Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

ĐĐVU 20 / ĐƯỜNG XA ĐI MÃI VẪN CÒN XA / PHẠM VĂN LIÊM

Image result for long journey
Một
Đêm khuya dần, chiếc đèn bàn như sáng hơn. Ngoài phố đêm, tiếng rao hàng rong thiết tha mời gọi. Tiền bối Huỳnh Ngọc Trác trầm ngâm bên bàn viết với bài thánh giáo của Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo:
THI
Cất gánh tang bồng trả nợ trai
Làm sao khỏi thẹn đấng râu mày
Đường trường bảy thước thân nam tử
Thuyền đã ra khơi há dễ quày.
Bài thánh giáo do đàn cơ tại thánh thất Trung Thành ngày 15-01 Canh Thân (Thứ Năm 22-02-1940), tức là trước ngày tiền bối đi dự Đại Hội Long Vân thứ mười hai tại thánh tịnh Minh Kiến Đài ở Hạnh Thông Tây (Gò Vấp, Gia Định) hơn hai tháng.([1])
Đức Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1228-1300) xưa là danh tướng đời Trần đã từng đánh đuổi năm mươi vạn quân Nguyên ra khỏi cõi bờ nước Nam, làm cho các tướng Mông Cổ là Thoát Hoan, Sài Thung, Toa Đô, Ô Mã Nhi phải kinh tâm bạt vía. Nay trong đạo Cao Đài, Đức Thánh Trần là Tổng Lý Vô Vi Quyền Hội Thánh Trung Kỳ.
Nội dung bài thánh giáo Đức Tổng Lý dạy làm cho Huỳnh tiền bối suy nghĩ nhiều về sứ mệnh và tiền đồ của nền quốc đạo. Lời Đức Thánh Trần dạy người thanh niên Đại Đạo với trọng nhiệm đem đạo vào đời, xốc gánh nhân sinh để đưa dân tộc đang bị thực dân xâm chiếm đến chỗ độc lập, tự cường tự chủ. Tiền bối Huỳnh Ngọc Trác cảm thấy bồn chồn về vai trò của người hướng đạo trong hiện tình đời đạo nặng oằn vai.
Ba ngày Đại Hội Long Vân tại thánh tịnh Minh Kiến Đài, những phong thanh về cứu đạo, cứu đời làm mọi thành viên dự hội không thể điềm nhiên. Phần đông bôn chôn toan tính cách ứng phó với thời cuộc, vì Thế Chiến thứ Hai đã diễn ra.([2]) Phái đoàn Cao Đài miền Trung gồm có Hiệp Lý Lê Trí Hiển, Nông Viện Trưởng Trần Nguyên Chất, Hòa Viện Trưởng Huỳnh Ngọc Trác và Đồng Tử Thanh Long vội vã trở về Quảng Nam để chăm lo cho cơ Đạo khỏi lâm vào cảnh rối ren, hoặc bị chụp mũ là hội kín, hoặc bị lợi dụng lôi kéo.
Ban hướng đạo Quyền Hội Thánh Trung Kỳ hiệp tâm chủ trương phát huy đường lối Tam Dân (dân sinh, dân trí, dân đức).
Các tiền bối phân công nhau biên soạn Gia Lễ Thường Hành, chăm lo quan hôn tang tế. Bộ phận phò loan phải thay đổi địa điểm từ thánh thất này sang Thiên bàn khác. Phần tiền bối Huỳnh Ngọc Trác chịu trách nhiệm soạn tài liệu giảng huấn cho lớp Đạo Đức Học Đường.
Bên ánh đèn tỏa sáng, Huỳnh tiền bối đọc chậm lại từng đoạn bài thánh giáo của Đức Trần để nung nấu thêm tinh thần. Nhiệt lực trong người như nóng lên khi tiền bối đọc:
“Thật cũng may duyên cho chư hiền, gặp Đức Cao Đài thức tỉnh, nương mình dưới bóng hồng ân. Thế mà ngoảnh lại mười lăm năm rồi, đời vẫn còn khổ, Đạo vẫn chưa thông, người dốt nát, kẻ bạo tàn, nạn giựt giành cơm áo diễn ra trăm mối ngổn ngang, lửa phiền đốt ruột!
Đứng trước cảnh nhân tâm như thế, chư hiền có nên mau mau ra tay lấp thảm phá sầu, bỏ mối bi quan, cùng đứng dậy kêu gào nhau, dù rát cổ hao hơi cũng cương quyết một lòng làm cho trăm họ dắt nhau về cõi lạc quan, quét sạnh mối tư tâm, đạp tan thành bản ngã, làm cho đâu đâu cũng được tắm gội ơn đức Cao Đài, làm cho người dân Việt Nam biết mình có một nhiệm vụ thiêng liêng với công cuộc xây dựng tân thế giới do đạo Cao Đài chủ xướng, mà không thể bịt mắt bịt tai trong khi trời long đất chuyển.
Núi còn cao, sông còn rộng, biển còn sâu, đất còn chở, trời còn che, chư hiền hãy gắng lên! Mặc dù việc quá lớn, sức chưa kham, nhưng trên dưới một lòng, đường tuy xa cố bước mãi không ngừng thì có ngày cũng đến. Cùng nhau bắc cầu phá núi, dắt đồng bào nhơn loại đến chỗ vinh quang.” ([3])
Tiền bối Huỳnh Ngọc Trác đang chú tâm vào việc soạn tài liệu luận giảng đề tài Tam Dân Cửu Viện. Tiền bối xem lại trang bản thảo:
“Đặc điểm thứ hai là thực hành ba nguyên tắc: Dân đức, dân sanh, dân trí. Ba đặc điểm nầy rất quan hệ trong cuộc sống của nhân loại. Bất cứ dân tộc nào muốn tạo thành một quốc gia hay một xã hội nào, muốn xứng đáng một phần tử trong nhân loại mà được tồn tại mãi mãi thì trong ba nguyên tắc nầy không thể thiếu một được.
Bây giờ xin giải nghĩa thế nào gọi là dân, và dân có quan hệ thế nào đối với quốc gia xã hội?
Dân là tên chung gọi tất cả người trong một nước.
Sự quan hệ của dân ra thế nào? Ta có thể nói ý dân là ý Trời.
Kinh Thư có câu: ‘Thiên thị tự ngã dân thị. Thiên thính tự ngã dân thính.’ ([4])
Thầy Mạnh đã nói: ‘Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.’ ([5])
Ông Lư Thoa ([6]) nói: ‘Dân là chung hồn của nước, nước là danh dự của dân.’ Trong bản dân quyền tuyên ngôn có nói rõ sự quan hệ của dân thế nào rồi.
Theo những thuyết trên, suy trắc đến các học thuyết Đông Tây xưa nay bàn về chữ dân, ta có thể thấy sự quan hệ của dân đối với cuộc hưng vong thành bại thế nào.
Trong bài cổ động Nông Viện, Đức Trần Hưng Đạo đã nói: ‘Dân mạnh nước mạnh, dân yếu nước yếu, dân đau nước bại hoại, dân chết nước điêu tàn. Và trong Pháp Chánh Truyền của Đại Đạo minh định chỉ có vạn linh sanh chúng mới được quyền thay thế cho Đức Chí Tôn mà công cử chức phẩm Giáo Tông. Vạn linh sanh chúng tức là toàn thể tín đồ, là nhân dân.
Ôi! Quyền hạn của nhân dân, sinh mạng của nhân dân quan hệ đến thế thì tổ chức sắp đặt thế nào để dẫn dắt nhân dân vào con đường tiến hóa? Nên tôn chỉ của Đại Đạo phải hoạch định ba nguyên tắc đạo đức, đời sống, trí thức, mới mong tổ chức hoàn bị cả tinh thần lẫn vật chất, không cố chấp xưa, không câu nệ nay để mưu cầu đại đồng xã hội tương lai cho nhân loại.
Thế nào là dân đức? Dân đức là đạo đức của nhân dân. Đó là vấn đề quan hệ trong cuộc sống chung của loài người. Khi loài người tiến đến trình độ cao về vật chất thì vấn đề đạo đức bị bỏ sót. Người ta quên rằng nếu bỏ đạo đức thì loài người e không còn là người nữa. Vậy nên ta có thể gọi lớn lên rằng đạo đức là vấn đề cố hữu xưa nay, cả Đông Tây, ở xã hội nào, dân tộc nào nó cũng là vấn đề thần thánh để nâng đỡ cuộc đời của loài người thêm cao thượng; nuôi nấng tâm chí loài người được sáng suốt, tránh được tất cả những tư cách ô hạ, những tính tình ti tiện; kềm chế được những nhược điểm, vượt qua được mọi sự cám dỗ, mọi sự ràng buộc vật chất; giữ lương tâm trong sạch, nhân cách cao vời, phẩm giá xứng đáng; gìn tròn thỉ chung cái thiên chức làm người, bổn phận làm dân, tư cách một tín đồ. Đạo đức của dân được như thế thì lấy giàu sang không câu nhử được, lấy quyền thế không uy hiếp được, lấy sắc đẹp không dụ dỗ được.
Chữ đạo đức nghĩa chính là như thế chứ không phải như người ta đã hiểu là người nhu nhược, thật thà, gặp sao hay vậy, đa cảm bi quan. Gặp phải một nghịch cảnh, một trở lực thì tâm trí bần thần thối thác tránh trớ. Rồi đổ cho mạng lý hoặc nhân quả, nhân duyên. Không có một sinh lực gì, chính khí gì đủ sức tự tin để ra tay cải tạo.
Thế nào gọi là dân sanh? Dân sanh là đời sống của nhân dân. Nó là vấn đề quan hệ sống còn của con người. Đời sống của nhân dân gồm có ăn, ở, mặc. Thầy Mạnh Tử có câu ‘Vô hằng sản nhi hữu hằng tâm giả, duy sĩ vi năng. Nhược dân tắc vô hằng sản, nhân vô hằng tâm. Cẩu vô hằng tâm, phóng tịch tà xỉ, vô bất vi dĩ. Cập hãm ư tội, nhiên hậu tòng nhi hình chi, thị võng dân dã.’ ([7]) Nghĩa là: Không có tài sản mà thường giữ được lòng thì chỉ có kẻ sĩ quân tử mới giữ được năng lực như thế, còn đại đa số nhân dân thì nhân vì không có tài sản mà thường không giữ được lương tâm. Đến khi lương tâm không được giữ thường thì buông lung cong vạy, không việc gì ty tiện mà không dám làm. Kịp đến khi sa vào tội lỗi thì quan trên lại lấy hình phạt mà trừng trị, như thế hình phạt đặt ra chỉ là lưới rập dân đấy.
Xét câu này, thấy ngay chỗ quan hệ của dân sanh mà bậc hiền triết lưu tâm tha thiết đến chỗ trọng yếu là tổ chức đường kinh tế sinh sống cho nhân dân. Lại có câu ‘Cơ hàn thiết thân bất cố liêm sỉ’ ([8]) có nghĩa là đói rét đến bên lưng thì hơi đâu nói đến liêm sỉ. Suy ra, ta có thể thấy ngay rằng nguyên tắc dân sanh đối với bất cứ xã hội nào, quốc gia nào cũng là điều kiện rất cần thiết. Vì có thế mới làm cho đời sống con người được thỉ chung trung thành với bổn phận.
Thế nào là dân trí? Dân trí là trí thức của dân. Vì sao mà phải lo cho nhân dân có trí thức?
Hàn Phi Tử đã nói: ‘Ngu dân bách vạn vị chi vô dân.’ ([9]) Nghĩa là dân ngu dẫu có nhiều đến trăm vạn cũng như không có một người nào.
Lương Khải Siêu cũng nói: ‘Họp bầy đui không thành người sáng, họp bầy dốt không thành tinh thông.’
Ta có thể nói trí thức phổ thông của dân là điều kiện quan hệ cho cuộc thạnh suy của một quốc gia, một chủng tộc. Nhân dân cần có trí thức để nhận biết cái thiên chức làm người của mình, để hiểu biết cái quyền hạn, cái bổn phận làm dân của mình. Nhìn sự nhục nhã cùng nỗi phẫn uất chung vì giá trị con người mà đồng lòng cùng nhau đoàn kết khắn khít. Tình thân ái dần dần từ đồng loại mà ra. Chịu hy sinh bớt những điều kiện riêng mà hăng hái chung sức vào cái vận mệnh của toàn thể xã hội. Nếu trí thức của nhân dân đã tiến một bước khá cao rồi thì cái danh dự cao quý sẽ đem lại cho họ một cách vẻ vang. Đó là điều chắc chắn vậy. Vì họ có trí thức mới hiểu biết lịch sự ở đời, mới biết phục tùng kỷ luật, mới giữ được trật tự mà nhân cách mới thanh cao. Thế thì cơ quan giáo dục đối với sự nuôi nấng trí thức của nhân dân thiệt là một điều không thể cẩu thả được. Nên dân trí là vấn đề rất quan hệ trong công cuộc trưởng dân phụ thế của bất cứ dân tộc nào.
Kết luận: Đem so sánh ba nguyên tắc của đặc điểm thứ hai trong tôn chỉ Đại Đạo rất thiết thực, không thể thiếu một được. Tất phải đồng thời tổ chức cơ quan khai hóa của Đại Đạo đã hoạch định hẳn hoi. Cái đại thể của chín viện đã ngậm đủ ba nguyên tắc trên kia như:
- Dân đức thì có: Hòa Viện, Lễ Viện, Phước Thiện Viện.
- Dân sanh thì có: Nông Viện, Công Viện, Lương Viện.
- Dân trí thì có: Phổ Thông Giáo Lý, Học Viện.
- Còn Nội Ngoại Giao Viện là cái cửa thống lãnh giao tiếp.
Vậy nếu đem suy trắc, cân nhắc ba nguyên tắc nầy đối với các học thuyết Đông Tây xưa nay mà so sánh thì ta phải có thể đại ngôn lên rằng tôn chỉ của Đại Đạo nếu có thể thực hành được hoàn toàn thì cuộc đại đồng tôn giáo, đại đồng xã hội sẽ thực hiện, quyết không còn mơ mộng nữa.”
Lướt qua hết đoạn bản thảo, Huỳnh tiền bối với tay lấy lọ dầu Nhị Thiên Đường bôi một ít vào mũi. Hơi lạnh cuối đông theo gió lùa vào khe cửa làm tiền bối hơi rúm người lại. Bỗng có tiếng gõ cửa và tiếng của chị nữ tu trù phòng:
- Thầy giáo Hai?
- Ủa có gì? Khuya vậy! Tiền bối hỏi vọng ra.
Cửa xịch mở, con cháu gái từ quê theo nữ tu trù phòng bước vào. Trước sự ngạc nhiên hơi âu lo của tiền bối, cô cháu gái vội vòng tay thưa:
- Thưa chú Hai, thím Hai Chơn Bảo cho cháu ra báo với chú là cụ bà bị cảm gió từ khi chiều.
Hai
Cái lạnh mùa đông của miền Trung rất khắc nghiệt. Ở miền quê thiếu thốn chăn mền, đêm ngủ người ta phải dùng chiếu để đắp. Nhiều nhà đông con nửa đêm phải dậy đốt lửa ngồi sưởi ấm. Các cụ cao tuổi luôn để nồi than sưởi dưới gầm giường. Năm nào cũng vậy, vào tháng mùa đông người chết nhiều hơn các mùa khác. Chết vì lũ lụt, chết vì già không chịu được lạnh…
Thân mẫu của tiền bối Huỳnh Ngọc Trác, cụ bà Tịnh Niệm Phan Thị Nẫm rất nghiêm cẩn về gia pháp, trân trọng về lễ tiết. Cụ bà thể lực yếu đuối mà bản chất siêng năng cần mẫn. Trong những ngày áp tết cụ bà chăm lo phụ với người con dâu (Hành Thiện Chơn Bảo) chuẩn bị đón tết cổ truyền. Lo dọn dẹp nhà cửa, lo hương hoa trà quả, nhất là lo làm bánh mứt. Không chỉ cho gia đình mà cho cả thánh thất Trung An. Vì cảm lạnh do mắc mưa, đồng thời dường như có mầm bệnh già tiềm ẩn nào đó đã bùng phát nên cụ bà suy kiệt nhanh chóng. Tiền bối Huỳnh Ngọc Trác được tin vội về lo thuốc thang, nhưng cụ bà vẫn không qua được thời điểm mệnh chung. Cụ bà thoát trần vào giờ Hợi ngày 29 tháng Chạp Canh Thìn (Chủ Nhật 26-01-1941).
Cái tết Tân Tỵ (1941) là cái tết đau buồn không chỉ riêng cho gia đình tiền bối Hùynh Ngọc Trác mà cho cả thánh thất Trung An và bổn đạo Quảng Nam.
Đám tang được tổ chức vào ngày 04-01 Tân Tỵ (Thứ Năm 30-01-1941) đúng theo nghi lễ tân pháp Cao Đài. Tất cả các vị hướng đạo đã tập trung về, các họ đạo trong toàn tỉnh Quảng Nam cũng kéo về, có cả ban nhạc lễ Từ Quang đến hộ lễ.
Hương chức trong làng, nhất là Hương Kiểm Nguyễn Cường, cảm phục đức độ của cụ bà và thanh thế của gia đình nên cố ý che giấu, không trình báo lên huyện, tỉnh về tang lễ làm theo nghi thức của nền Đạo đang bị cấm.([10]) Tuy nhiên, vì âm hưởng quá lan rộng nên mật thám tỉnh là Reynaud và Tri Phủ Thăng Bình Nguyễn Xuân Đàm ([11]) đã kéo lính tập đến bao vây, bắt hầu hết các bậc hướng đạo có mặt, giải tất cả về Ty Liêm Phóng Hội An.([12])
Các tiền bối bị giam tám tháng mới ra tòa, bị xử mỗi vị bốn năm tù khổ sai vì tội danh tái phạm tụ hội bất hợp pháp, gồm có các tiền bối Nguyễn Quang Châu, Nguyễn Đán, Huỳnh Ngọc Trác, Trần Nguyên Chất và Phan Thiện Trì. Nơi thọ án là lao xá Quảng Nam. Rất may người cai tù lao xá nầy là Nguyễn Thôi (thường gọi Cửu Hiểu) vốn là tín đồ Cao Đài. Do đó, khi phải thi hành lao dịch, các tiền bối được Cửu Hiểu ngầm giúp đỡ, chỉ cắt đặt những việc nhẹ nhàng như quét công đường, nhổ cỏ trong dinh thự. Về lương thực hằng ngày, mỗi người được cấp phát 750 gram gạo, một ít muối và rau. Các vị không nhận thức ăn mặn.
Ba tháng sau có lệnh của Tổng Đốc Quảng Nam Ngô Đình Khôi cho các vị ra lao dịch tại hành cung.([13]) Ở đây lại gặp người đầu bếp là tín đồ Cao Đài thánh thất Từ Quang; nhờ vậy tạo được đường dây thăm viếng liên lạc, tiếp tế khá đầy đủ. Nhân đó, tiền bối Huỳnh Ngọc Trác tiếp tục soạn tài liệu giáo lý gởi về cho học viên phổ thông ở Đạo Đức Học Đường.
Tiền bối lại được tin tiền bối Trần Nguyên Chí và người em gái là Trần Thục Cơ bị bắt tại Đạo Đức Học Đường do một bài luận văn đề tài “Con cò đi ăn đêm”. Nội dung bài luận có hàm ý động chạm thời thế. Tiền bối Trần Nguyên Chí thừa nhận rằng mình hướng dẫn em gái làm bài luận ấy, nên cả hai bị bắt phạt tù: Trần tiền bối một năm, còn người em gái Trần Thục Cơ mười tám tháng, cũng đều bị đưa ra nhà lao Hội An (Quảng Nam). Các tiền bối cũng nhờ chuyển những bài thánh giáo từ đầu năm ra để xem lại. Hầu như bài nào các tiền bối cũng đọc nhiều lần, đến thuộc lòng.
Bài thánh giáo của Đức Trần Tổng Lý làm các tiền bối thao thức, xót xa trong cảnh “trói chân kỳ ký”:([14])
TỔNG LÝ TRẦN HƯNG ĐẠO
THI
Trông thấy quần sinh luống chạnh lòng
Bàn cờ thế giới đã dàn xong
Tàn linh năm cõi lo quên ngủ
Nhân loại bốn phương sợ phập phồng
Đạo đức dạy đời, đời bịt mắt
Chơn truyền cứu chúng, chúng nhàm trông
Chừ ai chung gánh canh khuya vắng
Mà dắt tay nhau đến Đại Đồng.
Chào chư chức sắc lưỡng ban. Hỡi chư hành sự! Than ôi! Ngày qua như tên xẹt, có chờ ai đâu, thấm thoát mà Đạo Tam Kỳ đã mải miết trên dải đất Đông Dương mười mấy thu đằng đẵng, giữa lúc trào lưu tư tưởng Đông Tây đương quyết liệt đấu tài, liệt cường đương gầm thét để tranh thành cướp đất còn hơn thời Xuân Thu Chiến Quốc.([15]) Cũng vì quá văn minh khoa học, lấy lý trí mà thắng đoạt cơ trời.
Nào thần công, cao xạ, hơi ngạt, xe tăng, bom thiêu, tạc đạn. Hôm nay, kết quả cho nhân loại một tấn thảm kịch nơi bãi sa trường với bao nhiêu máu sông xương núi. Thảm thảm! Thế mà đã yên đâu, rồi đây nhơn loại còn phải bước chân vào cảnh đoạn trường hơn nữa, biết bao nỗi bất bình, nỗi kinh khủng, nỗi phập phồng lo ngại cho cái ngày mai! Hỡi ôi!
Càng trông nhân loại càng đau
Hỏi nào hiệp khách anh hào ai đâu?
Thế mà ai chịu mở mắt tỉnh tâm trong lúc đêm trường mờ mịt thiên thảm địa sầu, chịu noi theo ánh sáng của vừng thái dương là Tam Kỳ Đạo chuyển để cùng nhau đưa tay đánh thức kẻ còn mê trong cơn mộng.
Thiệt, Thần Tiên cũng vô phương khả luận, biết tỏ cùng ai! Nào đâu trang hiệp nghĩa, khách anh tài, vì chúng quên mình trong lúc nước bại nhà suy, phong dời tục đổi?
Thử hồi tưởng lại, mấy thế kỷ vừa qua nào có phải dân Việt không người, đất Việt không lính? Ờ, thì dân số cũng gần ba mươi triệu, cũng đầu đen máu đỏ, lao nhao lúc nhúc trong khoảng giang sơn hùng vĩ tú cảnh kỳ quan. Nào Ngũ Hành, Hải Vân, Tản Viên, Hương Tích, Cửu Long, Nhị Hà; nào có thiếu danh nhơn, hào kiệt, lương tướng, minh quân đâu! Kìa, kìa, những hàng chữ rõ ràng, sờ sờ trước mắt. Nào Lê Lợi, Lý Bôn, Trưng Vương, Triệu Ẩu,([16]) Thường Kiệt, Tây Hồ,([17])… Thế thì ai khôn linh mà chối tiếng con Hồng cháu Lạc ư!
THI
Nghĩa vụ cùng chung đó bớ ai
Gác tay kề trán lúc đêm dài
Hỏi mình có phải trang nam tử
Hay lũ chán đời bịt mắt tai
Trìu trịu tang bồng một chiếc thân
Mày râu Tạo Hóa đúc trong trần
Đã đành phận sự ra gồng gánh
Nặng mối tình chung với quốc dân.
TRƯỜNG THIÊN
Dân tâm đã chưa an chưa định
Quốc hồn thêm dở tỉnh dở say
Kiếp căn chi khéo đọa đày
Cho dân Nam phải miệt mài trầm luân
Nền phong hóa đã không bồi đắp
Mối nhân luân lại sắp điêu tàn
Nhơn tình thế thái đa đoan
Nước non nghĩ đến mà chan chứa sầu
Nguồn vật chất Tây Âu bổ lại
Sóng bất bình Đông Hải khua rân
Phong trào thế giới duy tân
Làm cho nhân loại phân vân trăm đường
Hỡi than ôi! Can trường thống thiết
Hỡi than ôi! Tâm huyết thiểu phần
Đã đành than khổ vì thân
Mà đau đớn bấy cho dân Nam nầy!
Đã lắm lúc đắp xây thành lũy
Cũng nhiều khi sửa trị quốc phong
Đổi đời chi bấy Hóa Công
Lập rồi lại xóa cũng không mấy hồi
Khổ thì thôi mà thôi chẳng dứt
Căm tức người mà tức nước non
Sơn hà tô phấn điểm son
Xưa ông bà thế, nay con cháu gì?
Bước ra đời, đời nguy đời khốn
Hỏi lại người, người độn người ngu!
Anh hùng lỡ lối công phu
Quăng gươm cắt tóc mà tu cho rồi!
Nhưng còn mang nợ đời trìu trịu
Khó nỗi nầy chừ liệu sao sao
Hỏi Trời! Trời ở quá cao
Hỏi người, chả thấy người nào nói đâu!
Cơn khao khát gặp bầu thanh thủy
Lúc ốm đau nhờ vị lương y
Trời gieo mối đạo Tam Kỳ
Thiệt là hạnh phúc còn gì hơn chăng?
Kêu gọi nhau tập rèn đạo đức
Dặn dò nhau un đúc tinh thần
Nước đồng nước, dân đồng dân
Năm châu bốn bể ra thành người chung
Nhưng than ôi! Vì lòng bản ngã
Hỡi than ôi! Vì bả lợi danh
Làm cho cơ Đạo tan tành
Những phường sâu mọt dạ đành bán buôn
Mượn danh Đạo lợi quyền bảo thủ
Để tìm ngôi Giáo Chủ, Giáo Tông
Đứng lên xưng bá xưng hùng
Thế mà lòng chẳng thẹn thùng mới ghê
Đời cay nghiệt, toan về bước Đạo
Đạo dở dang chừ bảo đi đâu?
Âu là sanh đứng mày râu
Nặng câu hồ thỉ, năng câu tang bồng
Chừ ta quyết tả xông hữu đột
Chừ ta toan trống giục gươm reo
Phất cờ lớn tiếng cả kêu
Hỡi ai vì Đạo bươn theo kịp Thầy
Không còn chia phái nầy phe nọ
Không còn phân em nhỏ anh to
Cùng nhau phận sự chung lo
Đứng về trung lập chờ cho Đạo thành
Đợi ngày nào nhơn sanh thống nhứt
Đợi ngày nào trí thức mở mang
Gây nên tình cảm nồng nàn
Dắt về Hội Thánh lập đoàn quy nguyên
Thiệt là:
Gót trần men bước xe Tiên
Hào quang chiếu diệu Nam thiên chói lòa
Dặn lòng ta biết lấy ta.
Đức Trần Tổng Lý giáng ban bài thánh giáo nầy tại thánh thất Nam Trung Hòa ngày 04-6 Tân Tỵ (Thứ Bảy 28-6-1941), cũng chính là ngày tiền khai Hộ Pháp Phạm Công Tắc và năm chức sắc cao cấp Tòa Thánh Tây Ninh bị thực dân Pháp bắt đưa đi đày ở Mã Đảo (Madagascar), châu Phi.
Ngày tháng trong tù đi rất chậm còn diễn biến bên ngoài thì dồn dập từng giờ. Từ tháng 6-1941, nhà đạo Cao Đài đã lâm vào cảnh khốn đốn. Các Thánh Tòa, thánh thất đều bị phong tỏa. Thượng Đầu Sư Nguyễn Bửu Tài (Cao Đài Tiên Thiên) bị đày Côn Đảo, Thượng Chưởng Pháp Lê Kim Tỵ (cũng Tiên Thiên) bị đưa đi nhà lao Phú Bài. Các thánh sở Cao Đài có gắn hình chữ vạn đều phải gỡ bỏ,([18]) hoặc đóng khung vuông thành hình chữ điền . Thánh tượng Thiên Nhãn không được thờ, chỉ còn để khuôn kính trắng gọi là… thờ vô vi. Thực dân Pháp thẳng tay đàn áp Cao Đài…
Ở hành cung công việc lao dịch tương đối nhàn rỗi nên các tiền bối có nhiều thì giờ nghiên cứu thánh giáo và nghe ngóng tình hình. Mỗi người đều mang tâm trạng ưu thời mẫn thế. Tiền bối Huỳnh Ngọc Trác thì có thêm nỗi buồn tang mẹ. Suốt chín tuần cửu và tiểu tường đều chỉ mặc niệm trong cảnh lao tù. Mùa đông lại đến, tháng Chạp lại về làm tiền bối nhớ lại ngày chung sự của mẫu thân mà chạnh lòng hiếu đạo. Rồi có tin Hiệp Lý Lê Trí Hiển quy thiên vào ngày mồng 6 tháng Chạp Quý Mùi (Thứ Bảy 01-01-1944).([19]) Tang lễ cử hành tại thánh thất Nam Trung Hòa trong sự thiếu vắng các bậc hướng đạo đồng tâm đồng chí, thật chua xót ngậm ngùi!
Đến tháng 10 năm 1944 các hướng đạo ở lao xá Quảng Nam được cho về thăm nhà một tháng, sau đó sẽ tiếp tục đưa đi an trí. Riêng tiền bối Phan Thiện Trì thì được về luôn. Một người bạn tù (tên Thanh Tâm) cũng được về trong dịp nầy xúc cảnh tặng các tiền bối một bài thơ Đường luật:
Gặp quý thầy đây suốt những ngày
Sống chung tù tội nếm chua cay
Giữ bò quan lớn hồi mưa nắng
Đẩy gạo đường xa lệnh bếp cai
Thầy bởi sĩ hiền cam ngục thất
Tôi vì đạo nghĩa chịu trần ai
Nay người còn ở, người về trước
Thẳng một đường Trời, thỏa chí trai.
Tiền bối Phan Thiện Trì họa lại nguyên vận:
Cùng chung tù tội đã bao ngày
Nếm đủ mùi đời lắm đắng cay
Đâu để chân thân vùi cát bụi
Từng đem tình cảm đối bính cai
Non sông ngẫm đến buồn tê tái
Danh lợi mà chi trối mặc ai
Chẳng hổ tu mi, lời tạc dạ
Kinh luân sự nghiệp chí làm trai.
Ba
Thực dân Pháp thiết lập những khu trại (camps) gọi là “trại an trí” ở miền rừng thiêng nước độc để đày các tội phạm khổ sai đến thọ án. Tất cả các trại an trí đều thiết lập gần như nhau. Bao quanh bên ngoài là đường hầm cắm chông và bờ rào giăng kẽm gai. Bên trong trại giam có sân rộng, có lối đi, có trạm phát thuốc, nhà bếp, nhà ăn. Ngoài khu nhà ở, còn có khu canh tác, chăn nuôi. Tất cả tù nhân ở trại phải lo lao động trồng tỉa, chăn nuôi.
Sau một tháng về thăm nhà, các tiền bối trở lại trình diện, bị chia đi an trí nhiều nơi. Hai tiền bối Nguyễn Quang Châu, Huỳnh Ngọc Trác đi trại an trí Đăk Tô (Kon Tum). Tiền bối Trần Nguyên Chất đi trại an trí Phú Bài. Hai tiền bối Nguyễn Đán, Trần Nguyên Chí đi trại an trí Trà Khê.
Trại Trà Khê ở miền thượng tỉnh Phú Yên. Vùng đồi núi nầy có nhiều cây gòn là làng của dân Rha-đê. Trại nầy giam giữ người tỉnh miền Trung thuộc nhiều thành phần chính trị, tôn giáo… Riêng về đạo Cao Đài có nhiều chức sắc ở Quảng Ngãi. Phần Quảng Nam có Ngô Chánh Duy, Lê Văn Hóa. Ngô Chánh Duy thực ra chưa phải là hàng hướng đạo nhưng vì quá nhiệt tình với Đạo nên cũng bị chung chịu lao tù. Tiền bối Lê Văn Hóa là người bị mật thám Pháp theo dõi nghiêm ngặt vì nghi ngờ là đầu mối liên lạc giữa Cao Đài miền Trung với tổ chức Liên Đoàn Ái Quốc Hội ở miền Nam của bác sĩ Trương Kế An và giáo sư Trần Văn Quế.
Hiệp Lý Lê Trí Hiển là bác ruột tiền bối Lê Văn Hóa. Tiền bối Hóa đã được người bác hướng dẫn nhập môn tại thánh thất Nam Trung Hòa năm 1938. Tiền bối Hóa có mở hiệu thuốc bắc Trung Hòa Đường tại ga Kỳ Lam (Điện Bàn, Quảng Nam). Khách hàng của Trung Hòa Đường gồm cả người đạo lẫn người đời, hằng ngày tấp nập. Kỳ Lam là ga gần ba thánh thất Nam Trung Hòa, Thanh Quang, và Từ Quang, là điểm đến và đi của các hướng đạo. Tất nhiên Trung Hòa Đường là trạm đón đưa mỗi khi có hướng đạo từ Sài Gòn ra hoặc từ Quảng Nam đi nơi khác.
Cuối năm 1942 nhà thuốc Trung Hòa Đường bị khám xét, tiền bối Lê Văn Hóa bị bắt và giam ở lao xá Hội An. Giai đoạn nầy các hướng đạo đã đi lao dịch ở hành cung nên không biết được trường hợp của tiền bối Lê Văn Hóa như thế nào. Còn tiền bối Lê Văn Hóa thì rất vui gặp được hai bậc hướng đạo quý mến (Nguyễn Đán, Trần Nguyên Chí) tại Trà Khê nầy. Tiền bối Hóa đã kể hết việc mình, để cùng nhau hiểu rõ thêm biến cố:
“Các anh biết không, sau khi các anh bị bắt, tiệm thuốc nhà em trở thành điểm thông tin của nhà đạo. Nhà cầm quyền đặt người theo dõi, mật thám Pháp đã vào ra hỏi han nhiều lần và cuối cùng cho xét nhà, bắt em đưa đi sở mật thám Hội An.
Hôm đó vào văn phòng mật thám em có thấy anh Lương Ký (Thanh Long Lương Vĩnh Thuật) đang bị hỏi cung. Sau đó họ đưa anh Lương Ký đi đâu em không rõ. Phần em vào thẩm vấn họ hỏi về các bậc hướng đạo miền Trung và miền Nam.
Họ đưa em xem nhiều hình trong đó có hình của bác sĩ Trương Kế An, giáo sư Trần Văn Quế. Họ hỏi em có liên hệ như thế nào về hoạt động chính trị của Liên Đoàn Ái Quốc, về những chủ trương phục quốc, ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Để…
Em một mực thưa rằng tất cả những nhân vật đó em đều biết và kính trọng là những bậc hướng đạo của Cao Đài, còn chủ trương và hoạt động mang tính chính trị thì em hoàn toàn không rõ.
Họ đã dùng cực hình, kể cả móc điện lỗ tai, nhưng em chẳng biết gì để khai cả. Họ lập luận rằng lấy tên tiệm thuốc bắc Trung Hòa là hàm ý hòa hiệp giữa Nam Trung Bắc, là điểm kết liên đường dây ba miền để mưu đồ đại sự.
Em giải thích là sách Nho có câu ‘Trí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên’. Có nghĩa là đạo làm người có hai đức tính trung dung và ôn hòa, nghĩa lý rất sâu xa tốt đẹp, không trái với lẽ Trời, không nghịch với lòng người. Cho nên chọn hai chữ Trung Hòa làm hiệu cho tiệm thuốc có ý biểu thị sự tốt đẹp cho nhà buôn, ngoài ra không có hàm ý gì khác.
Họ cho em là ngoan cố nên chuyển em từ bót cò sang giam ở phòng tối xà lim Bang Tá. Họ bỏ lủi em ở xà lim bốn tháng không khai thác hỏi han gì nữa cả.
Ngày ngày hết nằm lại ngồi trong cảnh chật hẹp tối tăm bị muỗi đốt chí tử. Em đã làm bài thơ tức cảnh:
Ủa lạ sanh chi giống muỗi cà
Đã không ích lợi, khuấy người ta
Vẩn vơ trong xó nghe hơi hám
Rỏ rẻ bên tai giọng thiết tha
Quanh quẩn ngày đêm toan hút máu
Lảng lơ giây phút bị phồng da
Thật là một giống côn trùng độc
Để nó làm chi, đập đuổi ra.
Suốt ngày ở trong khám tối nhưng lòng em thì luôn luôn sáng rực về nghĩa lý hai chữ trung hòa. Một là chỉ con đường tu dưỡng hình thần, duy trì sự ổn định. Hai là chỉ hoạt động ý thức không thiên về trái, không lệch về phải, không chồm về trước, không ngã về sau. Như sách Trung Dung đã ghi: “Vui, giận, buồn, mừng chưa phát ra gọi là Trung. Phát ra mà đều trúng tiết gọi là Hòa. Trung, đó là gốc của thiên hạ. Hòa đó là đạt đạo của thiên hạ. Đạt đến Trung Hòa thì đất trời ở đúng vị trí, vạn vật được nuôi dưỡng.” ([20]) Nhờ sở đắc được vậy mà tâm hồn em lúc nào cũng thanh thản để đợi mệnh.
Một sớm mai, em đang ngồi bó gối, niệm với lòng rằng: Nhân nào quả nấy. Không cấy đừng trông. Không gây đừng sợ. Bỗng cửa xà lim xịch mở, hai người lính gọi em cho đi tắm, thay đồ, cho ăn bánh mì rồi đưa ra xe. Em không biết họ đưa đi đâu. Khi lên đến Vĩnh Điện ([21]) thì xe hướng thẳng Sài Gòn. Cuối cùng em được đưa vào bót Catinat, nơi đang giam giữ bác sĩ Trương Kế An.
Họ đã cho em đối chất với bác sĩ Trương Kế An. Khi vừa thấy em, bác sĩ An gật đầu chào và nói rằng: “Phần tôi, tôi đã khai tất cả, phần thầy ([22]) tùy thầy trình bày.”
Em hiểu rằng bác sĩ An chấp nhận việc làm của mình về tổ chức Liên Đoàn Ái Quốc. Nhưng phần em thực sự chưa tham gia gì cả nên em thẳng thắn trình bày rằng năm 1941 em vào Sài Gòn coi hội chợ, đi cùng xe với anh Thanh Long. Nhân dịp có ghé lại thăm bác sĩ An, được đãi bữa cơm thân mật. Trong lúc chuyện trò, bác sĩ có đề cập đến Liên Đoàn Ái Quốc, nhưng em không hề nhận một công tác nào trong tổ chức nầy. Cũng không hề nối dây liên lạc cho ai ở miền Trung cả.
Họ hỏi em từng người một về mối quan hệ của quý Anh Lớn, em trình bày rằng chỉ biết quý Anh Lớn hướng đạo chăm lo phổ thông chơn đạo còn việc quốc sự thì hoàn toàn không hay biết gì.
Họ đã để em lại bót cảnh sát một mình. Mỗi ngày họ đến đem hình ảnh người nầy người nọ hạch hỏi đủ điều. Em chỉ một mực trình bày rằng có quan hệ trong đạo mà thôi.
Ở đây tròn một tháng. Nhẩm lại từ ngày bị bắt đến nay đã chín tháng mà tù không ra tù, tội không ra tội. Cứ giam chỗ nầy giữ chỗ kia, cật vấn những điều đâu đâu không căn cứ. Rồi có lẽ không khai thác được gì nên họ bỏ quên em ở bót cảnh sát cả tuần. Em lại tức cảnh làm thơ:
Thử lòng chi bấy Hóa Công ôi!
Mài miệt xác thân chín tháng trời
Bót nọ bót tê từng dạo đến
Bữa no bữa đói mãi đành xơi
Bắt lên bắt xuống từng mấy lượt
Khai lại khai đi vẫn một lời
Roi đánh điện quay cam bụng chịu
Thử lòng chi lắm Hóa Công ôi!
Một tuần lễ trôi qua, em nghĩ chắc mình sẽ chịu một hình thức tù đày đặc biệt nào đây. Nhưng không ngờ em được trả về lao xá Quảng Nam và may duyên hội ngộ cùng quý anh lớn tại Trà Khê nầy.”
Trong trại Đăk Tô ở cao nguyên Kon Tum, hai tiền bối Trần Quang Châu và Huỳnh Ngọc Trác cùng bị giam chung với nhiều chính trị phạm. Một số người trong đó cho rằng tôn giáo là cổ hủ, tiêu cực, mê tín dị đoan. Vì vậy, thấy hai tiền bối Trần, Huỳnh ăn chay trường họ hay châm chọc phá khuấy. Thường thức ăn từng bữa, hai tiền bối chỉ xin riêng rau và muối. Có hôm hai tiền bối đi hành dịch về trễ, họ trộn lẫn tất cả nên hai tiền bối đành ăn cơm lạt (cơm không). Tiền bối Huỳnh Ngọc Trác tìm cơ hội trình bày với họ về con đường tâm linh, giáo lý Cao Đài, vạn giáo đồng nguyên, mục đích đại đồng tại thế, siêu thoát xuất thế, nhất là đề cập đến đối tượng tận độ của Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ là tất cả nhân loại chứ không riêng dân tộc nào… Nhiều lần trao đổi đó khiến con người có vẻ quê mùa kia trở nên được bạn tù kính trọng.
Ở trại giam Phú Bài tiền bối Trần Nguyên Chất có gặp Thượng Chưởng Pháp Lê Kim Tỵ. Tiền bối Lê Kim Tỵ lúc nào cũng biểu lộ tư cách của con người hùng. Dù đang ở trại an trí vẫn lan truyền được hùng tâm hùng chí cho Trần tiền bối. Giọng tràn trề tin tưởng, tiền bối Lê Kim Tỵ nói với mọi người rằng Thế Chiến I đã kết thúc năm 1918 thì Thế Chiến II nầy sẽ kết thúc năm 1945; con số 9 là Thiên thơ dĩ định (sách Trời định sẵn).
Bốn
Ngày 9 tháng 3 năm 1945, phát xít Nhật đảo chánh thực dân Pháp. Tất cả tù nhân ở các nhà lao hoặc trại an trí đều tự phóng thích. Các tiền bối hướng đạo Cao Đài miền Trung sau sáu năm giam cầm nay được tự do về với gia đình, với thân tộc và bổn đạo.
Tại thánh thất Trung Thành (Đà Nẵng) thiết lập đàn cơ, Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo giáng, ban lệnh tổ chức lễ Đại Đạo Phục Hưng. Trước tiên tổ chức tại thánh thất Trung Thành lễ chung cho Quyền Hội Thánh; sau đó tổ chức tại mỗi thánh thất ở Quảng Nam. Nơi nào cũng được các bậc hướng đạo đến chứng lễ. Chương trình gồm có dâng lễ cáo yết Đức Chí Tôn, sau đó là nói chuyện đạo và tâm sự hàn huyên, kể lại những gian lao tù tội của các hướng đạo và nỗi niềm canh cánh trông chờ cũng như lòng trung kiên của bổn đạo.
Qua đến tháng 5 Ất Dậu (1945) thì công cuộc truyền giáo phục hồi theo quy chế của Nội Luật Thánh Tòa khai giáo Bắc Trung:
A. Cấp Hội Thánh, phần vô vi có Đức Tổng Lý Trần Hưng Đạo. Phần hữu hình có:
- Hiệp Lý Trần Nguyên Chất, tiền bối Trần Quang Châu đảm trách cả Nội Ngoại Giáo Viện, Phổ Thông Giáo Lý Viện, và Lễ Viện.
- Tiền bối Huỳnh Ngọc Trác đảm trách Hòa Viện, Phước Thiện Viện.
- Tiền bối Nguyễn Đán đảm trách Công Viện, Lương Viện.
- Tiền bối Nguyễn Hồng Phong đảm trách Học Viện.
- Hiệp Lý Trần Nguyên Chất kiêm nhiệm Nông Viện.
- Về nữ phái có tổ chức Liên Đoàn.
B. Cấp thánh thất có: Lễ Sanh, Chánh Phó Hội Trưởng, Chánh Phó Từ Hàn, Chánh Phó Thủ Bổn, Giáo Viên, Cai Kinh, Thông Tín, Nghị Viên.
C. Cấp xã đạo có: Bảo Cử, Dẫn Tấn (Thiên Bàn).
D. Về bộ phận thông công Hiệp Thiên Đài, giai đoạn nầy tản mác, nên khi cần lập đàn thì mời Đồng Tử Liên Hoa (Đàm Thi).
Ngoài ra Hội Thánh còn tổ chức Tổng Đoàn Tráng Anh, đặt tập thể giới trẻ Cao Đài vào phương hướng rèn luyện giáo dục thích nghi. Tổng Đoàn nầy do tiền bối Cao Hữu Chí, một huynh trưởng hướng đạo đảm trách.
Tổ chức Tráng Anh Đoàn có ba cấp: Ở Hội Thánh có Tổng Đoàn; thánh thất có Phân Đoàn; xã đạo có Chi Đoàn. Về phương hướng giáo dục, ngoài phần kinh lễ giáo lý có phần sinh hoạt đoàn. Phần nầy học theo tổ chức hướng đạo sinh, lấy châm ngôn là: Đại Đạo, Phụng Sự; Tổ Quốc, Hy Sinh. Cách chào của Tráng Anh Đoàn là tay mặt, ngón cái đè lên ba ngón giữa, ngón áp út và ngón út, còn ngón trỏ thẳng đứng, với ý nghĩa là Đạo chỉ có một, tất phải trở về một. Đoàn phục của Tráng Anh là áo sơ mi màu đà lợt (gọi là màu tam thanh: xanh, đỏ, vàng hòa trộn), quần sọt (short) xanh cho nam, quần tây dài cho nữ. Mang giày bố, đội nón lác. Có thêm một xắc (sac) quàng vai, một gậy, một còi.
Đây là hình thức tổ chức giáo dục mới mẻ không những chỉ trong đạo mà ngay cả ngoài đời, nên đã thu hút mạnh tín hữu trẻ tuổi. Chỉ trong vòng thời gian ngắn tiền bối Cao Hữu Chí đã đào tạo cấp tốc một số trưởng, xây dựng hàng ngũ từ Tổng Đoàn xuống Phân Chi Đoàn.
Đoàn sinh Tráng Anh lúc bấy giờ như một cao trào, vừa tu học, vừa tham gia công tác ích đạo lợi đời.
Vào mùng 1 tháng 6 năm Ất Dậu (Thứ Hai 09-7-1945), một hội trại Tráng Anh Đoàn tổ chức tại đồi Phong Lệ cách Đà Nẵng mười hai cây số. Trại do huynh trưởng Cao Hữu Chí phụ trách, được Quyền Hội Thánh Trung Kỳ bảo trợ.
Trại quy tụ khoảng một trăm đoàn sinh từ các Phân Đoàn, Chi Đoàn. Chương trình hội trại gồm học tập giáo lý, sinh hoạt trại, học tập chuyên môn, chơi trò chơi lớn. Đêm đến có văn nghệ, lửa trại, giờ tĩnh tâm hồi hướng.
Sau hai ngày một đêm họp trại đã tạo được khí thế cho công cuộc phát huy sinh hoạt tu học tín hữu trẻ. Nhìn chung thì tinh thần phục hưng Đại Đạo là như vậy, nhưng cũng còn một số người e sợ ngại nghi.
Vào đêm mùng 3 tháng 6 Ất Dậu (Thứ Tư 11-7-1945) Quyền Hội Thánh Trung Kỳ lập đàn tại thánh thất Trung Thành. Đức Thánh Phan Thanh Giản giáng dạy:
THI
Non Nam tiếng phụng trỗi vang vầy
Mạt kiếp cơ Trời gấp đổi thay
Kẻ có cơ duyên còn với Đạo
Người không thiện nguyện biết đâu Thầy
Dựng cờ khảo thí phân phàm thánh
Chuyển cuộc trần hoàn thử dở hay
Ai biết sớm toan hành chánh pháp
Nam bang hồng phúc gặp Cao Đài.
PHAN THANH GIẢN
Lão Thần chào chư Hội Thánh, chư chức sắc, chức việc nam nữ.
THI
Cao Đài thị hiện giữa phàm gian
Kêu gọi nhân sanh tỉnh mộng tràng
Bởi thấy cuộc đời nhiều ý hướng
Quyết đem nhau lại một cơ quan
Giữa khi đời đạo chưa hòa hiệp
Gặp lúc phong ba biết đá vàng
Ai nắm lái lèo ai chống đỡ
Lướt trên sóng gió vững con thoàn.
Chư hiền ôi! Cơ Đạo hiện thời lắm hồi chua ngoa, lòng người ngơ ngẩn chưa biết phân biệt chánh tà, mà đôi khi Lão thấy chư hiền cũng vì đó mà đem dạ ngờ nghi. Hãy lấy công tâm mà phán đoán thì biết ngay đó là cơ lừa lọc của Chí Tôn rất kỹ càng, để cho chư hiền càng thấy thêm cách hành động của mình là chân, thiện, mỹ.
Nhưng cớ sao Lão thấy những khi chùa bế thất niêm, anh tù em tội trong vòng nô lệ buộc đè mà chư hiền đủ chí phấn đấu của mình, quyết liệt trên đường lý tưởng. Còn nay cơ Đạo hoằng khai, lòng người mến mộ, Lão ngó lại chư hành sự còn dạ thờ ơ như dường lãnh đạm!
Lão nhắc lại luật Thiên điều, trường Long Hoa tuyển khảo. Ai có phúc có phần, có duyên có quả mới chen vững cho cuộc khảo thí ma luyện ([23]) môn đồ. Cơn sóng to gió dữ là lúc đời khảo thí.
Các hiền cũng như hạt gạo trên sàng. Hạt gạo ấy đã chịu biết bao nhiêu lần xay, chà, giã, đạp mà không hề hấn mẻ sờn. Được vậy mới cao mới quý. Mà đó là mới bước đầu tiên thi bài tiểu học. Chớ đến đây rồi luật Thiên điều giăng thẳng, nhặt khít như lỗ trôn kim, ai mà ôm danh cầu lợi, bản ngã tư tâm, vị thân ích kỷ khó nỗi chen vào. Luật ấy vô tư không hạn Thiên phong, đạo hữu.
Vậy chư hiền nên quên mình đi mà xả thân cầu đạo. Mau lo cho kịp ngày Long Hoa đăng bảng, Minh Thánh ra đời mới được ngàn năm không uổng! Lão chào lui.”
PHẠM VĂN LIÊM
(Trích bản thảo
Nhịp Chân Buổi Ấy Còn Vang Bây Giờ)




Các chú thích trong bài do Văn Uyển:
([1]) Đại Hội Long Vân thứ mười hai diễn ra trong ba ngày 27, 28, và 29-3 Canh Thìn (Thứ Bảy 04, Chủ Nhật 05, và Thứ Hai 06-5-1940).
([2]) Thế Chiến thứ Hai nổ ra ngày 01-9-1939, kết thúc ngày 02-9-1945.
([3]) Thánh thất Trung Thành, 15-01 Canh Thìn (Thứ Năm 22-02-1940).
([4]) 天視自我民視. 天聽自我民聽. Thư Kinh, Chu Thư, thiên Thái Thệ trung. Nghĩa là: Trời thấy như dân ta thấy. Trời nghe như dân ta nghe.
([5]) 民為貴, 社稷次之, 君為輕. Dân là quý, sau đó đất nước, vua là nhẹ.
([6]) Lư Thoa: Là cách người Việt đầu thế kỷ 20 quen gọi Jean-Jacques Rousseau (1712-1778), dựa theo lối người Hoa chuyển chữ (transliterating) Rousseau thành 盧梭. Bấy giờ trí thức tân học Việt Nam đã sớm biết tác phẩm của Rousseau nhan đề Du Contrat Social (xưa dịch Xã Ước, hay Dân Ước… nay dịch là Bàn Về Khế Ước Xã Hội…). Ngày 01-8-1921 tại Hà Nội, Hội Bắc Kỳ Công Thương Đồng Nghiệp ra mắt bán nguyệt san Hữu Thanh, do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu (1889-1939) làm chủ bút. Trên một số Hữu Thanh (1921), Tản Đà có đăng bài thơ Nhớ Ông Lư Thoa (mười sáu câu), mở đầu như sau: Ngồi buồn ta nhớ ông Lư Thoa / Dân ước nhân quyền ông xướng ra...
([7]) 無恆產而有恆心者, 惟士為能. 若民則無恆產, 因無恆 . 苟無恆心, 放辟, 邪侈, 無不為已. 及陷於罪, 然後 從而刑之, 是罔民也.
([8]) 飢寒切身不顧廉恥.
([9]) 愚民百萬謂之無民.
([10]) Thứ Năm 26-01-1928 (04-01 Mậu Thìn), năm Bảo Đại thứ Ba, triều đình Huế ra Thông Tư cấm truyền đạo Cao Đài ở Trung Kỳ. Xem: Huệ Khải, Cấm Đạo Cao Đài Ở Trung Kỳ 1928-1950. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2012. Quyển 53-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
([11]) Nguyễn Xuân Đàm (1889-1953), hiệu Tùng Lâm, quê làng Quần Ngọc, xã Đông Lâm (nay là xã Khánh Lộc), huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ Phó Bảng khoa thi Kỷ Mùi (1919), kỳ thi Nho học cuối cùng tại Việt Nam. Ông làm trợ giảng Quốc Tử Giám một thời gian, rồi lần lượt làm Tri Phủ ở Đông Sơn (Thanh Hóa), Tam Kỳ và Thăng Bình (Quảng Nam)… Đời vua Bảo Đại, ông làm Ngự Tiền Văn Phòng, thăng chức Hữu Tham Tri (Bộ Lễ). Năm 1943, ông xin về hưu sớm.
([12]) Liêm Phóng (Sûreté): Cơ quan mật thám thời Pháp thuộc.
([13]) hành cung: Chỗ vua ngự khi rời hoàng cung tuần du.
Ngô Đình Khôi (1885-1945) làm Tổng Đốc tỉnh Quảng Nam. Ông là con cả ông Ngô Đình Khả (1850-1925), các em ông là Ngô Đình Thị Giao (?-1944), Ngô Đình Thục (1897-1984), Ngô Đình Diệm (1901-1963), Ngô Đình Thị Hiệp, Ngô Đình Thị Hoàng, Ngô Đình Nhu (1910-1963), Ngô Đình Cẩn (1912-1964), Ngô Đình Luyện (1914-1990).
Ông được tập ấm lúc còn nhỏ và được triều đình Huế bổ nhiệm vào làm trong Bộ Binh (1910). Được ít lâu ông về làm rể Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài. Ông thăng chức Tổng Đốc Quảng Nam (1930). Con ông là Ngô Đình Huân làm thư ký và thông ngôn cho Yokoyama Masayuki, Viện Trưởng Viện Văn Hóa Nhật Bản tại Sài Gòn. Ngô Đình Khôi về hưu năm 1943.
([14]) kỳ ký 騏驥: Ngựa tốt, ngựa giỏi, tuấn mã. Cao Bá Quát (1809-1855) có câu thơ: Trói chân kỳ ký tra vào rọ… Nghĩa là bậc hào kiệt phải chịu cảnh tù túng, không được tung hoành cho phỉ chí.
([15]) Trong lịch sử Trung Quốc, thời Xuân Thu (770-476 trước Công Nguyên) nối tiếp là thời Chiến Quốc (476-221 TCN).
([16]) ẩu : Từ gọi phụ nữ. Lão ẩu: Bà già. Triệu Ẩu: Bà Triệu.
([17]) Chí sĩ Phan Chu Trinh (1872-1926) hiệu là Tây Hồ.
([18]) Nghị Định số 72 ngày 03-5-1940 của Toàn Quyền Đông Dương Joseph Jules Brévié cấm treo cờ phướn có dấu hiệu chữ Vạn. Các thánh sở Cao Đài thường gắn chữ Vạn hay trên mái, nóc vì thế đều bị liên lụy. Lý do có lịnh cấm này vì trong Thế Chiến thứ Hai (1939-1945), lá cờ Đức Quốc Xã có dấu hiệu chữ Vạn nghiêng . (Cấm Đạo Cao Đài Ở Trung Kỳ, tr. 20.)
([19]) Hiệp Lý Lê Trí Hiển (1879-1944), đắc quả vị thiêng liêng Nhị Đẳng Nhứt Thừa Giám Đàn Thiên Quân, và đã giáng cơ ngày 17-01-1957:
LÊ dân mong được phước hòa bình
TRÍ đức chung phần cứu vạn linh
HIỂN đạt cùng nhau chung thánh huệ
Giáng thăng pháp đạo hiện chơn tình.
([20]) , , , 樂之未發, 謂之中. 發而皆中節, 謂之和. 中也 者, 天下之大本也. 和也者, 天下之達道也. 致中和, 天地位 焉, 萬物育焉. Hỷ, nộ, ai, lạc chi vị phát, vị chi Trung. Phát nhi giai trung tiết, vị chi Hòa. Trung dã giả, thiên hạ chi đại bản dã. Hòa dã giả, thiên hạ chi đạt đạo dã. Trí trung hòa, thiên địa vị yên, vạn vật dục yên. (Trung Dung, chương 1)
([21]) Thuộc Điện Bàn, Quảng Nam.
([22]) Thầy thuốc bắc.
([23]) ma luyện 摩練: Mài giũa, tôi luyện.