Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

ĐĐVU 20 / CON ĐƯỜNG NÀO CHO NỀN HÒA BÌNH THẾ GIỚI? / TRẦN VĂN CHÁNH


Nói chuyện về một giải pháp hòa bình còn tương đối dễ, thực hiện hòa bình, nhất là hòa bình cho cả toàn thế giới, thì thật là thiên nan vạn nan. Có thể nói đó cũng là câu chuyện của muôn đời, bởi trong lịch sử nhân loại, không nơi nầy cũng nơi khác, bao giờ cũng có những cuộc chiến tranh đẫm máu, mà hiện nay đây, lò lửa chiến tranh và khủng bố vẫn đang diễn ra ở khắp mọi nơi với những loại vũ khí giết người ngày càng hiện đại.
Lý tưởng về một thế giới đại đồng trong đó bốn biển coi nhau như anh em vì thế còn ở đâu đó rất xa, và không phải hoàn toàn vô lý khi có nhiều người dựa trên kinh nghiệm thực tế lịch sử mà cho rằng điều nầy chỉ là một mơ ước tốt đẹp nhưng hầu như không thể thực hiện được trên phạm vi toàn cầu, chừng nào mà con người vẫn còn có lòng tham với đủ thứ dục vọng nầy khác.
Muốn có hòa bình đơn giản chỉ cần diệt bỏ lòng tham, không tranh chấp hơn thua nhau nữa, nhưng đó chỉ là lý thuyết suông. Ai cũng biết chiến tranh là do sự kỳ thị lẫn nhau về tôn giáo hoặc chính kiến (ý thức hệ), nhưng những thứ nầy thật ra chỉ là bề nổi khi cần thì trưng ra để phủ lên cái lớp thực chất bên trong là những cuộc tranh chấp về quyền lợi kinh tế trong một thế giới mà tài nguyên thiên nhiên và các nguồn của cải khác vốn dĩ giới hạn và phân bố không đồng đều mà ý của kẻ mạnh là muốn chia lại để được giành phần hơn. Sự làm giàu lên của nước nầy sau khi đã khai thác hết phần tài nguyên thiên nhiên của mình do vậy qua những con đường quanh co chắc chắn phải là sự nghèo đi của nước khác nếu vấn đề chia của không được giải quyết trên cơ sở của tình liên đới và luật công bằng.
Thực tế cho thấy mỗi khi chiến tranh sắp sửa hoặc đang nổ ra ở đâu đó thì liền có những tiếng nói kêu gọi hòa bình vang lên của các nhà đạo đức, các lãnh tụ tôn giáo, hay của các tổ chức quốc tế mà cơ quan cao nhất là Liên Hiệp Quốc, nhưng dường như không bao giờ ngăn cản được chiến tranh xảy ra. Các bên tham chiến thường tảng lờ lời khuyên của Giáo Hoàng hoặc của Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc mà vẫn hành động theo ý họ cho đến khi cuộc chiến ngã ngũ, trong đó có một bên đã thắng lợi và thỏa mãn.
Công dân các nước tuyên chiến cũng có người phản đối chiến tranh vì lòng nhân đạo hoặc vì sợ con em họ có thể bị thiêu thân vào lò lửa, và tuy phản đối vậy nhưng nếu bảo họ hy sinh bớt một số quyền lợi bằng cách chấp nhận cuộc sống kiệm ước và đạm bạc hơn thì họ lại nhao nhao lên phản đối, bảo rằng nhà cầm quyền không chăm sóc tốt đời sống cho họ. Vì vậy nhà cầm quyền nào muốn đứng vững cũng phải thỏa mãn cái bao tử đầy ham hố cùng những thứ dục vọng xa xỉ khác trên mức sinh tồn của các công dân bằng cách tom góp của cải các nơi mang về, khi không thể bằng con đường thương mại bình thường được thì phải phát động chiến tranh và đưa ra đủ thứ chiêu bài giả dối để khỏa lấp tội ác. Đó là lý do của sự phân hóa thành hố ngăn cách giàu nghèo trầm trọng giữa các nước mà cũng là mầm mống của các mối mâu thuẫn tạo nên tình trạng bất ổn định thường trực trên phạm vi toàn cầu xưa nay.
Khi bày tỏ nỗi lo âu về cái hố ngăn cách nầy, Thomas Merton (1915-1968, người Mỹ) đã phát biểu chí lý như một lời đề nghị cho giải pháp hòa bình: “Chúng ta có thể có được cái gì bằng cách du hành lên cung trăng nếu như chúng ta không thể vượt qua hố sâu ngăn cách giữa chúng ta với chính chúng ta? Đây là cuộc du hành quan trọng nhất trong tất cả mọi cuộc du hành, và không có nó thì tất cả mọi thứ còn lại không những vô ích mà còn là thảm họa nữa.” ([1])
Thế giới không ổn định rõ ràng vì con người luôn sống ích kỷ, khi có điều kiện đủ mạnh thì muốn thu tóm quyền lực và quyền lợi nhiều hơn kẻ khác, từ cá nhân, gia đình, cho đến quốc gia xã hội... Nhiều quốc gia còn có tham vọng làm bá chủ thiên hạ, bằng cách tập hợp thành những liên minh xung đột nhau, tạo nên cục diện đa cực hóa chia ba chia bốn thế giới, khiến cho một nước nhỏ nghèo dù có muốn thủ phận đứng riêng một mình cho được yên thân cũng không được. Trong các nước nhỏ nghèo nầy lại thường có những phần tử hoặc phe phái chính trị mạnh hơn và đầy tham vọng, tìm cách vượt lên vai trò thống trị, hình thành các nhóm đặc quyền sẵn sàng câu kết với bất kỳ nước đế quốc bên ngoài nào để củng cố vây cánh quyền lực mà đè đầu cưỡi cổ nhân dân lao động cùng khổ trong nước nhưng cũng núp bóng dưới những chiêu bài dân tộc nầy khác.
Ở đời, nghĩa và lợi thường rất khó kết hợp ổn thỏa với nhau. Muốn có hòa bình, trên lý thuyết mọi người chỉ cần sống theo hướng tiết dục của các nhà tu là được. Nhưng như trên đã nói, cái tâm con người thì lại luôn tham dục vọng động, vừa muốn được tiếng là nhân nghĩa nhưng cũng vừa muốn sống sung sướng hơn kẻ khác, nên các nhóm chính trị miệng thường huênh hoang nói hòa bình theo kiểu các nhà ngoại giao mà tay chân thì lúc nào cũng thủ sẵn vũ khí; nhiều nước lo chạy đua vũ trang bằng cách bỏ rất nhiều tiền của để phát triển công nghiệp quốc phòng, dấn mình cuồng nhiệt vào hành vi chiến tranh mà thực chất là làm lung lay tận gốc rễ chính cái lý do khiến họ cần chiến đấu.
Ngay như có những quốc gia gọi là những nước theo nền kinh tế Phật Giáo (Buddhist economy) vốn chú trọng đời sống tâm linh hơn là hoạt động kinh tế, vẫn bị lôi cuốn vào cục diện xào xáo chung, không đứng vào phe nầy thì cũng bị coi như thuộc về một phe khác, dù muốn hay không muốn cũng không thể tách mình ra khỏi những cuộc đấu tranh không phải do mình chủ động.
 Nếu tạm chấp nhận những phân tích như trên là đúng thì chiến tranh cũng là một yếu tố không đi ngoài quy luật vận động đấu tranh sinh tồn của loài người, điều nầy có nghĩa là không thể tránh được chiến tranh. Ngay trong nhận định có vẻ bi quan nầy người ta cũng có nhiều tranh cãi: Các nhà sử học dễ dàng chấp nhận nó như một thực tại khách quan vượt trên ý chí con người, trong khi các nhà hoạt động tôn giáo thì nhất định không chịu như vậy, luôn tìm cách cổ vũ cho nền hòa bình. Kết quả là ai hô hào kêu gọi cho hòa bình thì cứ việc kêu gọi, hô hào, trong khi các cuộc chiến tranh dưới hình thức nội chiến hay xâm lược vẫn thản nhiên xảy ra bất chấp mọi sự tố cáo của các nhà đạo đức, như lịch sử cả trong quá khứ lẫn hiện tại đã nhiều lần chứng tỏ.
Mặc dù có vẻ bế tắc và tuyệt vọng như trên, lương tâm con người vẫn không thể nào yên khi hằng ngày nhìn thấy những thảm cảnh chết chóc đau khổ do chiến tranh gây ra ở khắp mọi nơi, có khả năng lan rộng thành cuộc thế chiến đe dọa hết thảy mọi người. Thế thì những lời kêu gọi hòa bình lên án chiến tranh dù trong hy vọng mong manh đến mấy vẫn có vẻ hữu ích, theo kiểu thà có còn hơn không, cố gắng đến đâu hay được đến đấy. Xét cho cùng, mọi lời kêu gọi cho hòa bình cũng là tự nhiên và đương nhiên, không phải muốn hay không muốn, tin hay không tin có hòa bình, theo nghĩa những lời kêu gọi ấy cũng là kết quả của phản ứng tự nhiên đi liền theo với chiến tranh mà thôi, trong cuộc chiến đấu chưa phân thắng bại giữa cái thiện với cái ác!
 Và cũng theo nghĩa ấy, mấy mươi sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới của các vị Giáo Hoàng ban ra từ năm 1968 đến nay ([2]) nếu không đạt được những kết quả cụ thể hiển hiện thì ít nhất cũng hữu ích trong tác dụng giáo dục nhằm xây dựng tâm thức và động viên ước muốn của con người hướng về mục tiêu đấu tranh không mệt mỏi cho nền hòa bình thế giới. Việc đáng làm thì phải làm, còn kết quả là một lẽ khác, dù sao cũng không có gì giống với thái độ buông xuôi đầu hàng tội ác một cách hoàn toàn tiêu cực.
Để kiến tạo được nền hòa bình trong tương lai, kinh nghiệm cho thấy chúng ta ít có thể hy vọng được gì nhiều ở mấy ông tổng thống hay thủ tướng đương nhiệm của một số cường quốc, vì họ đều là những kẻ “miệng nam mô tay bồ dao găm”, bề ngoài tuyên bố hòa bình và xưng tội với Chúa nhưng bề trong thì luôn luôn chuẩn bị cho chiến tranh, không từ bất cứ một thủ đoạn nào.
Trái lại, chúng ta chỉ có thể hy vọng ở kết quả của sự giáo dục đối với công dân các thế hệ măng non trên toàn thế giới, bằng cách gieo vào lòng họ khát vọng hòa bình, mà điều kiện của khát vọng đó là một đời sống biết chế ngự tham vọng để không quá tôn thờ chủ nghĩa trục vật ([3]) chuyên chạy theo nền văn minh vật chất như tại nhiều nơi trên thế giới hiện nay.
Chẳng hạn, trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 01-01-2004, chủ đề “giáo dục hòa bình” của Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1920-2005, người Ba Lan) có vẻ vẫn còn hợp thời và không lạc điệu. Mục 4 của sứ điệp nêu rõ:
“Trong sứ điệp Ngày Hòa Bình Thế Giới 01-01-1979, tôi đã kêu gọi: Để có hòa bình,y giáo dc hòa bình. Ngày nay lời kêu gọi ấy còn khẩn thiết hơn bao giờ hết, bởi vì những người đàn ông và phụ nữ khi giáp mặt những thảm kịch tiếp tục gây tổn thương cho nhân loại, thì họ đang bị cám dỗ khuất phục chủ nghĩa định mệnh, cơ hồ hòa bình là một lý tưởng không thể đạt được.” ([4])
Liền sau đó, với một tinh thần lạc quan, sứ điệp viết tiếp:
“Hòa bình là điều có thể. (…) Nó phải được xây dựng trên bốn trụ cột (…): sự thật, công lý, tình yêu, và tự do. Vì vậy một nghĩa vụ được đặt ra cho tất cả những ai yêu mến hòa bình, đó là nghĩa vụ dạy các lý tưởng hòa bình nầy cho những thế hệ tương lai, để chuẩn bị cho toàn nhân loại một tương lai tốt đẹp hơn.” ([5])
Nhưng muốn có sự thật, công lý, tình yêu, và tự do, nghĩa là muốn có hòa bình, thì mỗi cá nhân con người phải thôi sống ích kỷ, giảm bớt dục vọng, sự kỳ thị và tranh chấp, để mở lòng ra đón nhận và chia sẻ với đồng loại, trong số tài sản còn lại của ngôi làng địa cầu mà chúng ta không sợ ít, chỉ sợ chia không đều.
Trong chiều hướng đó, cái gọi là nền kinh tế Phật Giáo nêu trên có vẻ là đề tài tham khảo tốt cho sự lựa chọn để duy trì nền hòa bình thế giới, vì đặc điểm của nó là không quá thiên trọng lợi ích vật chất do đó mà cũng bớt cần phải giành giật chi cho mệt, với cuộc sống hướng về những giá trị tâm linh nhiều hơn, tuy có thể thiếu vẻ rực rỡ bề ngoài của cuộc sống văn minh giàu mạnh nhưng con người lại đối xử với nhau một cách hòa bình và tử tế.
Lối sống theo hướng như vậy không đòi hỏi phải tập trung quá nhiều và căng thẳng vào những việc công nghiệp hóa, hiện đại hóa một cách vội vã theo kiểu tiến nhanh tiến mạnh, cho phép cộng hưởng được những niềm vui trần thế tuy có đạm bạc hơn chút ít cho mỗi người trong xã hội nhưng lại bền bỉ lâu dài, không cần gì phải đến máu đổ thịt rơi mới nhận được.
Con đường dẫn tới hòa bình chỉ có thể hy vọng đạt được từ sự sọi rọi lại để phản tỉnh ở chính bản thân mỗi con người thể hiện bằng hành vi thực tâm sống đạo (không kể đạo gì, tôn giáo gì), bởi vì đảo lại nguyên tắc “tu tề trị bình” của Nho Giáo cho ta cách nói rất hay:
Cái căn bản của thiên hạ là ở mỗi quốc gia, cái căn bản của quốc gia là ở mỗi gia đình, và cái căn bản của gia đình là ở mỗi bản thân con người. (Thiên hạ chi bản tại quốc, quốc chi bản tại gia, gia chi bản tại thân.)
Không dựa vào sự tu tỉnh, phản tỉnh bản thân nầy từ mỗi con người thì cũng không còn gì khác ở bên ngoài có thể trông cậy được, và nền hòa bình khi ấy vẫn sẽ tiếp tục chỉ là một ảo tưởng không hơn không kém.

TRẦN VĂN CHÁNH



([1]) What can we gain by sailing to the moon if we are not able to cross the abyss that separates us from ourselves? This is the most important of all voyages of discovery, and without it, all the rest are not only useless, but disastrous.
Thomas Merton, The Wisdom of the Desert. New Directions Book 1970, p. 11.
([2]) Ngày Hòa Bình Thế Giới (the World Day of Peace) thiết lập năm 1968 do Giáo Hoàng Phaolô VI (sinh 1897, tại vị 1963-1978, người Ý). Kể từ đó đến nay, vào ngày 01-01 đầu mỗi năm dương lịch, vị Giáo Hoàng đương nhiệm lại công bố một sứ điệp hòa bình với một chủ đề (theme) cụ thể. [Văn Uyển chú]
([3]) Trục vật 逐物: Chạy theo vật chất. [Văn Uyển chú]
([4]) In my Message for the World Day of Peace on 1 January 1979 I made this appeal: To Reach Peace, Teach Peace. Today that appeal is more urgent than ever, because men and women, in the face of the tragedies which continue to afflict humanity, are tempted to yield to fatalism, as if peace were an unattainable ideal.
https://w2.vatican.va/content/john-paul-ii/en/messages/peace/ documents/hf_jp-ii_mes_20031216_xxxvii-world-day-for-peace.html
([5]) Peace is possible. (…) It must be built on the four pillars (…): truth, justice, love and freedom. A duty is thus imposed upon all those who love peace: that of teaching these ideals to new generations, in order to prepare a better future for all mankind. (Tài liệu dẵ dẫn.)
____________

Nói chúng ta không được gây chiến thì không đủ. Chúng ta cần phải yêu chuộng hòa bình và hy sinh cho hòa bình.
It is not enough to say we must not wage war. It is necessary to love peace and sacrifice for it.
Martin Luther King, Jr. (1929-1968, Mục Sư Mỹ)