Chủ Nhật, 24 tháng 6, 2018

ĐĐVU 03 / TRUNG THU MẸ DẠY / Thánh giáo


THI
Các vị Tiên Nương hộ giá loan [1]
VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU kiểm đàn tràng [2]
Lịnh truyền nam nữ tâm yên tịnh
Kim Mẫu Từ Tôn phước huệ ban.
VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU
Chào chư Thiên mạng.[3] Chị chào các em nam nữ trung đàn.[4] Các em thành tâm tiếp Từ Tôn Kim Mẫu và các Tiên Nương lâm đàn [5] dạy đạo. Chị chào chung. Lui.
VÔ CỰC TỪ TÔN DIÊU TRÌ KIM MẪU
Mẹ mừng các con.
THI
Trời thu dìu dịu ánh thiên quang [6]
KIM MẪU TỪ TÔN đến thế gian
Muôn trượng [7] điển lành rơi bút ngọc [8]
Một tòa chiêm ngưỡng chứng lòng vàng.
Đuốc thần cậy trẻ soi chơn lý
Đèn huệ [9] nhờ con rọi Niết Bàn [10]
Cá vượt long môn rồi có thuở [11]
Hóa rồng vùng vẫy cõi Nam bang.[12]
Nhân tiết trung thu, Mẹ đến trần gian để chứng lễ tâm thành hiến dâng của các con và ban hồng ân [13] cho toàn cả các con trong thế giới đều được thấm nhuần tình thương Vô Cực để dịu dần cơn dục vọng [14] hầu [15] sống chung một bầu nhơn loại đạo đức.
Con ôi! Nhìn thấy vạn linh sanh chúng, lòng Từ Mẫu rất đổ lệ xót thương; nhìn nền Đại Đạo đang xây đắp cõi thế gian, lại càng bi ai [16] thống thiết.[17] Mẹ miễn lễ. Các con an tọa.
Hỡi các con! Tình Vô Cực vô biên. Mẹ ước mong sao lòng các con cũng phải chí thành vô hạn mới có thể thấu hiểu được lý nhiệm mầu siêu việt [18] và hoạch định [19] một tương lai đạo đức cứu cánh toàn linh.
Con ôi! Nơi thế gian nầy bao nhiêu thủy tú sơn kỳ,[20] địa linh [21] là Mẹ dành để làm nơi đào luyện các con trong cơ tiến hóa. Các con sẽ thọ hưởng thanh thú [22] để tâm linh được nhẹ nhàng, trực giác nguyên nhân,[23] mà sống chung một bầu trời an tịnh, một thế giới hòa bình. Nếu các con xem đó và dụng đó như một miếng mồi ngon để nhử hàng xa mã,[24] thì thế gian nầy sẽ biến thành những cánh rừng già, mà các con lại xâu xé lẫn nhau...
Ví như các ngôi thánh đường được xây dựng lên để thể hiện lòng chiêm ngưỡng tối cao của các con và làm nơi hội đồng [25] xiển dương [26] chánh pháp, thì các con phải cần tu học cho hoàn toàn đạo đức.
Các con sanh vào thời kỳ biến thiên hỗn loạn nên Đại Đạo mới trung hưng chánh pháp [27] ổn định thế gian. Các con phải xác nhận mục đích và tôn chỉ để đặt mình vào cương vị lãnh đạo giáo đồ,[28] phải chánh tín để đem chánh tín cho mọi người, phải thực hành chơn lý để mọi người đều đến với chơn lý.
Các con còn mang một thân hình huyết nhục, còn sống trong cõi tạm hồng trần, đang tu luyện chớ chưa đạt đến cơ siêu mầu của Tạo Hóa. Nếu như các con háo kỳ,[29] tự xem mình là một bác học để thí nghiệm tôn giáo, thì các ngôi thánh đường sẽ biến thành những nơi đấu phép mầu, giành đạo hữu, sanh chúng phải đại nguy. Chừng ấy, dầu có đền đài, am tự nguy nga đồ sộ chăng nữa, đối với Thiêng Liêng đều vô nghĩa cả.
THI
Thành đạo do con trọn chí thành
Ngăn ngừa tư dục [30] ở tâm sanh
Bụi trần chớ để mờ chơn tánh
Ngôi vị Tiên Cung Mẹ sẵn dành.
BÀI
1. Mẹ sẵn dành hồng ân cho trẻ
Chẳng riêng mình nặng nhẹ chung lo
Thế đồ [31] muôn dặm quanh co
Kề vai gánh Đạo, gánh cho vững vàng.
2. Thu sang rồi, thu sang đây nữa
Thu sang thu, lần lựa thu sang
Bên mành nhặt thúc thiều quang [32]
Con ôi! Lòng Mẹ chứa chan cảm hoài.[33]
3. Con giữa chốn trần ai [34] lăn lóc
Mẹ Thiên Cung lụy ngọc [35] rơi rơi
Đành rằng khai Đạo cứu đời,
Đạo cho nên Đạo thì đời mới yên.
4. Đạo muốn yên, mối giềng [36] nắm giữ
Giữ mối giềng căn cứ tu thân
Con tu mới có mấy phần
Trí tri cách vật,[37] chánh tâm,[38] ý thành.[39]
5. Thành ý vốn không sanh tà niệm [40]
Tà niệm không, là điểm chánh tâm
Chánh tâm không tưởng sai lầm
Mới tường [41] chánh đạo, cao thâm ý Trời.
6. Học đạo phải do nơi chơn lý
Tu hành thời chánh kỷ hóa nhân [42]
Đạo mầu vô thượng [43] thậm thâm [44]
Lý mầu siêu việt tinh thần Phật Tiên.
7. Tam Giáo bởi căn nguyên Đại Đạo [45]
Kìa Thích Ca, Nho, Lão lân bang [46]
Mấy ngàn năm đã mấy ngàn
Tay phàm [47] dẫn dắt con đàng siêu sinh.[48]
8. Nay Thượng Đế chính mình giáng thế
Vì chúng sanh trong bể hạ nguơn [49]
Trong cơ sàng sảy định phần
Hoằng khai chánh đạo xá ân Tam Kỳ.
9. Mấy mươi thu có chi hỡi trẻ
Mấy mùa thu lặng lẽ trôi qua
Thấy con lặn hụp ái hà [50]
Đứa trong cửa đạo, đứa xa dặm trường.
10. Đến xin Mẹ tình thương tuyệt đối
Giữa khi con mỏi gối oằn vai
Đạo đời mặn lạt chua cay
Mắt chưa ráo lệ, tóc phai sắc huyền.[51]
11. Đứa giàu có bạc tiền sang cả
Đứa uy quyền môn hạ [52] nghinh ngang
Con ôi! Hạnh phúc ai ban
Phải chăng nhiều kiếp tu thân mới là?
12. Đứa thiếu thốn thiết tha than thở
Đứa cơ bần [53] sớm nợ chiều nần
Khổ đâu con máng vào thân
Phải chăng kiếp trước quả nhân tạo gầy?
13. Sách có dạy: Dục tri tiền kiếp [54]
Thì hãy trông duyên nghiệp hiện thời
Muốn xem hậu quả đổi dời
Hãy trông những việc tự nơi con làm.
14. Trên Tạo Hóa cầm cân công luật [55]
Đều phát ban rất mực công minh [56]
Con ôi! Trời đất rộng thinh
Mảy lông chẳng lọt, công bình thưởng răn.
15. Con muốn yên, ngày hằng lo đạo
Tu hiện thời mà tạo tương lai
Tránh bao nhiêu nghiệp trần ai
Khỏi bao nhiêu cảnh họa tai khổ sầu.
16. Tu tìm hiểu cơ mầu vô thượng
Tu cho thân khỏi vướng luân hồi
Noi đường chánh đạo con ôi
Thực hành chơn lý mới rồi phận tu.
17. Chánh đạo chẳng âm u mờ tối
Chơn lý không lừa dối ngụy tà
Đã sanh ra kiếp người ta
Bao nhiêu lẽ thiệt trước tòa lương tri.[57]
18. Khi hiểu được những gì chơn lý
Thì không còn ích kỷ hại nhơn [58]
Đạo không tách khỏi lý chơn
Đạo càng hiểu Đạo, keo sơn [59] tu trì.[60]
19. Con đừng mơ những gì huyền ảo
Cho mị tà [61] lộn lạo rủ ren
Cửa Trời sẵn để khóa then
Thì con cũng đã có riêng tự mình.[62]
20. Mùa thu nầy với tình mẫu tử
Đến thu sau tuần tự tiến lên
Con ôi! Hoa nở trước thềm
Ước mong con Mẹ đoàn viên [63] một ngày.
Con ôi! Hiện tình cơ Đạo còn đang phân phân bất nhứt,[64] mà các con chưa thắng được mị quyền.[65] Vì thế mà Mẹ rất thương các con phái nữ, chúng nó có một tâm hồn yếu ớt và một hình vóc liễu bồ.[66] Lúc thiếu thời thì ít giác ngộ tu thân, đến lúc mỏi gánh oằn vai lại tìm về với Mẹ. Có đứa sớm phát tâm mộ đạo, chẳng thích việc hồng trần,[67] tránh xa đời khổ lụy, rất đáng ngợi khen.
Mẹ rất thương là thương các con trong thời biến chuyển, tiếc là tiếc các con thiếu dạ can trường,[68] nên trong việc tu học lại lười biếng, chỉ quen tánh vui đâu chúc đó; còn đứa giỏi giắn siêng năng, vừa vượt bực lại tự kiêu tự ái. Nhưng bịnh sanh thì tinh thần phải mờ ám, tà quyền mới thừa cơ chế ngự, mưu chước sắp bày, chỉ trích, tặng phong nhóm nầy nhóm nọ. Dầu chưa đến nỗi hờn giận rẽ chia, nhưng mỗi đứa đều tách một lối riêng, phải hay không vẫn tưởng mình là cao siêu bí pháp. Nhưng con ôi! Đâu ngờ kẻ trộm thừa đêm tối mới trộm đồ vật, quỷ ma cũng thừa lúc người đang tham mê dục vọng mới vẽ trò tà mị.
Mẹ đã dạy các con nhiều lần. Trời đất không riêng, đạo lý có một. Đã là có một thì không riêng, mà tư riêng là không còn một của đạo lý nữa. Con hãy học đức từ bi của Phật, bác ái của Tiên, công bình của Thánh, cùng hợp ý chung tâm để tìm lẽ Đạo, thì tất nhiên điều sai lạc sẽ được phô bày tỏ rõ. Con sẽ được niềm tin yêu của đồng đạo, và khi nhơn dục tịnh tận, Thiên lý sẽ lưu hành.[69] Đó là chơn lý của công trình, công quả và công phu vậy.
THI
Đạo lý chỉ cần lẽ thiệt thôi
Đừng mơ ảo ảnh chốn xa xôi
Trong con sẵn có cơ phàm thánh [70]
Lặng lẽ lòng con rõ máy Trời.
NGÂM
Mừng con trong tiết Trung Thu
Lời vàng Mẹ để con tua [71] học hành.
Điện tiền [72] từ giã con thơ
Diêu Cung Mẹ ngự trông chờ các con.
Thăng.
Đức VÔ CỰC TỪ TÔN DIÊU TRÌ KIM MẪU
Đàn giờ Ngọ ngày 15-8 Ất Tỵ (10-9-1965) tại Chơn Lý Đàn (Vạn Quốc Tự, quận 3) và đàn giờ Tý đêm 15 rạng 16-8 Ất Tỵ (10 rạng 11-9-1965) tại thánh thất Tân Định (quận 1).




[1] Giá loan: Loan giá 鸞駕 ; xe do chim loan kéo. Hộ giá loan: Hộ loan giá ; theo phò Đức Kim Mẫu. (Giá: cỗ xe; loan: chim loan, loài chim của cõi Tiên.)
[2] Đàn tràng 壇場: Chỗ lập đàn cơ.
[3] Chư Thiên mạng (mệnh) 諸天命: Các bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó là thế Thiên hành hóa 替天行化 (thay Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu hành).
[4] Trung đàn: Đàn trung 壇中; ở trong nơi lập đàn cơ.
[5] Lâm đàn 臨壇: Đến với đàn cơ, cũng như giáng đàn. Lâm là cách nói để tỏ lòng tôn quý.
[6] Thiên quang 天光: Ánh sáng ban ngày (daylight).
Đàn cơ này lập vào giờ Ngọ ngày 15-8 Ất Tỵ tại Chơn Lý Đàn (Vạn Quốc Tự, quận 3), sau đó tiếp tục vào giờ Tý ngày 15 rạng 16-8 Ất Tỵ tại thánh thất Tân Định (quận 1).
[7] Trượng Đơn vị đo chiều dài, bằng mười thước (xích : khoảng một phần ba mét, 0,33m). Muôn trượng: Khoảng cách rất xa, rất cao.
[8] Bút ngọc: Ngọc cơ 玉乩; ngọn cơ để cầu Tiên. Cũng gọi đại ngọc cơ 大玉乩. (Ngọc, đại là cách nói để tỏ lòng tôn quý.)
[9] Đèn huệ: Huệ đăng 慧燈 (wisdom lamp, wisdom light); trí sáng suốt của người tu chứng.
[10] Niết Bàn 涅槃: Cõi Phật (Nirvana).
[11] Cá vượt long môn rồi có thuở Rồi sẽ có lúc cá chép nhảy qua khỏi võ (vũ) môn 禹門 hóa thành rồng. Thành ngữ: Lý dược long môn 鯉躍龍門: Cá chép vượt vũ môn.  Người phàm tục tu hành đúng theo chánh pháp sẽ có ngày đắc quả, thoát tục trở thành Thần Thánh Tiên Phật. (There will come a time when a human becomes a divinity.)
[12] Nam bang 南邦: Nước Nam.
[13] Hồng ân 洪恩Ơn huệ to tát (great grace).
[14] Dục vọng 欲望: Ham muốn, khao khát (desire, longing, craving).
[15] Hầu: Ngõ hầu, để mà (in order to).
[16] Bi ai 悲哀: Buồn rầu thê thảm (grieved, sorrowful).
[17] Thống thiết 痛切: Đau đớn (suffered).
[18] Siêu việt 超越: Vượt lên khỏi (surpassing, transcending).
[19] Hoạch định 畫定: Vạch ra rõ ràng trong một phạm vi được xác định (to define).
[20] Thủy tú sơn kỳ 水繡山奇: Vẻ đẹp xinh của sông nước, núi non (scenic beauty of rivers and mountains).
[21] Địa linh 地靈: Sự thần diệu của đất.
[22] Thanh thú 清趣: Sự vui thích thanh tao, tao nhã (elegant pleasure).
[23] Trực giác nguyên nhân 直覺原因: Hiểu rõ tức thì nguyên nhân, duyên cớ của sự vật mà không cần đến lý trí suy luận (to undestand causes or origins of things by intuition).
[24] Xa mã 車馬: Xe và ngựa (carriages and horses). Nhử hàng xa mã: Cám dỗ, quyến rũ giới giàu có (to entice the rich).
[25] Hội đồng 會同: Hợp sức nhau làm một công việc (to handle something jointly).
[26] Xiển dương 闡揚: Trình bày và giải thích tỉ mỉ cho mọi người hiểu rõ (to expound).
[27] Trung hưng chánh pháp 中興正法: Phục hưng lại chánh pháp sau thời kỳ suy yếu (to restore the true dharma after its temporary decline).
[28] Giáo đồ 教徒: Tín đồ của một tôn giáo (adherents, disciples, followers).
[29] Háo (hiếu) kỳ 好奇: Ham thích việc lạ (curious).
[30] Tư dục 私欲: Ham muốn ích kỷ, riêng tư (selfish desire).
[31] Thế đồ 世途: Đường đời, cùng nghĩa thế lộ 世路 (wordly path).
[32] Nhặt thúc: Dồn dập và nhanh. Thiều quang 韶光: Thời gian trôi qua (a passing time). Nhặt thúc thiều quang: Thời gian trôi qua rất mau (Time flies with hasty step).
[33] Cảm hoài 感懷: Nhớ tới và xúc động (to recall with emotion).
[34] Trần ai 塵埃: Trần gian, cõi trần, cõi bụi bặm, hồng trần, cõi bụi hồng (the dusty world). Trần và ai cùng nghĩa là bụi bặm (dust).
[35] Lụy: Nước mắt (tears). Lụy ngọc: Nước mắt đấng tôn quý.
[36] Mối giềng (cương kỷ 綱紀): Những phép tắc làm nên trật tự trong một tổ chức, đoàn thể, xã hội (discipline and order).
[37] Trí tri cách vật (cách vật trí tri 格物致知): Nghiên cứu, tìm hiểu tới cùng để hiểu biết thật rõ sự vật (to investigate things thoroughly in order to attain thorough knowledge).
[38] Chánh (chính) tâm 正心: Giữ lòng ngay thẳng.
[39] Câu “Trí tri cách vật, chánh tâm, ý thành” nhắc lại ý một đoạn quan trọng trong sách Đại Học 大學:
Muốn tu thân mình, trước hết phải giữ tâm mình ngay thẳng. Muốn giữ tâm mình ngay thẳng, trước hết phải giữ ý mình chân thành. Muốn giữ ý mình chân thành, trước hết phải tìm hiểu cho đến cùng tột. Hiểu biết đến cùng tột là nhờ nghiên cứu sự vật tới cùng tột. Sự vật được nghiên cứu tới cùng tột thì hiểu biết mới đến cùng tột. Hiểu biết đã đến cùng tột thì ý mới thành. Ý đã thành thì tâm mới ngay thẳng. Tâm đã ngay thẳng thì thân mới tu được.
Dục tu kỳ thân giả, tiên chính kỳ tâm. Dục chính kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật. Vật cách nhi hậu tri chí. Tri chí nhi hậu ý thành. Ý thành nhi hậu tâm chính. Tâm chính nhi hậu thân tu.
欲修其身者先正其心欲正其心者先誠其意欲誠其意 先致其知致知在格物物格而后知至知至而后意誠意誠而后心 心正而后身修.
[40] Tà niệm 邪念: Ý nghĩ không ngay thẳng (wicked idea).
[41] Tường : Hiểu rõ (to comprehend).
[42] Chánh kỷ hóa nhân 正己化人: Sửa mình cho ngay thẳng rồi mới có thể giáo hóa người khác (Rectifying oneself before correcting others).
[43] Vô thượng 無上: Tối cao, cao tột hơn tất cả (supreme).
[44] Thậm thâm 甚深: Rất sâu (extremely profound).
[45] Căn nguyên 根源()Nguồn gốc, cội rễ (origin, root). Tam Giáo bởi căn nguyên Đại Đạo: Ba tôn giáo Nho, Thích, Lão đều phát xuất từ Đại Đạo (The Three Teachings originated from the Great Dao).
[46] Lân bang 鄰邦: Nước láng giềng (neighbouring state). Thích Ca, Nho, Lão lân bang: Ba tôn giáo Thích, Nho, Lão truyền vào Việt Nam từ nước láng giềng là Trung Quốc.
[47] Tay phàm: Những vị thầy còn là người phàm tục, bản thân chưa đắc đạo (secular masters).
[48] Siêu sinh 超生: Thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử (to surpass reincarnation).
[49] Bể hạ nguơn: Biển khổ thời hạ nguơn mạt kiếp.
[50] Ái hà 爱河: Sông yêu thương, sông tình ái (the river of love). Tình yêu thương nam nữ làm người ta đắm chìm nên ví như sông nước. Có câu Ái hà thiên xích lãng 爱河千尺浪 (Sóng ở sông tình ái cao ngàn thước), ngụ ý sông tình ái có sóng dữ làm con người chìm đắm. Chữ ái này là một món trong thất tình, làm con người luân hồi. Trái lại, chữ ái trong bác ái, ái tha là tình thương, là đức độ của Hiền Thánh, là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh vào chầu Thượng Đế.
[51] Tóc phai sắc huyền: Tóc không còn đen nhánh, bắt đầu điểm bạc (Hair is turning gray).
[52] Môn hạ 門下: Những kẻ dưới quyền, những người làm tay chân bộ hạ cho kẻ quyền thế (subordinates).
[53] Cơ bần (): Đói nghèo (hungry and poor).
[54] Dục tri tiền kiếp 欲知前劫: Muốn biết kiếp trước.
[55] Công luật 公律: Luật công bình, luật không thiên vị (impartial law).
[56] Công minh 公明: Công bằng và sáng suốt (impartial and wise).
[57] Lương tri 良知: Lương tâm (conscience), tánh thiện tự nhiên như bản năng (instinctive moral sense).
[58] Ích kỷ hại nhơn (nhân) 益己害人: Cũng như lợi kỷ tổn nhân 利己損人, làm lợi cho mình mà tổn hại cho người khác (to make oneself profitable while harming others).
[59] Keo sơn (tất giao 漆膠): Tất là keo nấu bằng da động vật (a dao); sơn là nhựa cây sơn. Hai thứ này có tính kết dính, do đó nói keo sơn tức là gắn bó không rời (inseparable).
[60] Tu trì 修持 Trì giới tu hành 持戒修行: Giữ giới và tu hành.  Tu thân thủ đạo 修身守道Tu thân và giữ đạo. ƒ Tu hành không lơi lỏng. Trì: Gìn giữ, nắm giữ (to grasp, to hold).
[61] Mị tà (tà mị 邪媚):  Gian xảo và xu nịnh (dishonest and flattering).  Tà ma 邪魔 (evil spirits).
[62] Cửa Trời sẵn để khóa then / Thì con cũng đã có riêng tự mình: Con người có sẵn chìa khóa để mở cửa vào cõi Trời hay Thiên Đình. Chìa khóa này tàng ẩn trong thân xác, phép tu thiền giúp con người tìm thấy chìa khóa này. Nếu không tu, con người muôn kiếp cứ quanh quẩn ở cõi trần. Đức Chí Tôn dạy: “Con là một thiêng liêng tại thế / Cùng với Thầy đồng thể linh quang / Khóa chìa con đã sẵn sàng / Khi vào cõi tục khi sang Thiên Đình.” (Thiên Lý Đàn, 04-02-1966).
[63] Đoàn viên 團圓: Họp mặt đông đủ (to have a reunion).
[64] Phân phân bất nhứt 分分不一: Chia năm xẻ bảy, không thành một khối.
[65] Mị quyền 魅權: Cũng như tà quyền 邪權, thế lực của ma quỷ (evil power).
[66] Liễu bồ (bồ liễu 蒲柳): Một thứ liễu mọc ở ven nước, cành lá ẻo lả, dùng để nói vóc dáng con gái mảnh mai, yếu đuối (a kind of willow, representing slender and weakly women).
[67] Hồng trần 紅塵: Bụi hồng, ám chỉ cõi thế gian, cõi người ta (the world, human society).
[68] Can trường 肝腸 Gan và ruột (liver and intestines). .Can đảm, bất khuất (courageous).
[69] Nhơn (nhân) dục tịnh tận, Thiên lý lưu hành 人欲凈盡天理流行: Khi những ham muốn của con người đều hoàn toàn tinh sạch thì lẽ Trời tuôn chảy. (When human desires are completely purified, the Heavenly principle flows forth.)
Để tìm hiểu thấu đáo hai chữ Thiên lý, xin đọc phần giảng giải rất hay của triết gia Phùng Hữu Lan (1895-1990), trích trong Lịch Sử Triết Học Trung Quốc, quyển II, tr. 564-572, bản dịch của Lê Anh Minh (Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 2007). 
[70] Cơ phàm thánh (phàm thánh chi cơ 凡聖之機): Cái điểm then chốt để nhờ đó con người phàm phu tu luyện trở nên Thần Thánh (The inherent pivot or crucial point that helps a wordly person turn into a divinity by practising meditation).
[71] Tua: Nên, do chữ Hán là tu  (should). Khá tua (Khả tu 可須): khá nên, hãy nên. Tua gắng sức: Nên cố gắng (should try hard).
[72] Điện tiền 殿前: Trước điện, trước Thiên Bàn (before the God’s altar).
HUỆ KHẢI & LÊ ANH MINH hiệp chú