Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

Các địa chỉ liên lạc để thỉnh kinh sách ấn tống (kính biếu):



 PHƯƠNG DANH
ĐIỆN THOẠI
Cà Mau:
NGUYỄN HỒNG TỪ PHƯỚC
 0916028939
Đà Nẵng:
Lễ Sanh TRẦN THANH TỪ
ĐỖ THỊ KẾT
NGUYỄN THỊ LANG
 0912949657
 0985780369
 0905008999
Giá Rai:
Thông Sự BÙI VĂN PHẤN
 0914753392
Hộ Phòng:
LÊ QUỐC VIỆT
 0919434444
Lâm Đồng:
NGUYỄN QUANG TÍN
 0976505639
Long An:
PHẠM TRUNG QUỐC
 0913780123
Long Khánh:
NGUYỄN VĂN ĐẠO
 01693113723
Quảng Nam:
Giáo Hữu THƯỢNG THUẦN THANH
 0905870081
Quảng Ngãi:
Lễ Sanh NGUYỄN VĂN HIẾU
 01287529557
Tây Nguyên:
NGUYỄN SANH
 0902573623
Tây Ninh:
NGUYỄN VĂN NGHĨA
 0987524949
TpHCM:
MINH QUANG Trần Văn Quang
 0913613653
Vĩnh Long:
LÊ THỊ HỮU
 0969263264

ĐĐVU 20 / KINH SÁCH MỚI IN



“… mỗi ngày phải chừa một giờ để đọc thánh kinh hiền truyện.”
Đức GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO
Vạn Quốc Tự, Sài Gòn, 15-11 Ất Tỵ (07-12-1965)

Kinh sách mới ấn tống Quý Bốn năm 2016:

 

101-1. GIỮ LỬA CHO NHAU (Huệ Khải, in 3.000 quyển) – Do chơn linh toàn gia cố hiền tỷ HUỲNH THỊ DƯNG (môn sanh Chiếu Minh Long Vân Đàn, Mỹ Tho) công quả 17 triệu đồng.

ĐẠI ĐẠO VĂN UYỂN (Hiệp tuyển). Tập Trinh (20) – Quý Bốn năm 2016. Quý vị Mạnh Thường Quân đóng góp nhiều đợt (29.000.000 đồng). Ban Ấn Tống tổng kết và phân bổ từ quỹ chung, để ấn tống 3.000 quyển. Phương danh quý vị ân nhân như sau (gồm hai phần):
PHẦN A. 60 đạo tâm x 50.000 đồng = 3.000.000 đồng
BẠCH VÂN HƯƠNG: Gởi đợt 4. / DƯƠNG KIM MAI: Minh Phụng, Q11. Gởi đợt 47. / DƯƠNG QUANG HỒNG: Gởi đợt 17. / ĐẶNG PHƯỚC BÌNH MINH: Nguyễn Thanh Tuyền, Tân Bình. Gởi đợt 65. / ĐẶNG PHƯỚC NGUYỆT CÁT: Q5. Gởi đợt 90. / ĐẶNG THỊ KIM NGUYÊN: Gởi đợt 9. / ĐẶNG VĂN KÝ: Gởi đợt 5. / ĐỖ THỊ XUÂN HỒNG: Gởi đợt 28. / HUỲNH THỊ LẮM: TT An Điền. Gởi đợt 48B. / HUỲNH VĂN DĨ: Trần Kế Xương, Phú Nhuận. Gởi đợt 32. / Lễ Sanh HƯƠNG HÁT: Thủ Đức. Gởi đợt 1. / LÂM TRẦN MINH HẠNH: Cao Thắng, Q3. Gởi đợt 20. / LÂM TUYỀN: Gởi đợt 28.
LÊ CẤP: Gởi đợt 48B. / LÊ ĐĂNG KHOA: Gởi đợt 65. / LÊ HOÀNG PHONG: Cao Lãnh. Gởi đợt 24. / LÊ QUANG HIỀN: P12, Q6. Gởi đợt 37. / LÊ THỊ THU: Đầm Dơi, Cà Mau. Hồi hướng cửu huyền thất tổ. Gởi đợt 56. / LÊ VĂN NHỰT: Gởi đợt 48B. / MAI THỊ LOAN: Gởi đợt 28. / Lễ Sanh NGỌC THÀNH THANH: Gởi đợt 38. / NGUYỄN ĐĂNG TOÀN: Cà Mau. Gởi đợt 12. / NGUYỄN ĐỨC TIẾN ĐẠT: Gởi đợt 109. / NGUYỄN MINH KIỂM: Cà Mau. Hồi hướng chúng sanh. Gởi đợt 44. / NGUYỄN NGỌC PHƯỚC: TT Trung Bảo. Gởi đợt 38. / NGUYỄN THẠCH VŨ: XN In Fahasa. Gởi đợt 111. / NGUYỄN THANH TÂM: Trà Vinh. Gởi đợt 61. / NGUYỄN THANH THÚY: Gởi đợt 24. / NGUYỄN THỊ CƯƠNG: Gởi đợt 4. / NGUYỄN THỊ DIỄM: Cù lao Long Khánh, Hồng Ngự. Gởi đợt 59. / NGUYỄN THỊ HÀ: Bà Hom, Bình Tân. Hồi hướng song thân (ĐH Nguyễn Đình Học, ĐT Đoàn Thị Phấn). Gởi đợt 43. / NGUYỄN THỊ HẠNH: Gởi đợt 5. / NGUYỄN THỊ LAN, NGUYỄN TÔN TẬP: Trần Cao Vân, Tam Kỳ. Hồi hướng cửu huyền thất tổ. Gởi đợt 59. / Chơn linh ĐT NGUYỄN THỊ MỸ AN: Gởi đợt 82. / NGUYỄN THỊ NGỌC LAN: Trần Cao Vân, Tam Kỳ. Hồi hướng cửu huyền thất tổ. Gởi đợt 50. / NGUYỄN THỊ SUA: Gởi đợt 38. / NGUYỄN THỊ Y: Nguyễn Công Trứ, Q1. Gởi đợt 43. / NGUYỄN VĂN HỢP: Lê Hồng Phong, Q10. Gởi đợt 11. / NGUYỄN VĂN LIÊM: Trà Cú, Trà Vinh. Gởi đợt 25. / NGUYỄN VĂN THOẠI: Tây Ninh. Gởi đợt 38. / Bé NGUYỄN VIỆT HUỲNH MAI: Gởi đợt 17. / PHẠM DUY QUANG: Trung Thiên Tự. Gởi đợt 9. / PHẠM HUY THANH: Trung Lương. Gởi đợt 28. / PHẠM THỊ KIM THÙY: Gởi đợt 24. / PHẠM THỊ THAO: Gởi đợt 1. / PHẠM THỊ Y: Gởi đợt 28. / TẠ KIM VY: Gởi đợt 38. / THẦY CHÍN: Gởi đợt 39. / TÔ THỊ BẠCH: Gởi đợt 4. / TRẦN NGỌC: Trà Vinh. Gởi đợt 55. / TRẦN THỊ BẠCH TUYẾT: ấp 4 Bình Hưng, Bình Chánh. Gởi đợt 39. / TRẦN THỊ THÀ: Gởi đợt 48B. / TRẦN THU HÀ: Q7. Gởi đợt 55. / TRẦN VĂN CHIẾN: Gởi đợt 24. / TRẦN VĂN SƠN: Tam Thôn Hiệp. Gởi đợt 41. / TRẦN VĂN TÒNG: Gởi đợt 28. / TRẦN VĂN ÚT: Tiền Giang. Hồi hướng cửu huyền thất tổ. Gởi đợt 34. / TRẦN YẾN PHƯỢNG: Thạnh Phú. Gởi đợt 30. / TRỊNH THIỀU MINH AN: Gởi đợt 28. / TRỊNH TRƯƠNG AN CƯ: Gởi đợt 28.
PHẦN B. 130 đạo tâm x 200.000 đồng = 26.000.000 đồng

ẨN DANH: Gởi đợt 108. / BẠCH DIỆU, Chánh Hội Trưởng Cao Thượng Bửu Tòa: Gởi đợt 82. / Hồi hướng ĐT BÙI THỊ BẢY: Gởi đợt 4, 5. / Giác linh ĐH BÙI VĂN NỘI, giác linh ĐT PHẠM THỊ ÚT: Gởi đợt 63. / CAO THỊ TUYẾT: Hồi hướng giác linh ĐT Cao Thị Chấm. Gởi đợt 60. / CAO THỊ VẠN: Gởi đợt 38. / CẨM HOÀNG: Ngô Quyền. Gởi đợt 33. / Giác linh ĐT CHÂU THỊ HOẢNH: Gởi đợt 17. / CƠM CHAY XUYẾN: Chợ cũ, P Xuân An, TX Long Khánh. Gởi đợt 88. / DIỆU HIẾU: Gởi đợt 48B. / DƯƠNG KIM HỒNG: Gởi đợt 5. / ĐẶNG THÀNH DUY: Tôn Đản, Q4. Gởi đợt 20. / ĐẶNG THỊ THỦY TIÊN: Gởi đợt 30. / ĐẶNG THỊ TIẾT: Gởi đợt 48B. / ĐẶNG TÚ: Gởi đợt 42. / ĐOÀN THỊ BÍCH THỦY: Đa Phước. Gởi đợt 49. / ĐỖ HOÀI NGHĨA: ấp Bình Trị 1, Phú Ngãi Trị, Châu Thành, Long An. Gởi đợt 66. / ĐỖ THÀNH NAM: Nguyễn Lữ, KP Mỹ Hòa. Đập Đá, An Nhơn, Bình Định. Gởi đợt 64. / ĐỖ THỊ NHƯ HƯƠNG: Gởi đợt 48B. / ĐỖ THỊ THANH NGUYÊN: Bình Định. Gởi đợt 64. / HẠNH (Bàu Sen): Gởi đợt 97. / HỒ ĐẠO HẠNH: Chu Văn An, P12, Bình Thạnh. Gởi đợt 80. / HUỲNH THỊ HẢI: Gởi đợt 78. / Chơn linh ĐT HỒ THỊ BẢY: Gởi đợt 94. / HỒ THỊ THIA: ấp 4, Mỹ Nhơn, Ba Tri, Bến Tre. Gởi đợt 62. / HỒ VĂN SÁU: Chánh Hưng, P10, Q8. Gởi đợt 17. / HỒNG CÚC: Nguyễn Quyền, P10, Q8. Gởi đợt 7. / HUỲNH KIM BE, NGUYỄN THỊ MÀNH: Lương Hòa, Giồng Trôm, Bến Tre. Gởi đợt 20. / HUỲNH MỘNG THÚY: Gò Đen. Gởi đợt 96. / HUỲNH TẤN THUẦN: Gởi đợt 48B. / HUỲNH THANH TÂM: đường Cây Trâm, Bình Phước, Thuận An, Lái Thiêu, Bình Dương. Gởi đợt 40, 44. / HUỲNH THỊ HAI: An Bình Tây, Ba Tri, Bến Tre. Gởi đợt 43. / HUỲNH THỊ NHIỄN: ấp 7, TTr Thạnh Phú, Bến Tre. Hồi hướng giác linh chồng (Giang Văn Trường, 37 tuổi). Gởi đợt 34. / HUỲNH TUẤN TÚ: Trần Phú, P4, Q5. Gởi đợt 53. / HUỲNH VĂN ĐÔ: Gởi đợt 14. / KIM BẢNG: Gởi đợt 48B. / KIM HƯƠNG (Bà Đức Nguyên): 3 tháng 2, Q11. Gởi đợt 48B. / Chơn linh ĐH LÂM ĐĂNG GIAI, ĐT HUỲNH THỊ HAI: Sài Gòn. Gởi đợt 41. / LÂM THỊ PHÁT: Gởi đợt 48B. / LÊ DUY NHẤT: Bến Tre. Gởi đợt 25, 28. / LÊ ĐIỀN HUÂN: Trần Phú, P4, Q5. Gởi đợt 24. / LÊ HOÀNG MỸ PHƯƠNG: Q3. Gởi đợt 28. / Lễ Sanh LÊ HƯƠNG NHẪN: tịnh thất Thanh Định, Qui Nhơn. Gởi đợt 59HK. / LÊ KỲ: Nguyên giáo viên trường Nguyễn Văn Cừ (Đà Nẵng). Gởi đợt 86, 97. / LÊ THỊ BÍCH THUẬN, THANH HIỀN: Gởi đợt 2. / LÊ THỊ BÌNH: Gởi đợt 28. / LÊ THỊ KIM HẠNH: Gởi đợt 17. / LÊ THỊ THANH LOAN: cao ốc 2, Ngô Gia Tự. Gởi đợt 4. / Chơn linh ĐH LÊ VĂN HỐI: Bến Tre. Gởi đợt 25. / LÊ VĂN NGHỆ: Nguyễn An Khương, Q5. Hồi hướng thân phụ (Lê Vỹ) và cửu huyền thất tổ. Gởi đợt 32, 38. / LÊ VĂN QUỚI (nguyên hv. Thông Thiên Học, SG): Long Điền, BR-VT. Gởi đợt 98. / LÝ XUÂN MAI: Biên Hòa, Đồng Nai. Gởi đợt 28. / MINH TRUNG: Tây Ninh. Gởi đợt 95. / NGỌC PHẤN: Gởi đợt 62. / NGÔ MỸ HẠNH: KP4, P Bửu Long, Tp Biên Hòa. Gởi đợt 88. / NGUYỄN CHÍ PHƯƠNG: Tân Phước Khánh, Tân Uyên, Bình Dương. Gởi đợt 62. / NGUYỄN ĐÔNG HẢI: Lê Hồng Phong, P2, Q5. Gởi đợt 23. / NGUYỄN ĐỨC TIẾN ĐẠT: Tôn Đản, P10, Q4. Gởi đợt 50, 51, 89. / Lễ Sanh NGUYỄN HƯỚNG: Gởi đợt 48B. / NGUYỄN MINH ĐỨC: P16, Q8. Gởi đợt 15. / Hồi hướng ĐT NGUYỄN NGỌC LIÊN: Gởi đợt 4, 5. / NGUYỄN NGỌC PHƯỚC, NGUYỄN NGỌC XUÂN MAI: Ông Ích Khiêm, Q11. Hồi hướng giác linh ĐT Nguyễn Thị Nhiệm. Gởi đợt 20. / NGUYỄN TẤN LỘC: Đoàn Văn Bơ nối dài, Q4. Gởi đợt 41. / NGUYỄN TẤN TÀI: TTr Tân Túc, Bình Chánh. Hồi hướng cha (Nguyễn Toàn), Nguyễn Trí Tình, Mẹ (Trần Thị Hải). Gởi đợt 44, 48B. / NGUYỄN THẠCH VŨ: XN In Fahasa. Gởi đợt 62, 63, 65, 68. / NGUYỄN THOẠI TÙNG, NGUYỄN TRÚC QUỲNH: Dạ Nam, cầu Chữ Y, P2, Q8. Gởi đợt 30. / NGUYỄN THỊ ẤU: Gởi đợt 28. / NGUYỄN THỊ CHẮC: Gởi đợt 4, 5. / NGUYỄN THỊ DIỆU: ấp Hiệp Lực, TTr Định Quán, Đồng Nai. Gởi đợt 49. / NGUYỄN THỊ KIM XUYẾN: Bình Thạnh, Thạnh Phú, Bến Tre. Gởi đợt 34. / NGUYỄN THỊ NGỌC HIỀN, Thượng Ranh Thanh (TT Tân Phước): Gia Thuận, Gò Công Đông. Hồi hướng cửu huyền thất tổ. Gởi đợt 61HK. / NGUYỄN THỊ MƯỜI, NGUYỄN THỊ SƯƠNG: Gởi đợt 33. / NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH: Võ Văn Tần. Gởi đợt 67. / NGUYỄN THỊ TÂM: Thủ Đức. Gởi đợt 108. / NGUYỄN THỊ THANH DANH: Bến Tre. Gởi đợt 25, 28. / NGUYỄN THỊ THU THẢO: Võ Văn Tần, P5, Q3. Gởi đợt 48B. / NGUYỄN THỊ THU VÂN: Gởi đợt 41. / NGUYỄN THỊ THỦY TIÊN: đường 59, P10, Q6. Gởi đợt 30. / NGUYỄN THỊ TIẾT, Tòa Thánh Tây Ninh: Gởi đợt 82. / NGUYỄN THỊ TUYẾT: P2 Tp Vũng Tàu. Gởi đợt 53. / NGUYỄN TRỌNG NHƠN: Trường Phước, Trường Tây, Hòa Thành. Gởi đợt 84. / NGUYỄN VĂN CỦA: ấp Chợ, Long Hựu Đông. Gởi đợt 52. / NGUYỄN VĂN HIỆP: Gởi đợt 87. / NGUYỄN VĂN HOÀNG: Tây Ninh. Gởi đợt 70. / NGUYỄN VĂN MINH: Hà Huy Giáp, Q12. Gởi đợt 73. / NGUYỄN VĂN NAM: Tổ T4, khóm 1, P Cái Vồn, TX Bình Minh, Vĩnh Long. Gởi đợt 87. / NGUYỄN VĂN NGHĨA: đường 30-4, An Phú, Ninh Kiều, Cần Thơ. Hồi hướng tứ thân phụ mẫu: NGUYỄN VĂN BỬU, TRẦN LUYẾN CHÂU, LƯU VĂN MÃN, KHƯU THỊ HƯNG: Gởi đợt 40, 57. / NGUYỄN VĂN TÂN: ấp Long Thái, Long Khánh B, Hồng Ngự, Đồng Tháp. Gởi đợt 82. / NGUYỄN VĂN THẬT: Q5. Hồi hướng cửu huyền thất tổ. Gởi đợt 5, 34. / NGUYỄN VĂN TUẤN: Ấp 6, Nhựt Chánh, Bến Lức, Long An. & NGUYỄN VĂN TUẤN (41 tuổi): Cù lao Long Khánh, Hồng Ngự, Đồng Tháp. Gởi đợt 32, 41, 59. / NGUYỄN VĂN XUÂN: Gởi đợt 83. / NGUYỆT QUÝ, THƯ GIÁO: Hồi hướng chơn linh ĐH Tường Tâm. Gởi đợt 28. / NHÂN NGUYÊN ĐƯỜNG: Long Giao, Cẩm Mỹ, Đồng Nai. Gởi đợt 59. / PHẠM KIM LOAN: Gởi đợt 41. / PHẠM THỊ KIM XE: Gởi đợt 4. / PHẠM THỊ PHƯƠNG: Gởi đợt 41. / PHẠM VĂN HẠNH: Gởi đợt 48B. / PHẠM VĂN MU: Gởi đợt 42. / PHẠM VŨ HƯƠNG TRÀ: Trung An, Trung Lương, Mỹ Tho, Tiền Giang. Hồi hướng ông ngoại (Võ Đức). Gởi đợt 12, 25, 33, 37. / PHAN HOÀNG VINH (TT Ninh Sơn): Lạc Long Quân, TB. Gởi đợt 7, 17, 24, 38. / PHAN THỊ HỒNG CÚC: Gởi đợt 42. / Hồi hướng ĐT PHAN THỊ VIỆN (78 tuổi): Long Khánh, Hồng Ngự, Đồng Tháp. Gởi đợt 66. / ThS PHAN XUÂN THẢO: ĐH Kinh tế TpHCM. Gởi đợt 12, 17. / PHƯƠNG LAN: Gởi đợt 1. / QUÁCH THANH HOA: Gởi đợt 28. / Giáo Hữu THÁI QUANG THANH: Gởi đợt 48B. / Cố THANH TÙNG: Gởi đợt 28. / Thánh thất TÂY THÀNH: Gởi đợt 68. / Cố Đạo Tộc THƯỢNG HỮU THANH: Gởi đợt 5. / Chơn linh TỊNH HÒA: Cần Thơ. Gởi đợt 24. / Chơn linh ĐH TRẦN HIẾU TRUNG (quy 23-9 Giáp Ngọ, 30 tuổi): Bàu Năng, Ninh Hiệp, Dương Minh Châu, Tây Ninh. Gởi đợt 99. / TRẦN PHỤ BÌNH: Đào Tấn, P5, Q5. Hồi hướng mẹ (ĐT Trang Sai Lang). Gởi đợt 62. / TRẦN QUỐC TÂM: Phan Viết Thống, Khu 2, TTr Cai Lậy. Gởi đợt 43. / TRẦN THỊ CÚC: Tôn Thất Thuyết, P3, Q4. Gởi đợt 85. / TRẦN THỊ ĐÔNG: Gởi đợt 65, 91. / TRẦN THỊ GHI: Đinh Tiên Hoàng, P1, Bình Thạnh. Gởi đợt 33. / TRẦN THỊ KIM ĐỊNH: Gởi đợt 17. / TRẦN THỊ MUỘI (HT Bạch Y, Kiên Giang): Gởi đợt 100. / TRẦN THỊ THÚY OANH: ấp 5, Đa Phước. Hồi hướng cha (Trần Văn Nghĩa). Gởi đợt 49. / TRẦN THỊ TUYẾT: Gởi đợt 37. / TRẦN VĂN SÁU: Gởi đợt 38. / TRẦN VĂN SẾN: Gởi đợt 94. / Chơn linh ĐH TRẦN VĂN SỬ (TT Bàu Sen): Trần Xuân Soạn, Q7. Gởi đợt 99. / TRẦN VŨ PHONG: Gởi đợt 48B. / Giác linh ĐT TRƯƠNG THỊ DIỄN: Gởi đợt 78. / TRƯƠNG THỊ NHẪN: ấp Suối Cát 2, Suối Cát, Xuân Lộc, Đồng Nai. Gởi đợt 50. / TƯ DUNG: Bà Rịa - Vũng Tàu: Gởi đợt 48B. / VĂN CÔNG BÔNG (58 tuổi): Đường 19, P 4, Q 8. Hồi hướng giải bệnh. Gởi đợt 40. / VÕ THỊ HẠNH (CQPTGLĐĐ) và gia đình: Gởi đợt 112. / VŨ HOÀNG CHƯƠNG: Gởi đợt 48B.



ĐĐVU 20 / GIÓ BỐN PHƯƠNG


Gió muốn thổi đâu thì thổi. GIOAN 3:8

* Hiền hữu Phạm Văn Cảnh (huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang). Thư ngày 19-8-2016:
Trong ĐIẾU CỔ HẠ KIM THI TẬP in tại Sài Gòn năm 1915, tác giả Nguyễn Liên Phong có bài thơ khen tặng Đức Quyền Giáo Tông Lê Văn Trung dùng nhiều chữ khó hiểu. Kính nhờ Văn Uyển giải nghĩa bài thơ này.
Huệ Khải: Đúng như hiền hữu nhận xét, bài thơ dùng một số từ Việt nay không còn phổ thông, do đó có phần khó hiểu. Trước hết, nhan đề tập thơ nói điếu cổ 弔古 nghĩa là thương viếng người xưa (đã khuất bóng), và nói h kim 賀今 nghĩa là mừng tặng người nay (đang còn sống). Bài thất ngôn bát cú khen tặng tiền khai Lê Văn Trung của ông Nguyễn Liên Phong buổi ấy là thơ hạ kim”.
Ra tài Quản Hạt bấy thu chầy (1)
Quan chuộng dân yêu hội hiệp vầy
Lòng dạ thẳng ngay, gương vặc vặc (2)
Tiếng tăm khen ngợi, tiết hây hây (3)
Thương trường (4) mở cuộc buồm xuôi gió
Thượng Viện (5) gặp thời chí lướt mây
Nhờ đức thung huyên (6) vun quén sẵn
Lộc Trời ơn nước, phước gồm may (7).
([1]) Quản Ht: Năm 1906 (Bính Ngọ) tiền khai ứng cử và đắc cử Hội Đồng Quản Hạt (Conseil Colonial de Cochinchine), đại diện cho Sài Gòn, Gia Định, Chợ Lớn, Gò Công, Tây Ninh. Bấy giờ ngoài mười nghị viên người Pháp, Hội Đồng Quản Hạt có sáu nghị viên người Việt do đại diện các hương chức Nam Kỳ bầu cử. Dân Nam Kỳ thời ấy gọi nghị viên là “ông Hội Đồng”, gọi vợ nghị viên là “bà Hội Đồng”. Tiền khai Lê Văn Trung đắc cử liên tiếp hai khóa, tổng cộng tám năm.
Trong khóa đầu, Quyền Thống Đốc Nam Kỳ Ernest Outrey đưa ra Hội Đồng dự thảo lục hạng điền (sáu loại ruộng phải đánh thuế) bất lợi cho nông dân Nam Kỳ. Tiền khai Trung và ông Diệp Văn Cương (đại diện tỉnh Bến Tre) cùng bốn nghị viên người Việt nữa phản đối, nhưng người Pháp vì đa số đã thắng thế. Sáu nghị viên người Việt cùng từ chức đồng loạt. Khóa sau, sáu người tái ứng cử, chỉ đắc năm, còn Hội Đồng Hoài thất cử.
Bấy thu chầy: Ngần ấy năm dài.
(2) Gương vc vc: Tấm gương sáng tỏ rõ, sáng trưng. Ngày nay nói (trăng) sáng vằng vặc.
(3) Tiết hâyy: Khí tiết vẫn toàn vẹn, không sứt mẻ, không hư hỏng. Ngày nay nói hây hây nghĩa là đo đỏ, hơi đỏ.
Cặp thực (câu 4-5) khen ngợi tiền khai Lê Văn Trung cương nghị, khí tiết, luôn can đảm đối kháng thực dân Pháp để bảo vệ quyền lợi đồng bào, đơn cử như vụ “lục hạng điền” nói trên.
(4) Thương trường: Lãnh vực buôn bán, thương mại. Trong khoảng từ cuối thập niên 1900 qua tới thập niên 1910 tiền khai Lê Văn Trung có làm kinh doanh sau khi thôi làm công chức ở Phủ Thống Đốc Nam Kỳ. Bài thơ tán dương chuyện buôn bán của tiền khai in năm 1915; năm năm sau (1920) việc kinh doanh ấy không còn được “buồm xuôi gió” nữa; đến năm 1924 thì tiền khai hoàn toàn thua lỗ trong kinh doanh.
(5) Thưng Vin: Tức là Thượng Nghị Viện Đông Dương (Conseil de Gouvernement de l’Indochine: Hội Đồng Chánh Phủ Đông Dương) do Tổng Thống Pháp ra sắc lệnh ngày 20-10-1911 thành lập mà tiền thân của nó là Conseil supérieur de l’Indochine (Hội Đồng Tối Cao Đông Dương), thành lập do sắc lệnh của Tổng Thống Pháp ngày 17-10-1887. Hội Đồng tư vấn cho Toàn Quyền Đông Dương (đứng đầu Hội Đồng) về ngân sách, thuế khóa, thiết lập các thành phố, các phòng thương mại, các phòng canh nông, chế độ báo chí… Từ năm 1911, Hội Đồng có thêm ba nghị viên người bản xứ do Toàn Quyền chỉ định hàng năm, chọn trong số các thân hào, nhân sĩ (notables) ở Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Cao Miên (mỗi nơi chọn một nghị viên). Đó là lý do tiền khai Lê Văn Trung từ ngày 10-12-1914 có chân trong Hội Đồng Chánh Phủ Đông Dương, nhưng dân Nam Kỳ thuở ấy quen gọi là Thượng Nghị Viện Đông Dương. Do đó, không nên hiểu Thượng Nghị Viện ở Nam Kỳ thuộc Pháp (Cochinchine française) theo nghĩa là một trong hai cơ quan lập pháp của Quốc Hội một số nước (gồm Thượng Nghị ViệnHạ Nghị Viện).
(6) Thung (hay xuân) 椿: Cha. Huyên : Mẹ.
(7) Phước gồm may: Vừa có phước vừa may mắn.
*
* Hiền tỷ Trần Ngọc Hường (Calgary, Alberta, Canada). Thư ngày 06-9-2016:
Tháng 8 vừa qua Chương Trình Chung Tay Ấn Tống gởi cho chúng tôi thật nhiều sách. Đó chính là những cành hoa thơm ngát hương đạo mạch. Từng trang sách, từng câu chữ được chăm chút cẩn thận, lý giải tường tận, trung thực làm cho người xem được tâm đắc, lãnh hội một sự chiêu cảm, gần gũi, thân thương, thích thú học hỏi... vì “Trong thơ văn vẫn có vị Cao Đài” (thơ Trần Dã Sơn).
Chúng tôi lựa ra nhiều sách và để nơi thánh thất Calgary cho đạo hữu tham khảo, học hỏi. Thật là một công quả đáng kể. Chúng tôi thành thật ghi ơn và luôn cầu xin Thầy Mẹ chan rưới hồng ân cho Ban Ấn Tống và các tác giả trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo được tâm minh trí sáng để tiếp tục hành tròn sứ mạng phổ thông giáo lý.
Ban Ấn Tống: Ban Ấn Tống và các tác giả trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo chân thành cảm ơn hiền tỷ bấy lâu nay luôn dành cho nhiều mỹ ý và thiện cảm, nhất là còn cầu nguyện cho Chương Trình Ấn Tống.
Ban Ấn Tống cũng rất biết ơn hiền tỷ Hương Loan, tuy tuổi đã cao, nhưng lần nào từ Canada về thăm quê hương cũng đều nhiệt tình mang giúp khá nhiều kinh sách ấn tống trở qua Calgary, chẳng hề quản ngại nhọc nhằn.
Xin cầu nguyện Thầy Mẹ ban ơn lành đến hiền tỷ Ngọc Hường, hiền tỷ Hương Loan và họ đạo Calgary an lạc và tinh tấn.
*
* Hiền tỷ Vương Thị Hường (xã Bình Minh, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh Kiên Giang). Thư ngày 14-9-2016:
Trong đạo Cao Đài có bửu kinh TU CHƠN THIỆP QUYẾT do Thầy giáng cơ ban truyền tại thánh thất Kiên Giang (ở Rạch Giá) đêm 24-3 Canh Ngọ (Thứ Ba 22-4-1930). Xin hỏi Văn Uyển nhan đề kinh có ý nghĩa gì?
Huệ Khải: Thưa hiền tỷ, thiệp là số mười (cũng như chữ thập ); quyết là bí quyết để thành công (the secret of success), thường truyền dạy có vần điệu cho dễ tụng đọc, dễ nhớ. Khi được truyền miệng thì gọi là khẩu quyết 口訣. Khi đặt thành bài hát thì gọi là ca quyết 歌訣. (Có điều, không hiểu sao một số người đạo Cao Đài hay dùng chữ khuyết thay cho quyết; chẳng hạn: Khẩu khuyết sơ thiền.)
Tu Chơn Thiệp Quyết 修真拾訣 là mười bí quyết để thành công trên đường tu hành chơn chánh; lời dạy có vần điệu cho dễ tụng đọc, dễ nhớ. Kết thúc kinh này, Thầy dạy mười bí quyết tu chơn như sau:
Một khuyên phải kiền thiềng mộ Đạo
Hai tuân lời Tam Giáo Thánh Nhơn
Đạo là chí chánh chí chơn
Những lời Thánh huấn chạm xương ghi lòng.
Ba khuyên nhớ tổ tông công đức
Bốn lo tu đúng mực cang thường
Cha sanh, Thầy dạy kỷ cương
Anh em bạn tác, náu nương vợ chồng.
Năm khuyên nhớ kẻ nông công khó
Sáu xót thương công phụ nhọc nhằn
Cày sâu, cấy cạn, bón phân
Làm nên tơ chỉ, trăm phần lao đao.
Bảy liên lạc đồng bào huynh đệ
Tám khuyên đừng xua mị quyền môn
Sao cho tiếng ngợi danh đồn
Đáng trang đạo đức phải tôn phải vì.
Chín khuyên chớ khinh khi cô quả
Mười khuyên tua hỷ xả lỗi người
Khuyên đừng biết giận hờn ai
Xót người hoạn nạn, cứu nơi cơ hàn.
Được vậy mới gọi trang tu tánh
Tánh tu rồi mới định tu tâm
Càng tu càng thấy cao thâm
Càng tu càng thấy sự lầm lạc xưa.
Biết lầm lỗi thì chừa cho gấp
Đặng mau lo bồi đắp cội lành
Như vầy mới gọi tu hành
Như vầy mới gọi chứng minh bồ đề.
Khuyên con phải kiêng dè cho lắm
Mười lời khuyên như tẩm cam lồ
Đêm ngày dầu tụng nam mô
Mà không noi giữ, nhành khô rễ còi.
Mừng con đặng có mòi tấn phát
Rưới cho con nước mát mùi thơm
Bốn mùa hoa nở trái đơm
Hơi bay bát ngát, nhụy tươm ngọt ngào.
Nhân đây cũng nên nhắc lại ý nghĩa số mười là đủ đầy tất cả, hoàn toàn trọn vẹn, hoàn hảo”. (Xem thêm Văn Uyển tập Lợi, số 19, quý Ba năm 2016, trang 147.)
*
* Hiền huynh Vị Chân (ấp Mỹ Hòa 3, xã Tân Xuân, huyện Hóc Môn, TpHCM). Thư ngày 20-01-2016:
ĐẠI THỪA CHƠN GIÁO (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2011, quyển 36-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống) có nhiều chỗ tôi chưa hiểu. Xin Văn Uyển vui lòng giải thích giúp tôi các câu trong ĐTCG như sau...
Huệ Khải: Thưa hiền huynh, tệ đệ rất biết ơn hiền huynh đã đọc kinh sách rất kỹ; nhờ thế giúp tệ đệ soát xét lại các sơ sót trong văn bản. Vì thư hiền huynh viết dài, hỏi nhiều vấn đề, tệ đệ phải tách ra để trả lời dần. Sau đây là các từ ngữ hiền huynh hỏi, tệ đệ tô đậm.
1. Trang (tr.) 27, dòng (d.) 9-10: Núi cao cũng phải tầm sang / Công phu khổ hạnh chí càng nông thêm.
Đáp: Bản ĐTCG 1950 cũng in là nông. Lẽ ra nên in là nống. Nống chí tức là nung chí, làm cho ý chí thêm mạnh mẽ, cương quyết.
2. Tr. 59, d. 3-4­: “Thực vô cầu bảo, cư vô cầu an.”
Đáp: Bản ĐTCG 1950 cũng in sai là bảo. Bản in 36-2 (2016) đã sửa là bão.
Thực vô cầu bão, cư vô cầu an. n chẳng cầu no, ở không cầu tiện nghi thoải mái.) Luận Ngữ (Học Nhi, 14) chép:
Tử viết: Quân tử thực vô cầu bão, cư vô cầu an, mẫn ư sự nhi thận ư ngôn, tựu hữu đạo nhi chánh yên, khả vị hiếu học dã dĩ.
子曰: 君子食無求飽, 居無求安, 敏於事而慎於言, 就有道而正焉, 可謂好學也已.
(Đức Khổng Tử nói: Người quân tử ăn chẳng cầu no, ở không cầu tiện nghi thoải mái, làm việc cần mẫn, thận trọng lời nói, gần người có đạo thì được sửa lỗi. Người như vậy có thể gọi là hiếu học.)
3. Tr. 67, d. 4-5­: Nhơn gian bất hoặc là gì / Biết thân lập chí ắt thì thành công.”
Đáp: Nghĩa thứ nhất của bất hoặc không mê lầm, không bị dối gạt mà say đắm.
Theo Hậu Hán Thư 後漢書, một vị quan thanh liêm thời Đông Hán là Dương Chấn 楊震 nói: Ngã hữu tam bất hoc: tửu, sắc, tài dã. 我有三不惑: , , 財也. (Ta có ba thứ không còn làm cho mê hoặc nữa: rượu, sắc [sex] và tiền.)
Nghĩa thứ hai của bất hoặc không còn nghi ngờ. Theo Luận Ngữ 論語 (thiên Vi Chánh 為政), Đức Khổng Tử nói về bản thân như sau: Tứ thập nhi bất hoc... 四十而不惑 ... (bốn mươi tuổi ta chẳng còn nghi ngờ...) James Legge (1815-1897) dịch: At forty, I had no doubts. Do đó, văn học gọi tuổi bốn mươi là tuổi bất hoặc.
Xét ý hai câu lục bát trong ĐTCG, có lẽ cả hai nghĩa ấy đều phù hợp với người tu lập chí hoàn thiện bản thân.
4. Tr. 69, d. 12: “Cúi lòn nhẫn nhịn dây dùn dứt coi.
Đáp: Dây dùn là sợi dây không căng thẳng. Dây càng căng thẳng chừng nào thì càng dễ dứt đứt; dây để chùng (dùn) thì khó dứt đứt. Nhẫn nhịn, hạ mình ví như sợi dây dùn.
5. Tr. 97, d. 1: Đời tu luyện hy Hiền hy Thánh
Đáp: Hiền là người đức hạnh, tài năng. Hy là mong ước (to wish, to hope). Hy Hiền hy Thánh 希聖 là mong trở thành Hiền Thánh (to wish to become Worthies and Saints).
Chu Đôn Di 周敦頤 (1017-1073) viết sách Thông Thư 通書, ở chương mười là Chí Học 志學 có câu: Sĩ hy Hiền, Hiền hy Thánh, Thánh hy Thiên. 士希賢, 賢希聖, 聖希天. (Kẻ sĩ mong thành Hiền, Hiền mong thành Thánh, Thánh mong thành Trời.)
Hiểu rộng ra, mong thành Hiền thì bắt chước, noi theo Hiền; mong thành Thánh thì bắt chước, noi theo Thánh; mong thành Trời thì bắt chước, noi theo Trời.
Hy Thiên (mong thành Trời) đối với giáo lý Cao Đài không phải là bất kính với Trời, vì thánh giáo dạy: Tu hành là học làm Trời / Phải đâu kiếp kiếp làm người thế gian.
6. Tr. 123, d. 1­: Dàm danh khóa lợi lòng tà mê man”
Đáp: Khóa là ổ khóa. Dàm là sợi dây xỏ qua mũi trâu hay bò (gọi là dàm trâu, dàm bò) để điều khiển chúng. Dàm ngựa là bộ đồ da đóng đầu ngựa (chữ Nho là khống ). Vậy, dàm danh khóa lợi nghĩa là sự trói buộc con người vì danh và lợi gây ra.
Tương tự, chữ Nho nói danh cương lợi tỏa 名韁利鎖, nghĩa là sự ràng buộc trong vòng danh lợi. Cương là dây cương ngựa. Tỏa là ổ khóa.
7. Tr. 126, d. 14: Biết phương bắc chảo với xây .”
Đáp: Chảo là hai hình tượng được nhắc đến trong phép tu đơn (tịnh luyện) theo pháp môn tu Tiên (đạo Lão, Cao Đài). Trong thân thể thì () là Đan Điền (phía dưới rún). Trong thân thể chảo (hoạch ), cũng gọi là vạc (đỉnh ), là Nê Hoàn Cung ở trên đỉnh đầu. Đại Thừa Chơn Giáo nói lò chảo, nhưng sách Nho thường nói lô đỉnh. Tóm lại, câu Biết phương bắc chảo với xây lò có nghĩa là biết cách tịnh luyện.
*
* Hiền huynh Trần Văn Chánh (đường Cù Lao, Phú Nhuận, TpHCM). Điện thư ngày 01-10-2016:
Vừa rồi tôi đi đám tang ở gần Cà Mau, gặp lại người bạn cũ tên Bùi Văn Phấn, từ lâu chí cốt với đạo Cao Đài. Anh ấy ở thánh tịnh Huệ Đông Thiên thuộc ấp Khúc Tréo A, xã Tân Phong, thị xã Giá Rai (Bạc Liêu). Anh Phấn theo đạo thuần thành, chuyên lo đạo sự và hoạt động từ thiện ở vùng đó (nơi có hai thánh thất cách nhau chừng 1km) trong nhiều năm nay.
Anh Phấn nói có biết Chương Trình Chung Tay Ấn Tống vì có lần Ban Ấn Tống đã về thăm nơi đó. Đề cập chuyện kinh sách Cao Đài, anh Phấn có biết qua vài tên sách trong Chương Trình Ấn Tống, nhưng chỉ được lẻ mẻ một ít cuốn, và thiết tha muốn có được nhiều kinh sách hơn.
Địa chỉ anh Bùi Văn Phấn: Ấp Khúc Tréo A, xã Tân Phong, thị xã Giá Rai, tỉnh Bạc Liêu. ĐT: 0914753392.
Vậy tôi gởi địa chỉ như trên, để Ban Ấn Tống gởi kinh sách về đó cho bà con bổn đạo phương xa có phương tiện học hỏi thêm.
Ban Ấn Tống: Cảm ơn hiền huynh Trần Văn Chánh đã quan tâm giúp chúng tôi mở rộng việc phát hành kinh sách. Chúng tôi đã liên lạc với hiền huynh Phấn, hiện là Thông Sự kiêm Từ Hàn họ đạo Huệ Đông Thiên. Từ nay hiền huynh sẽ thường xuyên tiếp nhận kinh sách ấn tống gởi về, và cũng sẵn lòng nhận làm một điểm phát hành sách tại Giá Rai giúp đạo hữu địa phương thuận tiện có sách đọc.
*
* Sinh viên Chu Bích Thủy (Khoa Anh, Đại Học Sư Phạm, TpHCM). Điện thư ngày 07-10-2016:
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, quyển I, đàn ngày 09-8-1926, Thầy dạy: “... phần đông chưa lập minh thệ, nên chư Thần, Thánh, Tiên, Phật không muốn nhìn nhận.” Xin cho cháu hỏi minh thệ là gì?
Huệ Khải: Minh thệ là hai từ đồng nghĩa.
a. Dùng như danh từ, minh / thệ nghĩa là lời thề (oath, pledge). Sách Nho nói sơn minh hải thệ 山盟海誓, nghĩa là lời thề (của nam nữ yêu nhau) lấy núi và biển làm chứng; tiếng Anh dịch là oath (pledge) of eternal love. Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Thầy dạy “lập minh thệ” (to take an oath) thì minh thệ là danh từ.
b. Dùng như động từ, minh / thệ nghĩa là thề thốt. Sách Nho nói thệ hải minh sơn 誓海盟山; người Việt nói thề non hẹn biển, là nam nữ thề thốt suốt đời yêu nhau, bất kể biển cạn non mòn; tiếng Anh dịch là to pledge undying love.
Trong Đại Thừa Chơn Giáo, Thầy dạy: Kìa biển hẹn non thề phải dứt / Dây buộc mình cắt đứt chớ vương.

____________