Thứ Hai, 24 tháng 10, 2016

ĐĐVU 20 / HỠI DÂN TỘC ĐƯỢC CHỌN! / Thánh giáo

Image result for jesus

Ngọ thời, 23-11 Đinh Mùi (Chủ Nhật 24-12-1967)
Thông công: Bộ phận Hiệp Thiên Đài Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam (CQPTGL).
Pháp đàn: Vô vi. Dâng cơ: Diệu Lý. Đồng tử: Hoàng Mai. Độc giả: Huệ Chơn. Điển ký: Ngọc Kiều, Bạch Tuyết, Hồng Cẩm, Cao Lương Thiện. Tứ bửu: Diệu Long, Diệu Hạnh. Chứng đàn: Chánh Hội Trưởng thánh thất Bàu Sen, Ban Thường Vụ CQPTGL; Chưởng Nghiêm Pháp Quân: Thiện Bảo, Đạt Minh. Hầu đàn: Đạo hữu thánh thất Bàu Sen, đại diện các thánh sở, và nhân viên CQPTGL.
MATTHÊU
Chào chư Thiên mạng nam nữ. Vâng lịnh báo đàn có Thánh Chúa giá lâm. Chào chư liệt vị. Thăng.
Ta đến với một mùa đông đầy gió rét
Để hy sinh cứu rỗi cho nhân loài
Ta lại đến trong cơn lửa bỏng dầu sôi
Để cất tiếng từng hồi gọi đàn chiên lạc lõng
Chúa Cứu Thế muôn đời còn mãi sống
Sống muôn đời và sống mãi muôn đời
Việt Nam ơi! Hồng Lạc ơi!
Đấng Thượng Đế, Đức Cao Đài đang ngự trị.
DA TÔ GIÁO CHỦ - JÉSUS CHRIST ([1])
Ta chào chư ([2]) sứ mạng. Chào chư hiền nam nữ.
Điển lành của Thượng Đế vẫn toàn vẹn nơi lòng chư hiền trên mọi bước đường thế Thiên hoằng đạo.([3]) Miễn lễ. Chư hiền ([4]) an tọa.
Một lần nữa, đông thiên ([5]) lại đến với nhân loài. Tuyết lại rơi, băng giá lạnh lùng, cái rét mướt se da cắt thịt bao trùm cho nhân loại.
Thêm lần nữa, chư hiền kỷ niệm ngày Ta giáng lâm. Khi thái dương bừng sáng, Ta lại đến, đến để hành tròn sứ mạng thiêng liêng.
Hỡi dân tộc được chọn! Hỡi dân tộc được thương yêu!
Này chư hiền nam nữ! Quốc gia này còn tan tác là dân tộc này chưa vừa ý trong sứ mạng của Thượng Đế Chí Tôn.
Một hân hạnh lớn lao! Một hãnh diện to tát! Chư hiền được đem ra từ một dân tộc của một quốc gia trong muôn vàn quốc gia mà Đại Từ Phụ ([6]) điểm nhuận.([7]) Trách vụ cam go chỉ giao cho người chí khí.([8]) Mọi thử thách sẽ định giá cho thành quả của sự vụ mai sau.
Ta nói với chư hiền: Chính sự giày vò của tâm tư, sự nhọc nhằn của thể xác, sự gò ép, sự chết chóc sẽ điểm đạo cho hàng Thiên mạng.([9]) Xem gương Ta đi trước mà mạnh bước vượt qua rừng sầu bể khổ. Ta đã đến với nhơn sinh trong đau khổ lạnh lùng, đem thân mình hòa đồng trong băng tuyết, trong gió rít đêm đông.
Có người đã bảo chư hiền: Không vào tận hang cọp làm sao bắt được hùm con. Ta lại nói: Chỉ có đem mình vào bể khổ mới cứu vớt sự đắm chìm của nhơn loại.
Hãy xem gương Do Thái, lấy đó làm gương cho chư hiền. Không một phần thưởng nào không ban cho đứa khôn ngoan. Không một trách phạt nào không ban cho đứa phản lại ý thành của Bề Trên.
Hỡi chư hiền của dân tộc được chọn! Sứ mạng mà chư hiền được Chí Tôn giao phó, không phải là người vun phân, mà là người gieo giống.([10]) Sự quan trọng không phải những điều kiện khởi phát mà là mầm khởi phát.
Có ai bảo cái hoang phế của mùa đông, cái trơ trọi dưới lớp tuyết dày mà không có sự sống? Hay cái nguy nga rực rỡ, cái đồ sộ của lâu đài mà bảo rằng không có sự tàn tạ suy vi? Đừng thấy cái cháy bỏng của sa mạc mà bảo rằng sau một cơn mưa, bãi cát chết không là đồng cỏ đầy sinh khí.
Kìa, xem quá khứ, hiện tại và tương lai. Có bao giờ Ta ngự trên ngai vàng vua Do Thái. Chính cái ngai vàng David đã vùi chôn về cho David,([11]) mà cái tâm tư của nhơn sinh âu vẫn là ngai vàng bất diệt. Hãy noi gương Ta mà hành tròn sứ mạng.
Điều cần nhứt cho người được mệnh danh là Thiên mạng, không phải chỉ biểu tượng hình thể của Chí Tôn tại bên ngoài, mà chính là phải quyết lòng biểu dương ([12]) Thiên ý vào ở mọi từng lớp nhân sinh. Những cái tạm bợ cũng trả về cho tạm bợ, cái bất diệt đều trả về cho bất diệt.
Tất cả mọi sự ở thế gian đều là một phương tiện, một cứu rỗi vô sanh bất diệt cho nhân sinh. Gieo một giống tốt, dầu sớm hay muộn, hãy chờ ngày gặt hái. Không chú trọng vào cái tạm bợ, nhưng mượn cái tạm để thi hành cứu cánh.([13])
Chư hiền hãy dọn mình cho sẵn. Ngày giờ đến đang sửa soạn đến. Cái sống của mùa xuân đang luân lưu trong mùa đông chết chóc. Trong đêm tối âm u là bình minh dọn đường bừng sáng.
Hỡi dân tộc được hiến dâng! Đừng mê ngủ! Đừng say đắm! Đừng mơ màng trong bóng tối đêm đông! Hãy bừng tỉnh! Hãy đợi chờ ánh xuân quang ([14]) đến khi không ai ngờ đến!
Sứ mạng của kẻ chăn chiên ([15]) trong mùa đông là canh chừng. Phải hiền từ hơn tất cả kẻ hiền từ. Phải khôn ngoan hơn tất cả kẻ khôn ngoan. Cái lạnh lùng nó ru ngủ con người trong mê dại để rồi đi vào cõi chết. Chỉ có những kẻ tỉnh mới thoát khỏi quyến rũ của giá lạnh đêm đông.
Kìa! Đàn sói đói khát đang rình rập chư hiền và đàn chiên trong mọi lối. Hãy cố gắng lên! Lấy sức mạnh của người được đặt để, đem dũng cảm của người dọn đường mà hành đạo.
Chư hiền nên lưu ý: Sứ mạng vẫn là sứ mạng. Kẻ được chọn vẫn là kẻ được chọn. Nên lấy quá khứ để làm đà tiến, đem hiện tại để làm phương tiện, lấy tương lai làm cứu cánh.([16])
Càng bão tố phũ phàng, càng biểu dương tinh thần của kẻ vững lèo vững lái. Sự nhứt tâm trong sứ mạng, sự đoàn kết trong thực hành sẽ giúp chư hiền vượt qua muôn ngàn thử thách. Đừng dại dột phân tranh trên phi cơ khi gió loạn. Ngoại cảnh phũ phàng, nội bộ điên nguy ([17]) sẽ đua nhau nhận chư hiền đắm chìm trong Phong Đô ([18]) hỏa ngục.
Hỡi chư hiền! Hãy thương những người đi trước chư hiền, vì đó mới có vết chân đi trước. Hãy thương những bực đi sau chư hiền, vì đó mới có vết chân đi sau. Nhạc trùng dương không bao giờ dứt, vì mọi làn sóng cứ kế tục theo nhau ngày đêm chẳng cách ngăn rời rạc.
Cuối cùng Ta muốn nói với chư hiền về Thiên mạng vi nhơn,([19]) là hãy làm con chiên khôn ngoan hơn là làm người chăn chiên u tối. Giá rét nào không trở lại mùa đông? Sứ mạng nào không trao cho người đã chọn?
Việt Nam ơi! Hồng Lạc ơi!
Đấng Thượng Đế, Đức Cao Đài đang ngự trị.
Ta chào chư hiền nam nữ được toàn vẹn ân điển trong mọi chư hiền. Hãy nghiêm đàn ([20]) tiếp điển, có chơn linh Tiền Bối Đại Đạo giáng cơ.([21])
Một lần nữa, Ta nhắc chư hiền lưu ý điều này: Rồi đây chư Tiên lâm trần bất hạnh ([22]) sẽ được lần hồi triệu về lãnh lịnh.
Đêm nay Ta ban ơn lành cho tất cả con người nơi thế gian được bằng an và làm sáng danh Ta, danh Đạo trong muôn thuở. Ta cũng giáng khắp nơi và để lời dạy dỗ nhơn sanh, tùy trình độ, tùy hoàn cảnh.
Chào chư sứ mạng. Chào chư hiền nam nữ. Ta trở lại nước Thiên Đàng. Thăng.
PHỤ CHÚ
1. VUA ĐAVÍT
Gia phả Ðức Giêsu Kitô căn cứ vào Phúc Âm chép theo Luca (3:23-38), tóm lược như sau: “Khi Ðức Giêsu khởi sự rao giảng, Người trạc ba mươi tuổi. Thiên hạ vẫn coi Người là con ông Giuse. (…) Nathan con Ðavít. (…) Ađam là con Thiên Chúa.” ([23])
Như vậy, Đức Giêsu thuộc đời thứ 78, tính từ Thủy Tổ là Thượng Đế. Vua Đavít thuộc đời thứ 36.([24])
Image result for david + sling
Đavít sắp phóng đá
Đavít (1037-967 trước Công Nguyên) trị vì nước Giuđa (khoảng 1007-1005 trước CN), và nước Ítxraen (1005-967 trước Công Nguyên). Theo sử sách, vua Đavít chính trực, là chiến sĩ, nhạc sĩ, và nhà thơ. Theo Cựu Ước, Đavít đã đánh bại tên khổng lồ Gôliát bằng dây phóng đá (sling).
2. THÁNH MATTHÊU
Trong đàn cơ tại thánh thất Bàu Sen vào giờ Ngọ, ngày 23-11 Đinh Mùi (Chủ Nhật 24-12-1967), vị báo đàn là Thánh Matthêu.
Sinh thời, Ngài là một trong mười hai sứ đồ của Chúa Giêsu. Trong bốn quyển Phúc Âm hiện hành, quyển đầu tiên do Thánh Matthêu chép, kế tiếp là ba quyển do Thánh Maccô, Thánh Luca, và Thánh Gioan chép.
Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, Thánh Matthêu đã rao giảng Tin Mừng cho dân Do Thái. Ngài tử đạo ở Êthiôpia (châu Phi).
Matthêu tên thật là Lêvi, người Do Thái, làm nghề thu thuế cho đế quốc La Mã. Vì vậy, Lêvi bị đồng bào lạnh nhạt, khinh rẻ.


Một hôm Ðức Giêsu đi ngang qua trạm thu thuế, thấy Matthêu đang ngồi đó, Chúa bảo: “Anh hãy theo tôi!” (Matthêu 9:9; Maccô 2:14). Thế là Matthêu đứng dậy đi theo Chúa.
Khi đến nhà Matthêu ăn cơm, Chúa bị những kẻ đạo đức giả trách cứ tại sao lại ngồi chung bàn ăn uống với bọn thu thuế tội lỗi (Maccô 2:15,16).
Chúa Giêsu đáp: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần.” (Matthêu 9:12; Maccô 2:17)
Lời Chúa dạy như trên khiến ta nhớ lời Đức Khổng Tử (tức Khổng Khâu) dạy trong Nhị Kỳ Phổ Độ:
“Nếu thiên hạ có đạo lý thì Khâu này cần gì phải sửa đổi nữa.” ([25])
Trong Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế (Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát) dạy:
“Các con ơi! Nếu thế gian này là cõi toàn thiện thì Thầy không đến đây mở Đạo làm gì. Các con thử nghĩ: Nếu nhơn sanh không bị thiên tai hạn hán, bão lụt chiến tranh tàn phá, hỏa hoạn thiêu đốt, thì họ đâu cần chi tới đoàn người cứu trợ ủy lạo. Nếu nhơn sanh không đau ốm bịnh tật thì họ đâu cần gì đến đoàn bác sĩ lương y. Nếu nhơn sanh học giỏi, văn hay chữ tốt thì họ đâu cần gì đến đoàn người giáo dục mở lớp khai trường. Nếu nhơn sanh thuần chơn đạo đức, không đi trong hố sâu tội lỗi, khổ sở tinh thần thì họ đâu cần gì đến đoàn người hướng đạo đem giáo lý đến cho họ.”.([26])
Đức Giáo Tông Vô Vi Lý Thái Bạch diễn bày rất gọn chân lý này:
Có sông mới đóng ra thuyền
Có người tội lỗi mới truyền pháp tu.([27])
HUỆ KHẢI




Hu Khải chú thích:
([1]) Da Tô: Người Trung Quốc chuyển chữ (transliterating) Iesus từ tiếng La Tinh là 耶穌; người Việt đọc là Da Tô, gọi đạo Chúa là Da Tô Giáo 耶穌教. Da cũng được viết là Gia. Chữ Da cùng ý nghĩa như Gia là cha (father). Hai cách viết Da Tô (Giáo) 耶穌() và Gia Tô (Giáo) 爺穌() đều được người Hoa dùng. Christ nghĩa là Đấng Cứu Thế (Savior).
([2]) chư : Tiếng chỉ số nhiều. C sứ mạng: Các vị có sứ mạng. chư Thánh: Các vị Thánh.
([3]) thế Thiên hoằng đạo 替天弘道: Thay Trời mở mang đạo lý.
([4]) hiền : [a] [danh từ] Người có đức hạnh, tài năng (worthy). Thí dụ: Tuyển hiền dữ năng 選賢與能 (chọn người đức hạnh và tài năng). [b] [đại từ] Tiếng trọng kính gọi người trước mặt (ngôi thứ hai), thay vì gọi ông / ngài. Trong thánh giáo, thay vì gọi chư hiền đệ, hiền muội, Ơn Trên gọi chư hiền (you all).
([5]) đông thiên 冬天: Mùa đông.
([6]) Đại Từ Phụ 大慈父: Người cha rất hiền. Tức là Đức Chí Tôn, Đức Cao Đài Thượng Đế (the Great Merciful Father).
([7]) điểm : Chọn lựa (to choose). nhuận : Làm cho tốt đẹp (to beautify).
([8]) chí khí: Có chí lớn và không chịu khuất phục trước mọi chướng ngại, bạo lực, cường quyền (unyielding will).
([9]) Thiên mạng (mệnh) 天命: Bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó.
([10]) Sứ mạng mà chư hiền được Chí Tôn giao phó, không phải là người vun phân, mà là người gieo giống.: Như vậy, phải chăng sau này đạo Cao Đài sẽ được dưỡng nuôi và phát triển (vun phân) là nhờ các dân tộc khác?
([11]) Xem Phụ chú 1 cuối bài thánh giáo này.
([12]) biểu dương 表揚: Bày tỏ ra cho mọi người thấy (to show).
([13]) cứu cánh 究竟: Cứu là sau cùng; cánh là xong tất, hoàn thành. [a] Sự thành tựu sau rốt, kết quả trọn vẹn (outcome, result). [b] Mục đích cuối cùng (final aim). [c] Người Trung Quốc dịch ba la mật đa 波羅蜜多 (paramita) sang chữ Hán là đáo bỉ ngạn 到彼岸 (sang bờ bên kia, qua bờ giác), cũng dịch là cứu cánh 究竟. Thế nên cứu cánh còn có nghĩa là cứu độ, cứu rỗi, giải thoát luân hồi sanh tử (free from samsara).
([14]) ánh xuân quang 春光: Ánh sáng mùa xuân. Câu “Hãy đợi chờ ánh xuân quang đến khi không ai ngờ đến!” nhắc chúng ta nhớ tới Phúc Âm: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. / The day of the Lord will come like a thief in the night.” (1 Thêxalônica, 5:1)
([15]) chiên: [a] Con cừu (sheep). [b] Tín đồ (adherents). Chăn chiên: Chăn cừu; coi sóc tín đồ.
([16]) cứu cánh 究竟: Mục đích cuối cùng (final aim).
([17]) điên nguy 顚危: Nghiêng đổ, nguy khốn.
([18]) Phong Đô 豐都: Một tên gọi cõi địa ngục (hell).
([19]) Thiên mạng vi nhơn: Trời giao cho sứ mạng làm người.
([20]) nghiêm đàn: Giữ cho đàn cầu cơ trang nghiêm, thanh tịnh.
([21]) Tiếp theo Đức Giêsu có Đức Bạch Liên Tiên Trưởng (thế danh Phan Thanh) giáng cơ dạy đạo.
([22]) chư Tiên lâm trần bất hạnh: Các bậc hướng đạo xưa kia vốn là Tiên trên thượng giới, sau khi lãnh Thiên mệnh xuống trần mà lại không làm tròn phận sự, không làm đúng ý Trời.
([23]) Kinh Thánh. (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2011.)
([24]) Căn cứ theo Luca (3:23-38), phả hệ Đức Giêsu như sau: [1] Thiên Chúa; [2] Ađam; [3] Sết; [4] Enốt; [5] Kênnan; [6] Mahalanên; [7] Gierét; [8] Khanốc; [9] Mơthuselác; [10] Laméc; [11] Nôê; [12] Sêm; [13] Ácpắcsát; [14] Kênan; [15] Selác; [16] Êve; [17] Peléc; [18] Rơu; [19] Xơrúc; [20] Nakho; [21] Terác; [22] Ápraham; [23] Ixaác; [24] Giacóp; [25] Giuđa; [26] Perét; [27] Khétrôn; [28] Ácni; [29] Átmin; [30] Amminađáp; [31] Nácsôn; [32] Xanmôn; [33] Bôát; [34] Ôvết; [35] Giesê; [36] Ðavít; [37] Nathan; [38] Máttátta; [39] Mina; [40] Malia; [41] Engiakim; [42] Giônam; [43] Giôxép; [44] Giuđa; [45] Simêôn; [46] Lêvi; [47] Máttát; [48] Giôrim; [49] Êliede; [50] Giêsu; [51] E; [52] Enmơđam; [53] Côxam; [54] Átđi; [55] Manki; [56] Nêri; [57] Santiên; [58] Dơrúpbaven; [59] Rêsa; [60] Giôkhanan; [61] Giôđa; [62] Giôxếch; [63] Simy; [64] Máttít-gia; [65] Makhát; [66] Nácgai; [67] Khétli; [68] Nakhum; [69] Amốt; [70] Máttítgia; [71] Giôxép; [72] Giannai; [73] Manki; [74] Lêvi; [75] Máttát; [76] Êli; [77] Giuse; [78] Giêsu.
([25]) Thiên hạ hữu đạo, Khâu bất dữ dịch dã. 天下有道, 丘不與 易也. (Luận Ngữ, 18:6)
([26]) Thiên Nguyệt Lâm Huyền Châu (Hội Thánh Hậu Giang Minh Chơn Đạo), ngày 14-7 Kỷ Dậu (26-8-1969).
([27]) Thánh thất Từ Quang (Điện Bàn, Quảng Nam), ngày 09-01 Mậu Tý (18-02-1948).