Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

ĐĐVU 20 / HOÁN TỈNH THANH NIÊN HỒN / Thánh giáo

Thánh thất Trung Thành
15-7 Mậu Dần (Thứ Tư 10-8-1938)
BẠCH PHỤNG ĐỒNG TỬ
Chào chư hiền huynh, hiền hữu.

THI

Đời đạo hai vai gánh nặng oằn
Đường dài sao khỏi trở cùng ngăn
Mày xanh ([1]) chi sá cơn giông tố
Mắt sáng ([2]) ngại gì lúc chớp giăng
Khí phách hùng anh xông bốn cõi
Tâm hồn quân tử vững năm hằng ([3])
Sơn hà gánh nặng chung nam nữ
Dù trí dù ngu cũng trọn phần.
(…) Vừa may tôi đắc lịnh Đức Tổng Lý ([4]) giáng đàn viết cho các bạn thanh niên một bài là Hoán Tỉnh ([5]) Thanh Niên Hồn, để đánh thức các thanh niên tôn giáo còn đương mơ màng cơn mộng điệp ([6]) trong lúc đêm trường của trời đông quạnh quẽ.
Giữa lúc bước đạo éo le, nhơn tâm lãnh đạm, kẻ nhơn tài còn khiếm khuyết, người tin đạo chưa hết dạ hy sinh, khỏi đâu người ngoại cuộc phê bình, kẻ bàng quan nhảm luận, cho nhà Đạo Tam Kỳ đã tro tàn khói lạnh, chùa bế thất niêm, anh tù em tội. Cơ hội nầy nhờ nơi nghị lực các thanh niên, nội trụ tinh thần,([7]) nấu nung khí phách, mới mong khỏi trôi theo trào lưu ác tập.([8])
Này các bạn thanh niên!
Kìa dòng nước sông Cửu Long chảy mãi không ngừng nghỉ phút nào, chẳng hạn ([9]) ngày đêm.
Kìa chòm cây cổ thụ cằn cọc khô khan nơi dãy Trường Sơn thiệt khó mong nảy mụt sanh mầm, đâm chồi mọc nhánh xanh tươi như ngày xuân của nó trước kia.
Kìa đàn kiến tha mồi, đàn ong gầy mật, trâu kéo cày, ngựa kéo xe, chim làm tổ, quanh năm suốt tháng không phút nào ngơi, không giây nào ngừng.
Kìa vừng thái dương mọc phương Đông, quanh vòng thiên địa sang phương Tây rồi lặn khuất mà hết ngày nọ đến tháng kia cũng mãi mãi lo tròn bổn phận chiếu ánh sáng cho loài người.
Ôi! Thời gian thấm thoát, bóng quang âm ([10]) nhặt thúc bên mình. Hết giờ qua đến ngày qua, tháng qua, năm qua, mãi mãi trôi theo thời tiết mà lầm lũi trên bờ thiên diễn. Vì cảm xúc quang cảnh trước mắt mà xốn xang cho các bạn râu mày.

NGÂM

Trắng răng ([11]) bao thuở da mồi
Hoa râm mái tóc, thôi rồi tuổi xuân!
Ngọn gió hắt hiu, cảnh trời đông lạnh thấu xương lòng. Rồi các bạn cũng kích thích đến thần kinh mà hồi tưởng lại cái ngày xuân mát mẻ, khí hậu ôn hòa, trăm hoa đua nở, muôn tía nghìn hồng. Các bạn ôi! Vì thấy sơn hà cây cỏ, động vật, côn trùng, bò, bay, máy, cựa, đều phải tận tụy với phận sự mình, không hề giải đãi,([12]) mà hôm nay có mấy lời Hoán Tỉnh Thanh Niên Hồn để làm cái thước mà đo con đường đời niên thiếu, từ lúc bắt tay vào việc, hạ thủ ([13]) công phu cho đến đầu con đường là mục đích tối chung của người hiệp nghĩa.([14])

NGÂM

Đời người có mấy lúc xuân
Thôi rồi xuân quá nửa chừng kiếp sanh.([15])
Thế thì ngày xuân của con người, tuổi xuân của các bạn đây là thời kỳ thanh niên tuổi trẻ đường xa, khí lực sung cường, tâm hồn trong sạch, là thời kỳ phấn đấu để lập công đền nợ của các bạn đây.
Ôi! Giờ phút quý hóa vàng ngọc này mà nó chẳng thèm chờ ta đợi ta, thì âu là ([16]) ta phải cùng nó cùng bước cùng làm việc, cùng hy sinh cho thiên chức ([17]) đặt mình trên bờ công nghĩa. Càng bước tới rồi thử trông xung quanh ta.
Nào kẻ lữ hành trên thế lộ,([18]) rày ([19]) chợ Bắc mai bến Nam, sớm gánh trầu hôm ([20]) gánh gạo, nước mắt lẫn mồ hôi, mà vẫn cứ vui, cứ tiến bước.
Nào thợ thuyền tấp nập trong xưởng máy, hy sinh cả năng lực, cả trí óc, mà chẳng chút tự kiêu, tận tụy phụng sự cho nghề nghiệp mình.
Nào kẻ nông phu đương vất vả cấy cày, bạn với con trâu, đàn chim mà vẫn vui đi, tay nắm bắp cày nặng trịu mà vẫn thản nhiên không hề thối bước.
Nào kẻ cầm bút thì vắt hết não cân, lo tính toan, sắp đặt, tất lực ([21]) nhọc nhằn, tiêu trí hao tâm, vì phận sự mà đem hết sở năng ([22]) cống hiến cho nhơn quần xã hội.
Trước mắt ta, cái cảnh tượng tưng bừng náo nhiệt đó, ai ai cũng tận sở năng rồi mới được thủ sở nhu,([23]) chớ có ai ngồi không mà chờ cao lương mỹ vị, đã sung sướng tột bực mà còn đòi kẻ hạ người hầu nữa đâu. Ai ai cũng nhận mình là một phận sự trên đời là lợi khí chung cho xã hội.
Thế mà tình trạng hiện kim, phong trào văn minh Âu Mỹ diễn ra, ngày đêm tiếng bom không ngớt nổ, ngọn giáo chẳng lìa tay.
Ôi!        
Sóng ác cảm bốn bề vỡ bừng
Khói bất bình mười phương ngút tỏa.
Bao nhiêu giả văn minh, bao nhiêu lòng tư dục, thù vơ oán chạ ([24]) chất chứa nhẫn nay ([25]) đem ra quyết liệt một trận vong tồn, mạnh được yếu thua, khôn nhờ dại chịu. Người đối với người ra đổi chiếm đoạt quyền lợi nhau, cướp vợ đoạt con. Ghê tởm thế. Dầu cho ác thú độc xà hẳn là loài hung bạo, man di địch lỗ ([26]) đành là giống dã man cũng chưa hề đối đãi nhau đến thế, chà xát nhau đến thế. Té ra trên khoảng đất này cứ mãi mãi chém giết nhau, biết làm sao đây?...
Hỡi ai là kẻ mày xanh mắt sáng, khí lực sung cường, hy vọng xa xăm, bão phụ ([27]) lớn lao, đường dài gánh nặng, mau phải ra tay tháo cũi sổ lồng, phất cờ giục trống, khua vang chuông cảnh tỉnh khắp ba ngàn thế giới,([28]) cùng cả tứ đại bộ châu,([29]) để đánh thức người đương chìm đắm ở chốn bùn nhơ, thiên lương ([30]) vùi lấp.

NGÂM

Ngang tàng bảy thước thân sanh
Gặp cơn đổ nước xiêu thành phải sao?
Giờ đây, thanh niên tôn giáo phải thực hành theo hai kế hoạch sau đây để làm chỗ hướng đạo trong lúc trào lưu trổi mạnh, vàng trắng phân vân,([31]) họa chăng mới đủ nghị lực tinh thần giữa lúc tục đổi phong dời,([32]) gai rào cây lấp.
1. Bảo tồn tư đức.([33])
2. Hoạt động sinh tài.([34])
1. BẢO TỒN TƯ ĐỨC thì phải thực hành theo lời thầy Mạnh, giàu sang không nhiễm, nghèo hèn không thay, oai quyền không khiếp.([35]) Chỉ một lòng phụng sự cho danh dự và phẩm giá con người và phải tự trọng lấy mình mới khỏi trôi theo tuồng giả văn minh quyến rũ.
2. HOẠT ĐỘNG SINH TÀI thì phải siêng năng, cần lao kiệm ước,([36]) hoặc làm việc tư, hoặc chung lưng đâu cật mà lo công nghĩa công lợi, đặng tìm phương nảy nở tài chánh mà giúp cho Hội Thánh trong lúc bá ban vạn sự ([37]) tiến hành.
Thế là tư đức đã vững như sắt đá, tượng đồng, thì sanh tài mới khỏi nhiễm nỗi trục lợi đồ danh.([38]) Có hoạt động sinh tài mới khỏi mắc vào câu chán đời, nản việc, tiêu cực,([39]) vô bổ.

BÀI

Lời tâm huyết chạm lòng thiết thạch ([40])
Nhắn cùng ai là khách thanh niên
Ấu thơ nặng nợ bút nghiên
Nỗi cơm nỗi áo thung huyên ([41]) nhọc nhằn.
Nỗi thầy bạn tập rèn un đúc
Nỗi gia đình giáo dục sớm hôm
Những mong tài đức phi phàm ([42])
Đảm đương trách nhiệm cho kham ([43]) cho tròn.
Giữa thời cuộc nước non hiu quạnh
Đời thanh niên khôn tránh khổ nàn
Học đường là bước gian nan
Phải cơn đau khổ thử gan anh hùng.
Địa Trung Hải đì đùng sóng bổ
Thái Bình Dương mây lộ ánh hồng
Đạo Trời truyền khắp Tây Đông
Hỡi người hiệp sĩ ([44]) lướt xông độ đời.
Trông thế sự tơi bời tan rã
Đoái đồng bào khó tả nên câu
Tinh thần trụy lạc ([45]) hằng lâu
Vì mê vật chất thành sầu ([46]) càng cao.
Giữa thời cuộc phong trào cuồn cuộn
Kẻ mày râu nỡ luống ([47]) ngồi coi
Tấn tuồng diệt chủng ló mòi
Ai ra cứu vớt giống nòi trầm luân? ([48])
Truy nguyên bệnh vì chưng ([49]) tập quán
Vì thói hư làm loạn dân lành
Nỗi vì học thuyết cạnh tranh
Nỗi lòng chuyên chế ([50]) nảy sanh cường quyền.([51])
Nỗi chủng tộc chia riêng sắc giống
Nỗi liệt cường ([52]) mạnh sống yếu thua
Than ôi, căn bệnh khôn ngừa
Nên tuồng giết lẫn sớm trưa diễn hoài.
Cuộc dâu bể ([53]) đổi thay sớm tối
Biết nhờ ai phá núi bắc cầu
May đâu vang tiếng trống lầu ([54])
Tam Kỳ Phổ Độ năm châu quảng truyền.
Người nghĩa sĩ ([55]) hữu duyên gặp hội
Kẻ thanh niên đường lối rẽ rành
Ngang tàng bảy thước thân sanh
Thanh niên gánh nặng nhọc nhành đừng than.
Chí những ước dọc ngang bốn bể
Lòng những toan cứu tệ ([56]) di truyền
Phải cơn đời đạo chinh nghiêng
Dãi dầu sương tuyết há phiền nhọc thân.
Dầu gặp cảnh phú bần, quý tiện
Dầu gặp cơn tai biến cũng thường
Lấm đầu bao quản thân lươn
Gìn lòng thanh bạch noi gương Thánh Hiền.
Trù kế hoạch đừng thiên đừng chấp ([57])
Định phương châm chớ tốc đừng trì ([58])
Trước lo cách vật trí tri ([59])
Chánh tâm, thành ý, hòng ([60]) khi trị bình.([61])
Tư đức trọn, gia đình vững mối
Quốc gia thành, xã hội an bình
Thời kỳ bóng đã xế chinh
Lương tâm canh cải nhơn tình éo le.
Thanh niên phải dặt dè cho lắm
Bước đường dài phải ngắm cho xa
Thử xem trình độ dân ta
Trước lo đạo đức an hòa dưới trên.
Đạo đức đủ là nền tảng đó
Nhà đại đồng nào khó dựng đâu
Quảng truyền Á, Mỹ, Phi, Âu
Đồng bào vạn quốc năm châu một nhà.
Ai ai cũng nhìn Cha Thượng Đế
Người người đều đồ đệ Tiên Ông
Khắp cùng Nam Bắc, Tây Đông
Không giàu không khổ, cũng không sang hèn.
Đã không kẻ đua chen lấn lướt
Lại không tuồng mạnh được yếu thua
Không còn trộm cướp tranh đua
Cửa ngoài không đóng, gió mưa điều hòa.
Hồi tưởng lại, thiết tha ([62]) tha thiết
Đoạn tâm trường,([63]) ai biết cho chăng
Tiền đồ ([64]) còn lắm trở ngăn
Mắt xanh ([65]) soi thấu trắng đen mới tài.
Kìa Khổng Tử lạc loài Trần, Thái ([66])
Kìa Nhan, Tăng ([67]) nhịn đói theo thầy
Có đâu nhẹ gót thang mây ([68])
Đã toan vênh mặt, nguýt mày hiếp dân.
Nóng lòng phải phân trần cặn kẽ
Muốn làm thinh, khôn dễ làm thinh
Vì đâu nổi sóng bất bình
Vì đâu trên dưới mất tình tương thân? ([69])
Nước trụy lạc thần dân ([70]) hữu trách ([71])
Bớ nầy ai là khách thương đời
Dìu nhau kẻ chống người bơi
Đáng tay thủy thủ độ đời tam nguơn.([72])
Hỡi các đấng nhơn nhơn ([73]) quân tử
Gặp phải thời do dự nữa chi
Thời gian lủi thủi trôi đi
Khó mong cơ hội thời kỳ độ dân.
Hãy ra mặt cầm cân công lý
Biện phân rành phi thị,([74]) ngụy chơn ([75])
Nào ai ẩn dật thâm sơn
Độ người trước phải luyện đơn mới thành.([76])
Gánh nợ nước đàn anh lo trước
Dân khôn nhờ người bước đầu tiên
Trọng phần ([77]) là đám thanh niên
Dầu nam dầu nữ chẳng riêng ai nào.
Vui trước cảnh thiên lao vạn khổ ([78])
Lượng thanh niên đại độ ([79]) khoan hồng
Tung hoành bể Bắc non Đông
Đội trời đạp đất lướt xông dặm ngàn.
Lấy khí phách phá tan ác tập
Đem tài năng bồi đắp sơn hà
Gia đình xong phận tề gia ([80])
Non sông đáng mặt tài ba siêu quần.([81])
Tánh cương trực phá vừng mây tối
Lượng công bình thay đổi trào lưu
Trưởng thành đạo đức cho người
Màng chi góc biển chân trời xa xăm.
Thất bại để rèn tâm chiến sĩ
Gian lao nhiều nung chí anh hùng
Thanh niên là tuổi vẫy vùng
Phá tan ác tập mở tung cũi lồng.
Dầu thất bại thành công định mạng
Hạ thủ rồi chớ ngán đừng lơi
Thất thành ([82]) xin phó mạng Trời
Bền tâm kiên chí chiều mơi ắt thành.
Trối thây ([83]) kẻ đồ danh trục lợi
Mặc dầu ([84]) ai sớm tối cúi lòn
Lòng đen mà miệng tợ son
Gớm thay mật ngọt vì ngon hại ruồi.
Thanh niên chớ dể duôi ([85]) mà lạc ([86])
Thanh niên đừng ức đạc ([87]) mà sai
Đừng vì nhảm luận chê bai
Dở dang sự nghiệp lợt phai tấc thành.([88])
Thôi chào chư hiền huynh, hiền hữu.
PHỤ ĐÍNH
Theo Phạm Văn Liêm, Ơn Gọi Miền Trung (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2011, trang 72-73, 75; quyển 23-2 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo), dọc sông Thu Bồn, thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, có làng Bất Nhị chuyên trồng dâu nuôi tằm. Trong làng có hai gia đình là anh em ruột:
Người anh là Trần Công Trác, làm xã trưởng nên gọi là ông Xã Xước. Cô em là Trần Thị Cải, lấy chồng là Hương Mục Lê Văn Hội, sinh con trai đầu lòng tên Cưu, nên gọi là bà Mục Cưu. Nhà bà Mục Cưu ở sát mé sông Thu Bồn.
Con thứ hai của bà Mục Cưu là Lê Văn Liêm và con ông Xã Xước là Trần Công Ban vào Sài Gòn làm ăn. Mùa thu 1932 hai ông Liêm, Ban nhập môn Cao Đài, sau đó hay gởi thánh ngôn về quê nhà.
Năm 1932 bà Mục Cưu sai con cả Lê Văn Cưu vào Sài Gòn tìm hiểu về đạo Cao Đài. Tháng 11-1932 ông Cưu về quê. Gia đình bà Mục Cưu và các con ông Xã Xước trở thành những tín hữu Cao Đài đầu tiên ở làng Bất Nhị, đã lập Thiên Bàn. Do hoàn cảnh xã hội nên chưa có thể thượng thánh tượng Thiên Nhãn.
Để tránh nhà cầm quyền địa phương ngăn cấm việc theo đạo Cao Đài, khoảng tháng 5-1933, mấy người con ông Xã Xước và gia đình bà Mục Cưu bỏ làng Bất Nhị đi vào Sài Gòn. Cuối năm 1933, những người con làng Bất Nhị sống quần tụ ở xóm Thơm (quận Gò Vấp, tỉnh Gia Định), gần Huỳnh Long Phủ cũng là nhà riêng của Thượng Chưởng Pháp Lê Kim Tỵ thuộc Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên.
Đàn cơ đêm 01-10 Quý Dậu (18-11-1933) tại Huỳnh Long Phủ, Đức Lý Giáo Tông truyền dạy Thượng Chưởng Pháp Lê Kim Tỵ cho vời bốn người đến hầu lệnh vào kỳ đàn sau. Bốn người đó là:
- Lương Tam Sách (tức Lương Hữu Thành, cũng là Lương Vĩnh Thuật). Chị hai của Tam Sách là vợ của Lê Văn Cưu (con cả bà Mục Cưu).
- Lê Văn Phụng và Lê Văn Qui là hai em ruột của Lê Văn Liêm, con bà Mục Cưu.
- Trần Công Sĩ là con thứ tư của ông Xã Xước.
Đàn cơ đêm 24-10 Quý Dậu (11-12-1933) tại Huỳnh Long Phủ, Đức Lý Giáo Tông truyền lịnh thành lập hai cặp đồng tử âm dương.
- Cặp Lương Tam Sách (dương), Lê Văn Phụng (âm).
- Cặp Lê Văn Qui (dương), Trần Công Sĩ (âm).
Thượng Chưởng Pháp Lê Kim Tỵ cho sửa sang trại cưa cũ không sử dụng tại xóm Thơm làm ngôi thờ Thiên Nhãn và tập luyện đồng tử.
Đàn cơ đêm 29-11 rạng 01-12 Quý Dậu (14 rạng 15-01-1934) Đức Lý Giáo Tông ban ơn cho ngôi thờ đơn sơ mới lập tại xóm Thơm danh hiệu thánh tịnh Đại Thanh, thuộc Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên.
Đức Lý ban đạo hiệu cho bốn thanh thiếu niên như sau:
- Lương Tam Sách đạo hiệu Thanh Long.
- Trần Công Sĩ đạo hiệu Xích Lân.
- Lê Văn Qui đạo hiệu Kim Qui.
- Lê Văn Phụng đạo hiệu Bạch Phụng.
Vậy là đủ cả Long, Lân, Qui, Phụng (tức là Tứ Linh). Đức Lý ban đạo hiệu chung cho nhóm bốn thanh thiếu niên là Tứ Linh Đồng Tử.
Đàn cơ đêm 14 rạng 15-9 Giáp Tuất (21 rạng 22-10-1934) ghi dấu thời điểm lịch sử chính thức đưa đạo Cao Đài về Trung, với nhóm Tứ Linh Đồng Tử. Khi ấy:
- Thanh Long 16 tuổi tây, sinh năm 1918.
- Xích Lân 14 tuổi tây, sinh năm 1920.
- Kim Qui 16 tuổi tây, sinh năm 1918.
- Bạch Phụng 19 tuổi tây, sinh năm 1915.
Tại quê nhà Bất Nhị, đồng tử Bạch Phụng phát bệnh và sáng 04-6 Ất Hợi (04-7-1935) trút hơi thở cuối cùng.
Sau đó, về mặt vô vi, BẠCH PHỤNG ĐỒNG TỬ trở lại trên ngọn linh cơ để phù trợ đoàn Thiên Sứ khai đạo Trung Kỳ.
Thánh thất Trung Thành (Đà Nẵng) lạc thành trong ba ngày 13, 14, 15-4 Mậu Dần (12, 13, 14-5-1938). Ba tháng sau đó, Đức Bạch Phụng Đồng Tử giáng cơ tại thánh thất Trung Thành ngày 15-7 Mậu Dần (10-8-1938) để truyền dạy bài thánh giáo nhan đề HOÁN TỈNH THANH NIÊN HỒN.
Văn Uyển



([1]) mày xanh: Thanh mi 青眉, thời tuổi trẻ.
([2]) mắt sáng: Minh mục 明目: Mắt nhìn tỏ rõ, ý nói lúc còn trẻ trung.
([3]) năm hằng: Ngũ thường 五常, năm đức tính mà con người phải luôn luôn có: (i) Nhân : Lòng thương người, thương vật. (Nhân tương ứng giới cấm Nhứt bất sát sanh); (ii) Nghĩa : Cách sống hợp lẽ phải, đạo đức. (Nghĩa tương ứng giới cấm Nhị bất du đạo); (iii) Lễ : Sự trang nghiêm, khuôn phép, đứng đắn trong tư tưởng và hành vi. (Lễ tương ứng giới cấm Tam bất tà dâm); (iv) Trí : Sáng suốt, biết phân biệt phải trái nên hư, biết lúc nào tiến lúc nào lui. (Trí tương ứng giới cấm Tứ bất tửu nhục); (v) Tín : Đối với bản thân thì tự tin ở mình; đối xử với người khác thì không dối trá, lừa gạt; đối với các Đấng thiêng liêng thì làm đúng những gì đã nguyện hứa. (Tín tương ứng giới cấm Ngũ bất vọng ngữ.)
([4]) Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo.
([5]) hoán tỉnh 喚醒: Gọi cho tỉnh dậy, đánh thức, gọi dậy.
([6]) mộng điệp: Điệp mộng 蝶夢, giấc mơ hoá bướm, giấc bướm; giấc mơ, giấc mộng. Trang Chu (Trang Tử) nằm mơ hoá bướm, tỉnh dậy không biết mình là người hay bướm.
([7]) nội trụ tinh thần 内柱精神: Bên trong thì giữ vững tinh thần.
([8]) ác tập 惡習: Thói quen xấu.
([9]) chẳng hạn: Chẳng hạn kỳ, chẳng hẹn.
([10]) quang âm 光陰: Thời gian.
([11]) trắng răng: Nói tắt thành ngữ bạch xỉ thanh mi 白齒青眉(răng trắng mày xanh), ám chỉ thời tuổi trẻ.
([12]) giải đãi 懈怠: Lười biếng. Giải đãi đồng nghĩa.
([13]) hạ thủ 下手: Bắt tay làm, khởi sự.
([14]) hiệp nghĩa 俠義: Sống đúng đạo, thường cứu giúp người khốn khó.
([15]) kiếp sanh: Kiếp sống.
([16]) âu là: Hẳn là, ắt là.
([17]) thiên chức 天職: Bổn phận, nhiệm vụ, phận sự cao cả, thiêng liêng.
([18]) thế lộ 世路: Thế đồ 世途, đường đời.
([19]) rày: Nay, lúc này.
([20]) hôm: Buổi tối.
([21]) tất lực 畢力: Tận lực 盡力, dốc hết sức.
([22]) sở năng 所能: Khả năng của mình. tận sở năng 盡所能: Làm hết khả năng của mình.
([23]) sở nhu 所需: Nhu cầu của mình, những thứ mình cần có. thủ sở nhu 取所需: Lấy những thứ mình cần.
([24]) thù vơ oán chạ: Thù oán vô lý. Vơ, chạ cùng nghĩa là quấy quá, không đúng.
([25]) nhẫn nay: Cho đến nay.
([26]) man di 蠻夷: Người Trung Quốc thời xưa cho mình là văn minh hơn cả, khinh rẻ các dân tộc khác, gọi dân tộc ở phía Nam nước họ là man, ở phía Đông là di, ở phía Bắc là địch. Man di địch lỗ 蠻夷狄虜 là từ gọi chung các dân tộc thiểu số, cũng như xưa kia người Việt gọi là mọi rợ.
([27]) bão phụ 抱負: Điều ôm ấp trong lòng, hoài bão.
([28]) ba ngàn thế giới: Tam thiên thế giới 三千世界, cũng gọi tam thiên giới 三千界, tam thiên đại thiên thế giới 三千大千世界. Một thế giới gồm có núi Tu Di 須彌 và tứ đại bộ châu bao quanh, có tám biển, và dãy núi sắt vây quanh các biển (núi Thiết Vi 鐵圍). Một ngàn thế giới như thế hợp thành một tiểu thiên thế giới 小千世界. Một ngàn tiểu thiên thế giới như thế hợp thành một trung thiên thế giới 中千世界. Một ngàn trung thiên thế giới như thế hợp thành một đại thiên thế giới 大千世界, cũng gọi là tam thiên đại thiên thế giới. Hai chữ tam thiên (ba ngàn) tức là ba loại ngàn như nói trên, gồm có tiểu thiên, trung thiên, đại thiên. (Theo Trung Anh Phật Học Tự Điển, của Soothill và Hodous.)
([29]) tứ đại bộ châu 四大部洲: Gọi tắt tứ châu, gồm có Đông Thắng Thân Châu 東勝身洲 ở phương Đông, Nam Thiệm Bộ Châu 南贍部洲 (địa cầu) ở phương Nam, Tây Ngưu Hạ Châu 西牛賀洲 ở phương Tây, Bắc Câu Lư Châu 北俱盧洲 ở phương Bắc.
([30]) thiên lương 天良: Phần tốt đẹp con người sẵn có, do Trời ban cho.
([31]) phân vân 紛紜: Ngổn ngang rối loạn, lộn xộn rối rắm nên khó quyết định.
([32]) tục đổi phong dời: Phong tục đổi dời (thay đổi).
([33]) tư đức 資德: là của cải, vốn liếng; cái nhờ kinh nghiệm từng trải mà tích lũy tăng lên mãi. Gia tư 家資 là tài sản của gia đình. Tư đức là đức độ bản thân do công phu hàm dưỡng, tu tập lâu ngày tạo thành, để làm vốn liếng tinh thần cho một người.
([34]) sinh tài 生財: Làm ra của cải, tạo ra tài sản.
([35]) Sách Mạnh Tử 孟子 (Đằng Văn Công hạ 滕文公下) có câu: Phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất, thử chi vị đại trượng phu. 富貴不能淫, 貧賤不能移, 威武不能屈, 此之謂大丈夫. (Giàu sang không mê hoặc được, nghèo khó không dời đổi được, sức mạnh không khuất phục được, như thế gọi là bậc đại trượng phu.)
([36]) kiệm ước 儉約 : Tiết kiệm 節儉, dè xẻn, giảm bớt tiêu dùng.
([37]) bá ban vạn sự 百般萬事: Trăm thứ muôn việc, vô vàn sự việc.
([38]) trục lợi đồ danh 逐利圖名: Chạy theo tiền bạc, lợi lộc và mưu tính tìm kiếm danh tiếng cho mình.
([39]) tiêu cực 消極: Thất vọng, bi quan.
([40]) thiết thạch 鐵石: Sắt đá; lòng dạ cứng cỏi, bền vững.
([41]) thung huyên (xuân huyên) 椿萱: Cây xuân và cỏ huyên; cha mẹ.
([42]) phi phàm 非凡: Không tầm thường.
([43]) kham : Đảm đương nổi, gánh vác nổi.
([44]) hiệp sĩ 俠士: Người tài giỏi thấy việc nghĩa biết quên mình giúp người, chẳng quản nguy hiểm.
([45]) truỵ lạc 墜落: Sa ngã hư hỏng, không có đạo đức.
([46]) thành sầu: Sầu thành 愁城, bức tường sầu, ý nói nỗi buồn quá mức và khó lòng khuây khỏa.
([47]) nỡ luống: Nỡ lòng cam chịu.
([48]) trầm luân 沉淪: Chìm đắm. Trầmluân đồng nghĩa.
([49]) vì chưng: Bởi chưng, bởi vì, do bởi.
([50]) chuyên chế 專制: Cũng như độc tài 獨裁, làm theo ý riêng, một mình thao túng mọi sự.
([51]) cường quyền 強權: Quyền lực mạnh bạo, hung tàn áp bức dân chúng, bất chấp công lý.
([52]) liệt cường 列強: Các nước hùng mạnh, các cường quốc.
([53]) dâu bể (biển): Tang hải 桑海, nói tắt thành ngữ thương hải biến vi tang điền 滄海變為桑田 (biển xanh biến thành ruộng dâu). Thường nói tắt là thương hải tang điền, tang điền thương hải, tang thương; hoặc nói cuộc dâu bể (biển) hay bể (biển) dâu. Ý nói những biến cố lớn lao diễn ra trên đời.
([54]) tiếng trống lầu: Tiếng trống từ trên lầu vang xa.
([55]) nghĩa sĩ 義士: Người tài giỏi hay làm điều phải.
([56]) cứu tệ 救弊: Cứu chữa khuyết điểm tệ hại.
([57]) đừng thiên đừng chấp: Đừng thiên lệch, đừng câu chấp, giữ lòng vô tư.
([58]) chớ tốc đừng trì: Chớ vội vàng, đừng dây dưa chậm trễ.
([59]) cách vật trí tri 格物致知: Truy cứu tới tận cùng cái lý lẽ của sự vật, đừng hiểu biết qua loa sơ sài.
([60]) hòng: Mong muốn.
([61]) chánh tâm, thành ý, trị bình: Sách Đại Học có câu: Vật cách nhi hậu tri chí, tri chí nhi hậu ý thành, ý thành nhi hậu tâm chánh, tâm chánh nhi hậu thân tu, thân tu nhi hậu gia tề, gia tề nhi hậu quốc trị, quốc trị nhi hậu thiên hạ bình. 物格而 后知至, 知至而后意誠, 意誠而后心正, 心正而后身脩, 身脩 而后家齊, 家齊而后國治, 國治而后天下平. (Hiểu biết có cùng tận, rồi sau ý mới chơn thành. Ý có chơn thành, rồi sau lòng dạ mới ngay chánh. Lòng dạ có ngay chánh, rồi sau tấm thân mới tu sửa. Tấm thân có tu sửa, rồi sau gia đình mới chỉnh đốn. Gia đình có chỉnh đốn, rồi sau đất nước mới an trị. Đất nước có an trị, rồi sau thiên hạ mới thái bình.)
([62]) thiết tha 切磋: Cắt và mài, ý nói đau thương cùng cực.
([63]) tâm trường 心腸: Tim và ruột, lòng dạ. đoạn tâm trường 斷心腸: Cắt đứt lòng dạ, ý nói rất đau lòng.
([64]) tiền đồ 前途: Con đường phía trước, tương lai.
([65]) mắt xanh: Thanh nhãn 青眼. Nguyễn Tịch 阮籍, đời nhà Tấn , khi tiếp ai mà quý trọng thì con ngươi có màu đen, nếu khinh ai thì con ngươi màu trắng. Do tích này, mắt xanh dùng để chỉ thái độ quý trọng khi tiếp chuyện ai. Trong bài thánh thi, mắt xanh có nghĩa mắt tinh đời, nhìn rõ chỗ thật chỗ giả.
([66]) Trần, Thái 陳蔡: Nước Trần và nước Thái, hai nước chư hầu của nhà Chu.
([67]) Nhan, Tăng: Nhan Hồi 顏回 (tự Tử Uyên 子淵) và Tăng Sâm 曾参 (tự Tăng Tử 曾子) là hai cao đồ của Đức Khổng Tử 孔子. Nhan, Tăng cùng với Khổng Cấp 孔伋 (tự là Tử Tư 子思, cháu Đức Khổng Tử 孔子), và Mạnh Kha 孟軻 (Mạnh Tử 孟子) là bốn bậc hiền, được thờ chung với Đức Khổng Tử, gọi là Tứ Phối 四配.
([68]) thang mây: Vân thê 雲棲, cái thang cao vút tận mây, ám chỉ đường công danh.
([69]) tương thân 相親: Gần gũi nhau, yêu mến nhau.
([70]) thần dân 臣民: Quan chức và dân chúng trong một nước.
([71]) hữu trách 有責: Có phận sự phải làm.
([72]) tam nguơn: Nguơn thứ ba, hạ nguơn, thời kỳ thứ ba, thời mạt pháp, nguơn điêu tàn.
([73]) nhơn nhơn (nhân nhân) 仁人: Người có lòng nhân, thương người.
([74]) phi thị 非是: Sai và đúng, dư luận chê khen.
([75]) ngụy chân (chơn) 偽真: Giả và thật.
([76]) Cả câu ý nói muốn độ người cho thành công thì phải tu thiền để bản thân tu chứng trước đã.
([77]) trọng phần: Phần quan trọng.
([78]) thiên lao vạn khổ 千勞萬苦: Vô vàn cực nhọc vất vả.
([79]) đại độ 大度: Độ lượng rộng lớn, lòng dạ rộng rãi.
([80]) tề gia 齊家: Sắp đặt mọi việc trong nhà.
([81]) siêu quần : Vượt lên khỏi những người chung quanh.
([82]) thất thành: Thất bại hay thành công
([83]) trối thây: Trối kệ, mặc kệ.
([84]) mặc dầu: Mặc kệ.
([85]) dể duôi: Xem thường, coi nhẹ, không cho là quan trọng.
([86]) mà lạc: Mà lạc lối lầm đường.
([87]) ức đạc 憶度: Đoán chừng, phỏng đoán, ước lượng.
([88]) tấc thành: Tấc lòng chơn thành.
HUỆ KHẢI chú thích