THI
Lịnh truyền nam nữ tâm yên tịnh
Kim Mẫu Từ Tôn phước huệ ban.
VÂN HƯƠNG THÁNH MẪU
Chào chư Thiên mạng.[3] Chị chào các em nam nữ trung đàn.[4] Các em thành tâm tiếp Từ Tôn Kim Mẫu và các Tiên Nương lâm đàn [5] dạy đạo. Chị chào chung. Lui.
VÔ CỰC TỪ TÔN DIÊU TRÌ KIM MẪU
Mẹ mừng các con.
THI
KIM MẪU TỪ TÔN đến thế gian
Một tòa chiêm ngưỡng chứng lòng vàng.
Đuốc thần cậy trẻ soi chơn lý
Nhân tiết trung thu, Mẹ đến trần gian để chứng lễ tâm thành hiến dâng của các con và ban hồng ân [13] cho toàn cả các con trong thế giới đều được thấm nhuần tình thương Vô Cực để dịu dần cơn dục vọng [14] hầu [15] sống chung một bầu nhơn loại đạo đức.
Con ôi! Nhìn thấy vạn linh sanh chúng, lòng Từ Mẫu rất đổ lệ xót thương; nhìn nền Đại Đạo đang xây đắp cõi thế gian, lại càng bi ai [16] thống thiết.[17] Mẹ miễn lễ. Các con an tọa.
Hỡi các con! Tình Vô Cực vô biên. Mẹ ước mong sao lòng các con cũng phải chí thành vô hạn mới có thể thấu hiểu được lý nhiệm mầu siêu việt [18] và hoạch định [19] một tương lai đạo đức cứu cánh toàn linh.
Con ôi! Nơi thế gian nầy bao nhiêu thủy tú sơn kỳ,[20] địa linh [21] là Mẹ dành để làm nơi đào luyện các con trong cơ tiến hóa. Các con sẽ thọ hưởng thanh thú [22] để tâm linh được nhẹ nhàng, trực giác nguyên nhân,[23] mà sống chung một bầu trời an tịnh, một thế giới hòa bình. Nếu các con xem đó và dụng đó như một miếng mồi ngon để nhử hàng xa mã,[24] thì thế gian nầy sẽ biến thành những cánh rừng già, mà các con lại xâu xé lẫn nhau...
Ví như các ngôi thánh đường được xây dựng lên để thể hiện lòng chiêm ngưỡng tối cao của các con và làm nơi hội đồng [25] xiển dương [26] chánh pháp, thì các con phải cần tu học cho hoàn toàn đạo đức.
Các con sanh vào thời kỳ biến thiên hỗn loạn nên Đại Đạo mới trung hưng chánh pháp [27] ổn định thế gian. Các con phải xác nhận mục đích và tôn chỉ để đặt mình vào cương vị lãnh đạo giáo đồ,[28] phải chánh tín để đem chánh tín cho mọi người, phải thực hành chơn lý để mọi người đều đến với chơn lý.
Các con còn mang một thân hình huyết nhục, còn sống trong cõi tạm hồng trần, đang tu luyện chớ chưa đạt đến cơ siêu mầu của Tạo Hóa. Nếu như các con háo kỳ,[29] tự xem mình là một bác học để thí nghiệm tôn giáo, thì các ngôi thánh đường sẽ biến thành những nơi đấu phép mầu, giành đạo hữu, sanh chúng phải đại nguy. Chừng ấy, dầu có đền đài, am tự nguy nga đồ sộ chăng nữa, đối với Thiêng Liêng đều vô nghĩa cả.
THI
Thành đạo do con trọn chí thành
Bụi trần chớ để mờ chơn tánh
Ngôi vị Tiên Cung Mẹ sẵn dành.
BÀI
1. Mẹ sẵn dành hồng ân cho trẻ
Chẳng riêng mình nặng nhẹ chung lo
Kề vai gánh Đạo, gánh cho vững vàng.
2. Thu sang rồi, thu sang đây nữa
Thu sang thu, lần lựa thu sang
Đành rằng khai Đạo cứu đời,
Đạo cho nên Đạo thì đời mới yên.
Giữ mối giềng căn cứ tu thân
Con tu mới có mấy phần
Tà niệm không, là điểm chánh tâm
Chánh tâm không tưởng sai lầm
6. Học đạo phải do nơi chơn lý
Lý mầu siêu việt tinh thần Phật Tiên.
Mấy ngàn năm đã mấy ngàn
8. Nay Thượng Đế chính mình giáng thế
Trong cơ sàng sảy định phần
Hoằng khai chánh đạo xá ân Tam Kỳ.
9. Mấy mươi thu có chi hỡi trẻ
Mấy mùa thu lặng lẽ trôi qua
Đứa trong cửa đạo, đứa xa dặm trường.
10. Đến xin Mẹ tình thương tuyệt đối
Giữa khi con mỏi gối oằn vai
Đạo đời mặn lạt chua cay
11. Đứa giàu có bạc tiền sang cả
Con ôi! Hạnh phúc ai ban
Phải chăng nhiều kiếp tu thân mới là?
12. Đứa thiếu thốn thiết tha than thở
Khổ đâu con máng vào thân
Phải chăng kiếp trước quả nhân tạo gầy?
Thì hãy trông duyên nghiệp hiện thời
Muốn xem hậu quả đổi dời
Hãy trông những việc tự nơi con làm.
Con ôi! Trời đất rộng thinh
Mảy lông chẳng lọt, công bình thưởng răn.
15. Con muốn yên, ngày hằng lo đạo
Tu hiện thời mà tạo tương lai
Tránh bao nhiêu nghiệp trần ai
Khỏi bao nhiêu cảnh họa tai khổ sầu.
16. Tu tìm hiểu cơ mầu vô thượng
Tu cho thân khỏi vướng luân hồi
Noi đường chánh đạo con ôi
Thực hành chơn lý mới rồi phận tu.
17. Chánh đạo chẳng âm u mờ tối
Chơn lý không lừa dối ngụy tà
Đã sanh ra kiếp người ta
18. Khi hiểu được những gì chơn lý
Đạo không tách khỏi lý chơn
19. Con đừng mơ những gì huyền ảo
Cửa Trời sẵn để khóa then
20. Mùa thu nầy với tình mẫu tử
Đến thu sau tuần tự tiến lên
Con ôi! Hoa nở trước thềm
Con ôi! Hiện tình cơ Đạo còn đang phân phân bất nhứt,[64] mà các con chưa thắng được mị quyền.[65] Vì thế mà Mẹ rất thương các con phái nữ, chúng nó có một tâm hồn yếu ớt và một hình vóc liễu bồ.[66] Lúc thiếu thời thì ít giác ngộ tu thân, đến lúc mỏi gánh oằn vai lại tìm về với Mẹ. Có đứa sớm phát tâm mộ đạo, chẳng thích việc hồng trần,[67] tránh xa đời khổ lụy, rất đáng ngợi khen.
Mẹ rất thương là thương các con trong thời biến chuyển, tiếc là tiếc các con thiếu dạ can trường,[68] nên trong việc tu học lại lười biếng, chỉ quen tánh vui đâu chúc đó; còn đứa giỏi giắn siêng năng, vừa vượt bực lại tự kiêu tự ái. Nhưng bịnh sanh thì tinh thần phải mờ ám, tà quyền mới thừa cơ chế ngự, mưu chước sắp bày, chỉ trích, tặng phong nhóm nầy nhóm nọ. Dầu chưa đến nỗi hờn giận rẽ chia, nhưng mỗi đứa đều tách một lối riêng, phải hay không vẫn tưởng mình là cao siêu bí pháp. Nhưng con ôi! Đâu ngờ kẻ trộm thừa đêm tối mới trộm đồ vật, quỷ ma cũng thừa lúc người đang tham mê dục vọng mới vẽ trò tà mị.
Mẹ đã dạy các con nhiều lần. Trời đất không riêng, đạo lý có một. Đã là có một thì không riêng, mà tư riêng là không còn một của đạo lý nữa. Con hãy học đức từ bi của Phật, bác ái của Tiên, công bình của Thánh, cùng hợp ý chung tâm để tìm lẽ Đạo, thì tất nhiên điều sai lạc sẽ được phô bày tỏ rõ. Con sẽ được niềm tin yêu của đồng đạo, và khi nhơn dục tịnh tận, Thiên lý sẽ lưu hành.[69] Đó là chơn lý của công trình, công quả và công phu vậy.
THI
Đạo lý chỉ cần lẽ thiệt thôi
Đừng mơ ảo ảnh chốn xa xôi
NGÂM
Mừng con trong tiết Trung Thu
Diêu Cung Mẹ ngự trông chờ các con.
Thăng.
Đức VÔ CỰC TỪ TÔN DIÊU TRÌ KIM MẪU
Đàn giờ Ngọ ngày 15-8 Ất Tỵ (10-9-1965) tại Chơn Lý Đàn (Vạn Quốc Tự, quận 3) và đàn giờ Tý đêm 15 rạng 16-8 Ất Tỵ (10 rạng 11-9-1965) tại thánh thất Tân Định (quận 1).
[1] Giá loan: Loan giá 鸞駕 ; xe do chim loan kéo. Hộ giá loan: Hộ loan giá 護鸞駕; theo phò Đức Kim Mẫu. (Giá: cỗ xe; loan: chim loan, loài chim của cõi Tiên.)
[3] Chư Thiên mạng (mệnh) 諸天命: Các bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó là thế Thiên hành hóa 替天行化 (thay Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu hành).
Đàn cơ này lập vào giờ Ngọ ngày 15-8 Ất Tỵ tại Chơn Lý Đàn (Vạn Quốc Tự, quận 3), sau đó tiếp tục vào giờ Tý ngày 15 rạng 16-8 Ất Tỵ tại thánh thất Tân Định (quận 1).
[7] Trượng 丈: Đơn vị đo chiều dài, bằng mười thước (xích 尺: khoảng một phần ba mét, 0,33m). Muôn trượng: Khoảng cách rất xa, rất cao.
[8] Bút ngọc: Ngọc cơ 玉乩; ngọn cơ để cầu Tiên. Cũng gọi đại ngọc cơ 大玉乩. (Ngọc, đại là cách nói để tỏ lòng tôn quý.)
[11] Cá vượt long môn rồi có thuở: Rồi sẽ có lúc cá chép nhảy qua khỏi võ (vũ) môn 禹門 hóa thành rồng. Thành ngữ: Lý dược long môn 鯉躍龍門: Cá chép vượt vũ môn. Người phàm tục tu hành đúng theo chánh pháp sẽ có ngày đắc quả, thoát tục trở thành Thần Thánh Tiên Phật. (There will come a time when a human becomes a divinity.)
[15] Hầu: Ngõ hầu, để mà (in order to).
[20] Thủy tú sơn kỳ 水繡山奇: Vẻ đẹp xinh của sông nước, núi non (scenic beauty of rivers and mountains).
[23] Trực giác nguyên nhân 直覺原因: Hiểu rõ tức thì nguyên nhân, duyên cớ của sự vật mà không cần đến lý trí suy luận (to undestand causes or origins of things by intuition).
[24] Xa mã 車馬: Xe và ngựa (carriages and horses). Nhử hàng xa mã: Cám dỗ, quyến rũ giới giàu có (to entice the rich).
[27] Trung hưng chánh pháp 中興正法: Phục hưng lại chánh pháp sau thời kỳ suy yếu (to restore the true dharma after its temporary decline).
[32] Nhặt thúc: Dồn dập và nhanh. Thiều quang 韶光: Thời gian trôi qua (a passing time). Nhặt thúc thiều quang: Thời gian trôi qua rất mau (Time flies with hasty step).
[34] Trần ai 塵埃: Trần gian, cõi trần, cõi bụi bặm, hồng trần, cõi bụi hồng (the dusty world). Trần và ai cùng nghĩa là bụi bặm (dust).
[35] Lụy: Nước mắt (tears). Lụy ngọc: Nước mắt đấng tôn quý.
[36] Mối giềng (cương kỷ 綱紀): Những phép tắc làm nên trật tự trong một tổ chức, đoàn thể, xã hội (discipline and order).
[37] Trí tri cách vật (cách vật trí tri 格物致知): Nghiên cứu, tìm hiểu tới cùng để hiểu biết thật rõ sự vật (to investigate things thoroughly in order to attain thorough knowledge).
[39] Câu “Trí tri cách vật, chánh tâm, ý thành” nhắc lại ý một đoạn quan trọng trong sách Đại Học 大學:
Muốn tu thân mình, trước hết phải giữ tâm mình ngay thẳng. Muốn giữ tâm mình ngay thẳng, trước hết phải giữ ý mình chân thành. Muốn giữ ý mình chân thành, trước hết phải tìm hiểu cho đến cùng tột. Hiểu biết đến cùng tột là nhờ nghiên cứu sự vật tới cùng tột. Sự vật được nghiên cứu tới cùng tột thì hiểu biết mới đến cùng tột. Hiểu biết đã đến cùng tột thì ý mới thành. Ý đã thành thì tâm mới ngay thẳng. Tâm đã ngay thẳng thì thân mới tu được.
Dục tu kỳ thân giả, tiên chính kỳ tâm. Dục chính kỳ tâm giả, tiên thành kỳ ý. Dục thành kỳ ý giả, tiên trí kỳ tri. Trí tri tại cách vật. Vật cách nhi hậu tri chí. Tri chí nhi hậu ý thành. Ý thành nhi hậu tâm chính. Tâm chính nhi hậu thân tu.
欲修其身者, 先正其心. 欲正其心者, 先誠其意. 欲誠其意 者, 先致其知. 致知在格物. 物格而后知至. 知至而后意誠. 意誠而后心 正. 心正而后身修.
[42] Chánh kỷ hóa nhân 正己化人: Sửa mình cho ngay thẳng rồi mới có thể giáo hóa người khác (Rectifying oneself before correcting others).
[45] Căn nguyên 根源(原): Nguồn gốc, cội rễ (origin, root). Tam Giáo bởi căn nguyên Đại Đạo: Ba tôn giáo Nho, Thích, Lão đều phát xuất từ Đại Đạo (The Three Teachings originated from the Great Dao).
[46] Lân bang 鄰邦: Nước láng giềng (neighbouring state). Thích Ca, Nho, Lão lân bang: Ba tôn giáo Thích, Nho, Lão truyền vào Việt Nam từ nước láng giềng là Trung Quốc.
[47] Tay phàm: Những vị thầy còn là người phàm tục, bản thân chưa đắc đạo (secular masters).
[49] Bể hạ nguơn: Biển khổ thời hạ nguơn mạt kiếp.
[50] Ái hà 爱河: Sông yêu thương, sông tình ái (the river of love). Tình yêu thương nam nữ làm người ta đắm chìm nên ví như sông nước. Có câu Ái hà thiên xích lãng 爱河千尺浪 (Sóng ở sông tình ái cao ngàn thước), ngụ ý sông tình ái có sóng dữ làm con người chìm đắm. Chữ ái này là một món trong thất tình, làm con người luân hồi. Trái lại, chữ ái trong bác ái, ái tha là tình thương, là đức độ của Hiền Thánh, là chìa khóa mở cửa Bạch Ngọc Kinh vào chầu Thượng Đế.
[51] Tóc phai sắc huyền: Tóc không còn đen nhánh, bắt đầu điểm bạc (Hair is turning gray).
[52] Môn hạ 門下: Những kẻ dưới quyền, những người làm tay chân bộ hạ cho kẻ quyền thế (subordinates).
[57] Lương tri 良知: Lương tâm (conscience), tánh thiện tự nhiên như bản năng (instinctive moral sense).
[58] Ích kỷ hại nhơn (nhân) 益己害人: Cũng như lợi kỷ tổn nhân 利己損人, làm lợi cho mình mà tổn hại cho người khác (to make oneself profitable while harming others).
[59] Keo sơn (tất giao 漆膠): Tất là keo nấu bằng da động vật (a dao); sơn là nhựa cây sơn. Hai thứ này có tính kết dính, do đó nói keo sơn tức là gắn bó không rời (inseparable).
[60] Tu trì 修持: Trì giới tu hành 持戒修行: Giữ giới và tu hành. Tu thân thủ đạo 修身守道: Tu thân và giữ đạo. Tu hành không lơi lỏng. Trì: Gìn giữ, nắm giữ (to grasp, to hold).
[62] Cửa Trời sẵn để khóa then / Thì con cũng đã có riêng tự mình: Con người có sẵn chìa khóa để mở cửa vào cõi Trời hay Thiên Đình. Chìa khóa này tàng ẩn trong thân xác, phép tu thiền giúp con người tìm thấy chìa khóa này. Nếu không tu, con người muôn kiếp cứ quanh quẩn ở cõi trần. Đức Chí Tôn dạy: “Con là một thiêng liêng tại thế / Cùng với Thầy đồng thể linh quang / Khóa chìa con đã sẵn sàng / Khi vào cõi tục khi sang Thiên Đình.” (Thiên Lý Đàn, 04-02-1966).
[66] Liễu bồ (bồ liễu 蒲柳): Một thứ liễu mọc ở ven nước, cành lá ẻo lả, dùng để nói vóc dáng con gái mảnh mai, yếu đuối (a kind of willow, representing slender and weakly women).
[69] Nhơn (nhân) dục tịnh tận, Thiên lý lưu hành 人欲凈盡, 天理流行: Khi những ham muốn của con người đều hoàn toàn tinh sạch thì lẽ Trời tuôn chảy. (When human desires are completely purified, the Heavenly principle flows forth.)
Để tìm hiểu thấu đáo hai chữ Thiên lý, xin đọc phần giảng giải rất hay của triết gia Phùng Hữu Lan (1895-1990), trích trong Lịch Sử Triết Học Trung Quốc, quyển II, tr. 564-572, bản dịch của Lê Anh Minh (Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 2007).
[70] Cơ phàm thánh (phàm thánh chi cơ 凡聖之機): Cái điểm then chốt để nhờ đó con người phàm phu tu luyện trở nên Thần Thánh (The inherent pivot or crucial point that helps a wordly person turn into a divinity by practising meditation).
[71] Tua: Nên, do chữ Hán là tu 須 (should). Khá tua (Khả tu 可須): khá nên, hãy nên. Tua gắng sức: Nên cố gắng (should try hard).
HUỆ KHẢI & LÊ ANH MINH hiệp chú