, lòng từ bi vị tha, tình cảm đối với Thầy và đồng đạo, lẽ vô thường, lẽ sống theo quan điểm tôn giáo đã được tín ngưỡng… Nhưng trên hết là hoài bão thiết tha vươn tới bằng sự kiên trì tu tập được chỉ dẫn bởi các bậc tôn sư để vượt thoát những cái tầm thường trong cuộc đời nhằm vào lý tưởng hiện thực hóa một đời sống viên mãn thánh thiện cho bản thân mình và cho những người khác, trong một thế giới khoan dung, hòa bình, an lạc.
Bài Thơ Thiên Đạo Đại Thừa của Hàn Ngọc đã nói lên một cách khá rõ lý tưởng của người tu đạo Cao Đài:
Bài thơ thiên đạo đại thừa
Là thơ đã dứt nắng mưa trong lòng
Ý thơ vượt khỏi thời không
Tình thơ phá chấp giữ lòng như như
. . .
Nên thơ thiên đạo đại thừa
Là thơ thoát tục, là vừa tình thương.
Ước mơ về một thế giới đại đồng, vốn là lý tưởng của Đại Đạo, trong đó mọi người đều chung sống đoàn kết thương yêu nhau, đã được bày tỏ một cách thiết tha trong bài của Huyền Chơn:
Trong mơ ta thấy Thiên Đường
Dựng nơi lòng một phố buồn đài trang
Qua rồi cảnh ngộ hèn sang
Kẻ giàu người khó rộn ràng nhục vinh
Trời xanh, xanh sắc thanh bình
Anh em chỉ biết nhận nhìn nhau hơn.
Cùng một ý tưởng như vậy, nhưng được diễn tả một cách duyên dáng, dễ thương bằng thứ ngôn ngữ giàu âm thanh, nhiều chất thơ và hình tượng nghệ thuật hơn, mà người đọc, nhất là tín hữu trong Đạo, không thể không xao xuyến nhẹ nhàng theo từng câu thơ của Kim Anh trong bài Tâm Ca Áo Trắng:
Dịu dàng áo trắng chung chiêng
Em về thánh thất tịnh nhiên cõi lòng
Chắp tay nguyện giữa thinh không
Từ bi hoa nở kết vòng yêu thương.
Hẹn nhau chung một con đường
Đại đồng thế giới mười phương hòa bình
Thiết tha vun cội nhân sinh
Gieo trồng quả phúc hiện tình Chí Tôn.
Đọc hai câu Dịu dàng áo trắng chung chiêng / Em về thánh thất tịnh nhiên cõi lòng và mường tượng một cô gái có bóng dáng thon thả đi lễ thánh thất trong bộ áo dài trắng thướt tha, sẽ không ai dám chắc mình chẳng bị một phút chạnh lòng rung động nhưng với một tình cảm tôn giáo thuần nhiên cao khiết không vương mùi tục lụy…
Nỗi khắc khoải về vũ trụ nhân sinh, thân phận con người trong thế giới biến ảo vô thường, và từ đó cần khẳng định cho mình một sự lựa chọn dứt khoát theo hướng tu hành tìm phương giải thoát, dường như là một trong những nội dung quan trọng được nhiều tác giả lặp đi lặp lại ở rất nhiều bài thơ trong suốt toàn tập, như ở bài Hỏi của Nguyễn Quốc Huân:
Đợi rảnh rỗi ta lại về hỏi cỏ
Sắc thu vàng đầu ngõ đã ươm chưa
. . .
Chưa rảnh rỗi ta vẫn về tự hỏi
Ta là ai trong vạn kiếp phù sinh?
Đường thiên lý loanh quanh chùn chân bước
Phút tâm an ta chợt gặp chính mình…
Hoặc bài Từ Thuở Làm Người của Trần Dã Sơn:
Hỏi rằng sinh ở nơi đâu?
Thưa từ cơ ngẫu ban đầu mà ra
. . .
Hỏi rằng ta vẫn là ta?
Thưa lăn lóc lắm, phôi pha đã nhiều
. . .
Bây giờ gặp hội Thiên khai
Bây giờ nương bóng Cao Đài mà tu.
Tuy nhiên, không phải bài nào trong cả tập thơ cũng nói lên hoài bão, lý tưởng cao xa, hay luận bàn vũ trụ nhân sinh bí mật, trái lại vẫn có không ít bài thơ chỉ mô tả những việc đời thường trong cuộc sống hằng ngày, nhưng bài nào cũng thấm đẫm mùi đạo vị, giàu tình cảm, như khi Nam Hồ mô tả tiếng chuông chiều trong xóm đạo:
Vầng dương gác phía non ngàn
Hương trầm thơm dịu tỏa lan xóm nghèo
Lời kinh nhịp phách thân yêu
Hồn dâng theo tiếng chuông chiều Thiện Gia.
Rồi cũng chỉ những tiếng chuông, sân chùa, câu kinh… đó, nhưng đã được Võ Văn Pho nâng lên, thi vị hóa khéo đến tuyệt đỉnh, với một tâm thức đầy lãng mạn, trong bàiSáng Nay, đặt ở vị trí cuối tập:
 Lá sương đẫm tiếng chuông ngân
 Hàng cây thức giấc phân vân như là
 Sân chùa chẳng phải hôm qua
 Câu kinh cũng mới như vừa sáng nay
 Hướng lòng nguyện đón một ngày
 Nghiêng theo cánh gió đầy tay bụi hồng
 Tôi cầm tôi với mênh mông
 Đón bình minh gọi bềnh bồng ra đi …
Nội dung phong phú đa dạng nhưng chất lượng nghệ thuật không đều có lẽ là điều khó lòng tránh khỏi cho tập thơ này, bởi đây là một “hiệp tuyển” của nhiều tác giả ở những độ tuổi, thế hệ khác nhau, nhưng dường như đã có dấu hiệu xuất hiện một thứ lãng mạn Cao Đài Giáo bàng bạc trong tất cả những bài thơ được tuyển chọn, và điều đó cho phép chúng ta xác tín trong tương lai sẽ có một nền văn chương – văn hiến – văn hóa Cao Đài mang tính đặc thù của người Việt, hoàn toàn tương xứng với khả năng phát triển ngày càng sâu rộng của tôn giáo Cao Đài.
Về mặt hình thức, thơ trong tập Thơ Người Áo Trắngthuộc nhiều thể loại khác nhau với thủ pháp nghệ thuật biểu hiện đa dạng. Nhiều nhất có lẽ là thơ lục bát sở trường của người Việt, dễ phổ biến, rồi đến thất ngôn, bát ngôn, thơ tự do. Đây không phải chỗ để phân tích dài dòng về đặc điểm nghệ thuật của các bài thơ, mà muốn làm việc này tôi tự cảm thấy cũng không đủ khả năng chuyên môn. Chỉ xin nói lên rằng, nếu gọi thơ Cao Đài thì đây đúng là một tập thơ Cao Đài mang tính hiện đại với trình độ nghệ thuật tương đối cao, mang lại cho người đọc một sự cảm thông dễ chịu dù người đọc đó không phải là thành viên của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
Vì thế tôi đã hết do dự khi viết những dòng như trên, vừa để chìu theo được yêu cầu viết giới thiệu của ông bạn Huệ Khải, vừa thành thật bày tỏ mối thiện cảm của người ngoại đạo đối với một hiệp tuyển thơ có thể coi là đầu tiên của những nhà thơ là tín hữu đạo Cao Đài tại Việt Nam.
 16-7-2013
TRẦN VĂN CHÁNH

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2019

NHÀ TU VÀ TU SINH / Đạo Uyển 31




NHÀ TU VÀ TU SINH
Nhà tu là thân cây
Tu sinh là cành lá
Cành lá muốn được sống
Phải bám vào thân cây
Cành nào không bám thân
Thì sẽ bị khô lìa.
Nhà tu có pháp tu
Nhà tu có quy chế
Tu sinh muốn giải thoát
Lo bám chặt vào đây
Tu sinh không bám giữ
Tự đánh mất lấy mình
Biết bao giờ thoát khổ
Luân hồi mãi luân hồi.
Tu sĩ PHẠM VĂN LONG
(trích Kỷ yếu lễ khánh thành nhà tu Trí Huệ, thuộc Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, Tam Kỳ, Quảng Nam, 24-02-2019)

LỜI XANH / Đạo Uyển 31




LỜI XANH
bỗng sáng nay
thấy thơ đùa bên lá
trẩy hội xanh
mơn mởn líu lo non
đôi vàng úa
nhẹ nhàng về với đất
hồn nhiên rơi
quên cả chuyện mất còn.
thanh thản đến
lừng thơm từng sợi nắng
bước gió se
ru khe khẽ con đường
chú chim sẻ
ngác ngơ đâu bay tới
thả vào mai
tiếng hót biếc yêu thương.
thơ mê mải
cùng cỏ sương ẩn mật
tắm lời xanh
ngào ngạt lối nghiêng chào
lòng bụi bặm
chợt nhận ra lẽ thật
an lạc nơi mình
hà tất hẹn chiêm bao!
VÕ VĂN PHO

ĐỀN SÒNG QUÊ TA / Đạo Uyển 31



ĐỀN SÒNG QUÊ TA
Em có về Bỉm Sơn, Thanh Hóa
Nhớ ghé Đền Sòng
Nơi thờ Thánh Mẫu Vân Hương
Huyền tích xưa
Người con gái phi thường
Hiếu để, thiện lương, thủy chung, bất khuất
Vân vũ giáng thăng
Phú thi chuẩn mực
Khát vọng giúp người, xây đắp non sông
Vong kỷ, ái tha
Nam nữ chung đồng
Chỗ dựa, niềm tin
Muôn đời ngưỡng vọng
Ta nơi đây
Bao nỗi niềm lắng đọng
Màu nhân sinh
Mong ngóng, đợi chờ
Lịch sử Tiên Rồng, Quốc Mẫu Âu Cơ
Truyền thống dân ta con Hồng, cháu Lạc
Liễu Hạnh Mẫu Nghi đời đời bia tạc
Phủ Giày, Phố Cát…
Cả Bắc, Trung, Nam
Miên man
Nẻo Thánh, lối phàm
Đường Tiên, cõi tục
Những hướng về cội nguồn dân tộc
Kế thừa văn hóa tinh hoa…
Em có về quê ta
Nhớ ghé Đền Sòng
Bỉm Sơn
Thanh Hóa.

ĐỖ THỊ KẾT

TÌNH KHÚC MÙA THU / Đạo Uyển 31



TÌNH KHÚC MÙA THU
Mùa thu vừa đến chả bao lâu
Êm như sợi khói mới lên màu
Lung linh một thoáng tơ vàng nhẹ
Đủ buộc người vào với bể dâu
Thương con nắng mỏng ngủ hiên nhà
Quên tháng ngày dài lặng lẽ xa
Chợt thấy bao mùa hương sắc cũ
Vì đâu sương gió để phôi pha
Có phải người về giữa chiều nay
Thời gian rắc bụi xuống vai gầy
Thu ơi! Ai phổ nên cung bậc
Sao giọng ca buồn như nước mây
Ô hay! Vàng thu dâng mênh mông
Tình thu lai láng chảy trong lòng
Ví như còn nhớ người xưa ấy
Xin dẫn nhau về chốn cửa không.
Họ đạo Trung Phước An, Krong Păk, Đắk Lắk
TRẦN DÃ SƠN

NGUYỆN CẦU / Đạo Uyển 31



NGUYỆN CẦU
Ta còn để lại gì không?
Kìa non đã lở, này sông cát bồi
Lang thang từ độ luân hồi
U minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trông ra bến hoặc bờ mê
Nghìn thu nửa chớp, bốn bề một phương
Ta van cát bụi bên đường
Dù nhơ dù sạch đừng vương gót này
Ðể ta tròn một kiếp say
Cao xanh liều một cánh tay níu trời
Nói chi thua được với đời
Quản chi những tiếng ma cười đêm sâu
Tâm hương đốt nén linh sầu
Nhớ quê dằng dặc ta cầu đó thôi
Ðêm nào ta trở về ngôi
Hồn thơ sẽ hết luân hồi thế gian
Một phen đã nín cung đàn
Nghĩ chi còn mất, hơi tàn thanh âm.
VŨ HOÀNG CHƯƠNG (1916-1976)
Trích trong tập thơ Rừng Phong
(Sài Gòn: Nxb Phạm Văn Tươi, 1954)

Hồi âm Tú Anh / Gió Bốn Phương


Gió muốn thổi đâu thì thổi. GIOAN 3:8


@ Hiền muội Nguyễn Thị Tú Anh (Cơ Sở Đạo Thanh Hóa, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài, thị trấn Tĩnh Gia, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa). Điện thư ngày 28-4-2019:
Trong bài thánh thi ban trao tại Minh Lý Thánh Hội (Sài Gòn), Tuất thời, ngày 21-7 Mậu Thân (Thứ Tư 14-8-1968), Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Thời xưa đã lắm kẻ ra đi
Một gánh san hà, một túi thi
Gõ phách hát câu an Chiến Quốc
Nhịp cần đợi vó hội tương tri
Non sông gởi gắm tình trăm họ
Đạo pháp mong chờ nghĩa nhứt vi
Nhả hết tằm tơ cho xứng phận
Gian lao đã có Đấng từ bi.
Kính nhờ Đạo Uyển giúp con hiểu nghĩa bài thơ này. Con rất cảm ơn ạ.
Huệ Khải: Chào hiền muội. Từ lúc tạm rời Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo trở về quê nhà, hiền muội luôn hăng say góp tâm sức vào Cơ Sở Đạo Thanh Hóa, đặc biệt là dịp lễ vừa qua - kỷ niệm mười năm thành lập Cơ Sở Đạo Thanh Hóa (15-3 Kỷ Sửu, 2009 / 15-3 Kỷ Hợi, 2019). Tôi vui lắm khi xem những hình ảnh và tin tức tốt lành được chia sẻ qua Facebook của hiền muội.
Bài thất ngôn bát cú luật bằng vần bằng của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư quả thật không dễ hiểu ngay, nhất là cặp thực (câu 3-4) và cặp luận (câu 5-6).
Tôi thử trình bày cách tôi hiểu nơi đây và mong ước quý đạo hữu gần xa nếu thấy tôi nhầm lẫn, sai sót thì vui lòng góp ý để tôi được dịp học hỏi thêm. Tôi chân thành cảm ơn trước.
Để cùng tìm hiểu bài thánh thi, chúng ta cần xác định Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy các vị nào bài này? Và dạy trong trường hợp nào?
Hôm ấy (14-8-1968) dư chấn biến cố Tết Mậu Thân vẫn còn. Nỗi đau đớn, thống khổ vì mất mát người thân, tan nát cửa nhà, tiêu tan sản nghiệp hãy còn giày vò quá đông, quá nhiều đồng bào, đồng đạo ở các tỉnh thành. Do đó, Ơn Trên dạy các bậc hướng đạo Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (mới được Đức Chí Tôn thành lập năm 1965) hãy tổ chức phái đoàn đi thăm hỏi, an ủi, giúp đỡ đồng bào, đồng đạo sau cuộc binh lửa khốc liệt đầu xuân.
Trước khi ban trao bài thánh thi, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Bần Tăng gởi tặng phái đoàn Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý đi thăm viếng đồng bào, đồng đạo các tỉnh miền Nam một bài thi thân hữu.
Sau khi ban trao bài thánh thi, Đức Thiền Sư ân cần khuyến dụ thêm:
Đã là sứ đồ,[1] khá hiểu câu “Nghịch hành ấy là bổn phận”, nghĩa là: Thấy những cái mà thường nhân không muốn thấy, hiểu những điều thường nhân không dè để mà hiểu, nói những lời thường nhân không từng nói, và làm những điều thường nhân không thích làm.
Bần Tăng mong rằng một chuyến Nam du của phái đoàn có khác hơn một chuyến Tây du của Tam Tạng về phương diện Tam Tạng đi thỉnh kinh, còn phái đoàn lại đi tứ kinh, tứ tình thương, và thâu thập mọi kinh nghiệm vui buồn trong quá khứ để làm đề tài hành đạo ngày mai.
Chư Thiên mạng, chư hiền hữu đạo tràng! [2] Hôm nay, thật là một sự bất ngờ cho chư vị hội ngộ Bần Tăng, nhưng có bất ngờ mới có lý thú và mối tình sâu sắc nhứt đã gợi lại trong thời quá khứ trên tình dân tc và đo pp.
Những chữ gạch dưới là tôi nhấn mạnh, để chúng ta cùng lưu ý trước khi bàn tới cặp luận (câu 5-6).
Ghi chú: Tứ là ban trao, trao tặng (conferring, bestowing, granting). Tứ kinh là trao tặng kinh (hay thánh giáo). Tứ tình thương là đem tình thương trao gởi những người khổ đau, kém may mắn thể hiện qua thuốc men, tiền bạc, phẩm vật các loại để cứu trợ.
Bằng lời khuyến dụ trên, Đức Thiền Sư hàm ngụ trong đó nhiệm vụ các bậc hướng đạo Cao Đài trong chuyến Nam du (từ Sài Gòn đi đến các tỉnh thành miền Nam).
Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu từng câu thánh thi.
* Câu 1: Thời xưa đã lắm kẻ ra đi.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư nhắc tới người thời xưa là để khuyên người thời nay biết noi gương cũ. Phái đoàn Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý sắp thực hiện chuyến Nam du không phải để vui chơi nhàn tản, mà là để tuân lịnh Ơn Trên, đem tình thương, tình đạo đến với bá tánh đang thống khổ, đớn đau trong cảnh tang tóc, điêu tàn vì lửa đạn chiến tranh gây ra. Phái đoàn Cơ Quan sắp ra đi âu cũng là nối gót, theo gương lắm bậc tiền nhân thuở trước đấy thôi.
Suy rộng thêm: Việc lên đường giúp dân giúp nước, giúp Thầy giúp Đạo hãy nên nối tiếp nhau đời này sang đời khác, tùy theo khả năng và hoàn cảnh của mình. Người hôm nay đang kế tục những dấu chân người xưa, và rồi người mai sau cũng sẽ kế tục những dấu chân người nay. Đất nước muốn được trường tồn, đạo pháp muốn được trường lưu đều phải nhờ vào các thế hệ ý thức, nối tiếp nhau cùng gìn giữ và phát huy.
* Câu 2: Một gánh san hà, một túi thi.
Một gánh san hà hay một gánh giang sơn (a burden of the homeland) đặt lên vai bậc chí sĩ thì đâu phải chuyện đùa. Bởi thế, khi gánh cả sơn hà giữa lúc Mông Cổ (quân Nguyên) tham tàn xâm lăng nước Việt, Đức Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn bộc lộ hết gan hết ruột:
Ta thường thì tới bữa quên ăn, giữa đêm vỗ gối, nước mắt tràn xuống đầy mép, tấm lòng đau như bị đâm, vẫn lấy cái sự chưa thể ăn thịt nằm da, nuốt gan uống máu của chúng [quân Mông] làm tức. Dẫu cho một trăm cái thân của ta phải đem đốt ở đồng cỏ, một nghìn cái thân của ta phải đem bọc vào da ngựa, ta cũng vui lòng. (Hịch Tướng Sĩ, Ngô Tất Tố dịch)
Một túi thi là một túi chứa các bài thơ. Kẻ sĩ nhàn nhã thời xưa hay mang theo bầu rượu, túi thơ mà ngao du chốn thiên nhiên hữu tình. Gặp chỗ thích chí thì dừng chân nhắp rượu trong bầu trợ hứng (inspiration), hạ bút làm thơ xong thì cất vào túi vải hay túi gấm. Chẳng hạn, bài Chí Làm Trai của Nguyễn Công Trứ (1778–1858) kết thúc như sau: Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo / Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.
Túi thơ (thi nang 詩囊 : a pouch of poems) là điển cố liên quan tới nhà thơ Lý Hạ 李賀 (790-816) danh tiếng đời Đường. Toàn Đường Văn 全唐文 , quyển 780 chép rằng Lý Hạ đi đâu lưng cũng đeo túi gấm xưa cũ nát, hễ gặp điều chi đắc ý thì viết ra rồi bỏ vào trong túi ấy. (Bối nhất cổ phá cẩm nang, ngộ hữu sở đắc, tức thư đầu nang trung. 背一古破錦囊 , 遇有所得 , 即書投囊中 .)
Một gánh san hàmột túi thi (như vừa nói trên) là hai hình ảnh tượng trưng, mang ý nghĩa rất đối lập nhau. Vậy, tại sao lại đặt chung vào một câu thơ?
Tôi nghĩ vụng rằng Đức Vạn Hạnh Thiền Sư ngụ ý là xưa nay các bậc chí sĩ, hiền tài nặng lòng lo việc nước hay việc đạo, nếu đã vui với lý tưởng cao đẹp của mình thì đứng trước mọi thử thách, gian hiểm vẫn ung dung, tự tại. Đây cũng là tâm trạng một bậc hướng đạo tài đức của Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài - ngài Thanh Long Lương Vĩnh Thuật (1918-1982). Trong chuỗi ngày nguy nan trên đường sứ mạng hoằng giáo ở Trung Kỳ giữa thời tao loạn, ngài có bài thơ như sau:
Ta có gì mà thương mà tiếc
Ta có gì mà thiết mà tha
Tấm thân không cửa không nhà
Con là non nước, vợ là cỏ cây
Thân sá gì rày đây mai đó
Chí những mong nước nọ non nầy
Phương trời chim mặc sức bay
Nước khơi cá lội thú thay ngũ hồ.
* Câu 3: Gõ phách hát câu an Chiến Quốc.
Phách là loại nhạc cụ gõ để giữ nhịp, làm từ gỗ, tre, v.v… Phách gồm một thanh gỗ (hay tre) và hai dùi gỗ, gõ thành tiếng gọn và giòn.
Chiến Quốc (Chiến Quốc thời kỳ 戰國时期 : the Warring States period) là thời kỳ Trung Quốc bị phân tranh, các chư hầu nhà Chu đánh nhau liên miên, kéo dài từ khoảng thế kỷ 5 trước Công Nguyên (TCN) cho tới khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc vào năm 221 TCN.
Gõ phách hát câu an Chiến Quốc ám chỉ tích Trâu Kỵ, danh nhân nước Tề đời Chiến Quốc.
Trâu Kỵ 鄒忌 (khoảng 385-319 TCN) là người cổ cầm du thuyết Tề Uy Vương 以鼓琴游說齊威王 tức là “dùng chước đánh cầm [3] tới thuyết phục Tề Uy Vương” áp dụng chính sách của ông. Vua Tề tin dùng họ Trâu, phong làm tướng quốc (tạm hiểu như chức thủ tướng ngày nay). Trâu Kỵ cải cách việc cai trị, sửa đổi pháp luật, tuyển chọn hiền tài, thưởng phạt phân minh. Nước Tề ngày một cường thịnh, dân chúng hưởng thái bình; các nước khác không còn dám kéo quân sang quấy nhiễu ở biên giới như trước kia nữa.


Khi sáng tác tiểu thuyết Đông Chu Liệt Quốc (một trăm lẻ tám hồi, tức chương), ở hồi thứ tám mươi sáu, nhà văn Phùng Mộng Long 馮夢龍 (1574-1646) kể lại việc Trâu Kỵ mượn chước đánh cầm để “tiếp thị” bản thân với Tề Uy Vương rất hấp dẫn. Tóm lược như sau:
Từ khi lên làm vua, Tề Uy Vương say đắm tửu sắc, ham mê đàn hát, bỏ bê việc nước. Trong khoảng chín năm, các nước Hàn, Ngụy, Lỗ, Triệu thường đem quân đến khuấy rối ở biên giới, và Tề thường thua trận.
Một hôm có người dân nước Tề họ Trâu, tên Kỵ vào triều xin đánh đàn cho vua nghe. Tề Uy Vương cho vào, mời ngồi trước mặt, sai người mang ra cây cầm. Trâu Kỵ lên dây đàn xong nhưng không gảy.
Tề Uy Vương hỏi: “Ông lên dây mà không gảy, là chê đàn không tốt ư? Hay là chê ta không biết nghe đàn?”
Trâu Kỵ đáp: “Đời xưa Phục Hy chế ra cây cầm có năm dây. Dây lớn là vua, dây nhỏ là bề tôi. Đời Văn Vương và Vũ Vương, mỗi vị lại thêm một dây nữa, để hợp cái tình ý vua tôi. Xem vậy đủ biết rằng vua tôi có tương đắc thì mệnh lệnh mới hòa hợp. Phép trị nước cũng như thế mà thôi.”
Vốn rất thích âm nhạc, vua Tề lại nài: “Nói phải lắm, nhưng hãy thử gảy một khúc nhạc.”
Trâu Kỵ đáp: “Tôi học đàn thì phải biết phép đánh đàn. Đại vương lo việc nước, há không biết đạo trị nước hay sao? Hiện nay ngài làm vua mà không trị nước, có khác gì tôi ôm đàn mà không gảy. Tôi ôm đàn mà không gảy thì ngài không hài lòng. Ngài làm vua mà không trị nước thì muôn dân cũng không hài lòng.”
Tề Uy Vương nói: “Ông mượn việc đánh đàn để can gián ta. Ta hiểu ý ông rồi.”
Hôm sau Tề Uy Vương vời Trâu Kỵ vào triều cùng bàn luận về phép trị nước. Vua Tề rất hài lòng, bèn phong Trâu Kỵ làm tướng quốc. Nước Tề sớm trở nên cường thịnh, làm bá chủ năm nước Sở, Ngụy, Hàn, Triệu, và Yên.
Tôi tự hỏi: Kín đáo dẫn đến tích Trâu Kỵ, phải chăng Đức Vạn Hạnh Thiền Sư ngụ ý khuyên các bậc sứ đồ Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý nói riêng (các bậc hướng đạo Kỳ Ba ngày nay nói chung) trên đường thi hành sứ mạng Thiên ân hãy có lòng tự tin như Trâu Kỵ ngày xưa đã rất tự tin khi đứng giữa triều đình, trước mặt Tề Uy Vương?
* Câu 4: Nhịp cần đợi vó hội tương tri.
Cần là cần câu. Nhịp cần là cầm cần câu mà đánh nhịp, có thể trong lúc ngâm nga thơ phú. Chứng tỏ chẳng phải chủ ý đi câu kiếm mấy con cá quèn; chỉ là mượn cớ đi câu để ra bờ sông ngồi.
là vó ngựa. Đợi vó là đợi chân ngựa đưa bậc minh quân (ông vua sáng suốt) tới thỉnh mình ra giúp nước.
Hội là gặp gỡ (hội ngộ), cũng là cơ hội, dịp tốt.
Tương tri 相知 là hai đàng cùng biết rõ nhau, thấu hiểu nhau. Hội tương tri là cơ hội được gặp người biết tài đức của mình nên thỉnh mời giúp sức, và mình cũng biết đó là người xứng đáng để nhận lời mời, đem hết trí tài ra phò tá.
Nhịp cần đợi vó hội tương tri ám chỉ tích Khương Thượng 姜尚 , tức Khương Tử Nha 姜子牙 ngồi câu bên bờ sông Vị. Trong tập Ánh Sáng Của Trần Gian,[4] Diệu Nguyên có chép tích này, lược trích như sau:
Khương Thượng sinh vào thế kỷ 12 TCN, đời nhà Thương (Trung Quốc). Năm ba mươi hai tuổi, ngài lên núi Côn Lôn học đạo với Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn hơn bốn mươi năm.
Vua Trụ nhà Thương [5] đắm mê tửu sắc bỏ bê việc triều chính, lại nghe theo lời Đát Kỷ bày ra các hình phạt vô cùng khắc nghiệt. Các trung thần can gián đều bị xử tử, lê dân đồ thán, vận nước suy vi… Đức Nguơn Thỉ Thiên Tôn truyền lịnh cho Khương Tử Nha xuống núi phò nhà Chu để phạt Trụ. Tử Nha ngồi buông câu bên sông Vị hết ngày này sang ngày khác chờ thời vận ra giúp nhà Chu.
Một hôm có người tiều phu phát hiện rằng lưỡi câu của Tử Nha không uốn cong và không có ngạnh bén thì chế giễu. Ngài bảo: “Ta câu thời câu vận chứ nào phải câu cá câu tôm.”
Thời vận tới với Khương Tử Nha khi Văn Vương nhà Chu (một vì vua hiền đức luôn yêu thương dân) đến tận sông Vị thỉnh cầu ngài về triều giúp nước. Nhờ tài đức của Khương Tử Nha mà nhà Chu hưng thịnh, kéo dài 867 năm, và là triều đại tồn tại lâu dài nhất Trung Quốc.
Tôi lại tự hỏi: Kín đáo dẫn đến tích này, phải chăng Đức Vạn Hạnh Thiền Sư ngụ ý khuyên các bậc hướng đạo Kỳ Ba hãy biết xuất xử (hành tàng) đúng lúc như ngài Tử Nha?


* Câu 5: Non sông gởi gắm tình trăm họ.
Non sông hay sơn hà 山河 , giang sơn 江山 là đất nước, quốc gia.
Trăm họ hay bách tính, bá tánh 百姓 nói chung dân chúng một nước. Tình trăm họ là tình thương dân chúng, thương đồng bào (love for all citizens).
Non sông gởi gắm tình trăm họ nghĩa là về mặt quốc gia, Ơn Trên gởi gắm bậc hướng đạo Kỳ Ba tấm lòng thương dân thương nước, nhất là trong hoàn cảnh Việt Nam đang khói lửa điêu linh vào thời ấy (1968), khi Đức Vạn Hạnh Thiền Sư ban cho bài thánh thi này.
* Câu 6: Đạo pháp mong chờ nghĩa nhứt vi.
Nghĩa tức là lẽ phải (đạo lý) ở đời, là ân tình đối đãi với nhau trong cuộc sống. Ta hay nói tình nghĩa, đạo nghĩa là do hai ý này.
Nhứt vi theo tôi hiểu là nói tắt câu thành ngữ Trung Hoa: Nhứt nhựt vi sư, chung thân vi phụ 一日為師 , 終身為父 (một ngày là thầy, trọn đời [xem thầy] là cha). Thành ngữ này nhằm tôn cao đạo nghĩa của kẻ học trò đối với thầy dạy mình; dù học với thầy chỉ một ngày thì trọn đời vẫn xem thầy là cha mình.
Trong tiểu thuyết Tây Du Ký (Hồi thứ ba mươi mốt), khi tìm tới động Thủy Liêm ở núi Hoa Quả để van nài Tôn Hành Giả đi cứu Đường Tăng đang bị yêu quái Hoàng Bào hãm hại, thì Trư Bát Giới đã khuyên sư huynh hãy nghĩ tới cái tình nhứt nhựt vi sư, chung thân vi phụ mà quên phứt những hiểu lầm đáng tiếc giữa hai thầy trò khi trước.
Khi xét ý nghĩa thành ngữ Nhứt nhựt vi sư, chung thân vi phụ, chúng ta nhớ rằng trong đạo Cao Đài, Đức Chí Tôn vừa là Thầy, vừa là Cha (Đại Từ Phụ) của chúng ta.
Đạo pháp mong chờ nghĩa nhứt vi tức là về mặt đạo pháp (học đạo tu thân, hành đạo độ đời), Ơn Trên hằng mong đợi các môn đệ Cao Đài hãy luôn luôn vẹn tròn đạo nghĩa với Thầy mình. Thầy là Đức Chí Tôn đã phế Ngọc Kinh xuống trần cứu thế Kỳ Ba, không thành đại nguyện thì Thầy không trở về ngôi nữa. Trò đã nhờ ơn Thầy dẫn dắt vào đạo Kỳ Ba, thì ráng sức đền đáp ơn Thầy, ráng học đạo tu thân cho kết quả để theo gương Thầy tận tụy đem đạo cứu đời, trước tiên là cứu dân mình, cứu nước mình thoát khỏi cơn tai kiếp thời hạ nguơn mạt pháp. Đó là thương Thầy thật sự, đúng cách.
Hai câu Non sông gởi gắm tình trăm họ / Đạo pháp mong chờ nghĩa nhứt vi của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư bộc lộ rất rõ giá trị nhân bản (humanistic value) của đạo Cao Đài ở góc cạnh này: Đạo pháp gắn liền dân tộc; trước khi nói tới chúng sanh khắp năm châu bốn biển bao la thì hãy nói tới dân mình nước mình, đồng bào mình và Tổ Quốc mình. Đức Thiền Sư cũng nhắc khéo ý này trong những lời bảo ban ở cuối bài thánh giáo:
Hôm nay, thật là một sự bất ngờ cho chư vị hội ngộ Bần Tăng, nhưng có bất ngờ mới có lý thú và mối tình sâu sắc nhứt đã gợi lại trong thời quá khứ trên tình dân tc và đo pp.
* Câu 7: Nhả hết tằm tơ cho xứng phận.
Tằm tơ (tàm ty ) là sợi tơ do con tằm (silkworms) ăn lá dâu (tang diệp 桑葉 ; mulberry leaves), rồi nhả ra.
Truyện Kiều của Nguyễn Du (1765-1820) có câu: Con tằm đến thác hãy còn vương tơ. Đời Đường, Lý Thương Ẩn 李商隱 (813-858) viết bài thất ngôn bát cú Vô Đề 無題 có câu: Xuân tàm đáo tử ty phương tận 春蠶到死絲方盡 (Tằm xuân đến chết tơ mới hết).
Ngoài ý nghĩa hàm ngụ tình yêu nam nữ vướng vít lâu bền như hai câu thơ danh tiếng vừa dẫn trên, hình ảnh con tằm trong văn chương thế gian hay thánh giáo Cao Đài còn mang ý nghĩa là cống hiến hết mình (tận hiến) cho cuộc đời để trả ơn đời, phụng sự đời, và câu thánh thi của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư là ví dụ. Hay là: Tằm quặn mấy mùa tơ chửa trọn / Vẫn toan báo đáp nghĩa xanh dâu (HK).
Phận (duty) là bổn phận, phận sự, chức phận mà người môn đệ Cao Đài đã thọ nhận do Thầy ban, do Hội Thánh giao phó. Xứng phận là xứng đáng với chức phận mà mình nhận lãnh trong đạo.
Nhả hết tằm tơ cho xứng phận nghĩa là các sứ đồ Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý nói riêng (hay những bậc hướng đạo Kỳ Ba nói chung) hãy dốc hết tấm lòng và tài tuệ ra phụng sự cho xứng đáng với chức phận của mình đã được Ơn Trên (hay Hội Thánh) ban trao; đừng mang danh Thiên ân chức sắc, chức việc mà thật ra sự cống hiến ở bản thân từng vị xét ra vẫn chưa đúng mức so với những gì Luật Đạo quy định cụ thể cho từng bậc giáo phẩm. Nếu hiểu rốt ráo như vậy, thì mang phẩm sắc chính là mang gánh nặng nhọc nhằn, lòng luôn nơm nớp sợ sệt, chứ chẳng phải cứ nài xin cho được áo mão để có thể làm oai cùng tín hữu mộc mạc, hiền ngoan.
* Câu 8: Gian lao đã có Đấng từ bi.
Gian lao là khó khăn và vất vả. Đấng từ bi là Thầy (Đức Chí Tôn), hiểu rộng ra cũng là các vị Phật Tiên, Thánh Thần, Bồ Tát, v.v...
Việc hành đạo, đem đạo độ đời vô cùng khó khăn (có khi còn nguy hiểm tánh mạng nữa). Đức Vạn Hạnh Thiền Sư vì vậy an ủi, khuyến khích, mà cũng là cam kết (giao ước) rằng luôn luôn có Ngài cũng như các Đấng thiêng liêng sẵn sàng chở che, phù trợ cho những ai xứng phận, biết quên mình vì danh Thầy danh Đạo.
Hai câu kết (7-8) rõ ràng là cái tình của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư đối với các bậc hướng đạo Kỳ Ba.
Như tôi từng có dịp bày tỏ: (. . .) thánh giáo Đức Thiền Sư vừa quyến rũ vừa huyền thâm, khiến người học đạo phải nghiền ngẫm suy tư, tham bác miệt mài mà không thôi nơm nớp rằng vẫn còn sơ sót nên ngộ nhận, lệch sai! [6] Bài thánh thi trên đây của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư là thêm một minh chứng cho lời tôi thú nhận.
Vì vậy, một lần nữa, tôi rất mong sẽ được quý đạo hữu hoan hỷ chỉ giáo để tôi học hỏi thêm, kịp thời điều chỉnh lỗi lầm trong phần trình bày trên đây. Tôi xin trân trọng cảm ơn quý đạo hữu.
*


[1] sứ đồ 使徒 (apostle): Cũng như tông đồ 宗徒 , người học trò được lệnh Thượng Đế (Thầy) sai đi truyền đạo.
[2] đạo tràng (trường) 道場: Chỗ tu học, nơi sinh hoạt tôn giáo (chùa, thất, thánh đường, thiền viện, tu viện…).
[3] Cầm là tên cây đàn có bảy dây; thân đàn dài khoảng 120-130cm. Cổ là đánh (như đánh chiêng, đánh trống, đánh đàn). Ta hay nói: cổ động 鼓動 , cổ vũ 鼓舞 , cổ xúy 鼓吹 .
[4] Hà Nội: Nxb Hồng Đức, 2018, tr. 70-72. Quyển 120-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
[5] Vua tên Ðế Tân, nhưng vì quá tàn ác, bất nghĩa nên bị gọi là Trụ. (Trụ là người tàn ác, bất nghĩa.)
[6] Huệ Khải kết tập, Vạn Hạnh Thiền Sư Xưa Và Nay. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2014, tr. 9-10.