Tín, Nguyện, Hạnh nguyên thủy là một yếu điểm của giáo lý
Phật Giáo Tịnh Độ Tông. Đức Phật Thích Ca trong thời gian hoằng pháp đã có lần
thuyết kinh A Di Đà cho đại chúng. Theo lời Đức Thích Ca, ai phát tâm trì niệm
danh hiệu Phật A Di Đà không xao lãng từ một ngày trở lên thì lúc lâm chung sẽ
được Phật A Di Đà rước về nước Cực Lạc của Ngài. Cõi cực lạc của Phật A Di Đà
nằm về phương Tây, cách cõi ta bà của chúng ta mười vạn ức cõi Phật. Đó là một
cõi thanh tịnh trang nghiêm; nhà đất, cây cối, tất cả đều là châu báu. Lại có
tiếng chim ca ngâm những bài thuyết pháp.
Về sau, pháp môn niệm Phật A Di Đà rất thịnh hành và đã hình
thành nên Tịnh Độ Tông là tông phái của những người chuyên trì niệm danh hiệu
Phật A Di Đà với nguyện ước được vãng sanh về cõi cực lạc thế giới của Ngài.[1]
Tuy nhiên, để được vãng
sanh về cõi Cực Lạc của Phật A Di Đà, người tu theo pháp môn Tịnh Độ phải có đủ
ba thứ tư lương [2] là Tín, Nguyện, và Hạnh. Nếu không có đủ ba món này thì chắc chắn sẽ không
thế nào đến được cõi cực lạc của Phật A Di Đà.
Vậy, Tín, Nguyện, Hạnh là gì? Theo giáo lý Tịnh Độ Tông: Tín là lòng tin gồm có sáu điều là tin ở
mình, tin ở sự trợ giúp của tha lực, tin nhơn, tin quả, tin sự, tin lý. Nguyện là ý nguyện hành giả muốn đạt
đến. Hạnh (hành) là thực hành chuyên
cần, thâm sâu.[3]
Ngày nay, trong Tam Kỳ Phổ Độ, qua phương tiện cơ bút, Đức Hà
Tiên Cô đã giáng đàn dạy rằng Tín, Nguyện, Hạnh là ba yếu tố căn bản không thể
thiếu đối với người tu thiên đạo đại thừa (người cầu tu giải thoát luân hồi
sanh tử, tự độ và độ tha).
Trong một khóa tu tịnh tại Bác Nhã Tịnh Đường (Long Hải), Đức
Hà Tiên Cô dạy về Tín, Nguyện, Hạnh như sau:
Đợt tịnh này, Bản Nương
cũng đồng ý ai nấy cần học lại bước đầu Dự Bị, đắp nên nền móng cho kiên cố
vững bền. Nếu nền tảng không vững chắc thì lâu đài có xây cất cũng bị đổ vỡ.
Nên Bản Nương muốn cho mỗi người tu kỷ lập công, cởi mở lòng mình, đừng để hẹp
hòi bó buộc.
Phải giữ sao cho trọn ba
điều là TÍN, NGUYỆN, HẠNH.
TÍN. Phải có lòng tin vững chắc:
1. Tin sức mình có đủ,
dầu khó khăn cũng vượt qua đến chỗ đến nơi.
Xưa nay, tự tin vẫn được xem là bí quyết của mọi sự thành
công trên đời. Vị tổng thống thứ hai mươi sáu của nước Mỹ là Theodore Roosevelt
(1858-1919) nói: “Hãy tin rằng bạn có thể
làm được và thế là bạn đã đi được nửa con đường.” [4]
Một tướng quân Nhật tên là Nobunaga quyết định tấn công phe
địch. Mặc dù chỉ có một phần mười số người mà cuộc chiến đòi hỏi, Nobunaga tin
rằng ông sẽ thắng, nhưng quân lính của ông thấy lực lượng của mình quá ít thì
đâm ra lo ngại, thiếu tự tin.
Trên đường chuyển quân, Nobunaga dừng lại ở một ngôi đền Thần
Đạo (là tôn giáo cổ truyền của người Nhật) và bảo lính tráng: “Vào đền thờ, ta
sẽ dùng đồng tiền xin keo gieo một quẻ. Nếu mặt phải ngửa lên, chúng ta sẽ
thắng, nếu mặt trái ngửa lên, chúng ta sẽ bại. Số phận chúng ta nằm trong bàn
tay định mệnh.”
Nobunaga vào đền thờ im lặng cầu nguyện. Rồi ông tung đồng
tiền lên. Mặt phải ngửa lên. Lính ông hăng hái chiến đấu và họ thắng trận.
Sau trận chiến, một người hầu cận nói với Nobunaga: “Không ai
thay đổi được bàn tay định mệnh.”
Nobunaga đáp: “Thật sự không phải thế.”
Ông liền đưa đồng tiền ra. Hai mặt đồng tiền đều giống y như
nhau. Có lẽ tướng quân đã kín đáo cho đúc riêng một đồng tiền đặc biệt để làm
liệu pháp tâm lý.[5]
Câu chuyện trên đây đã cho thấy giá trị của niềm tự tin đối
với sự thành công của con người.
Trong việc tu hành cũng thế, người tu cũng cần phải tự tin
rằng mình có khả năng tu thành Thần Thánh, Tiên Phật. Đức Lê Đại Tiên dạy:
Phật là đại giác siêu
sanh
Vợ chồng Mã Ngọc và Tôn Uyên Trinh cùng tu đắc đạo thành Tiên
trong nhóm Toàn Chân Thất Tử. Thoạt đầu, khi nghe vợ khuyên phải tìm minh sư
học đạo thì ông Mã Ngọc trả lời: “Người tu đạo phải có căn tu, nếu không có căn
tu thì không thành Tiên, cũng chẳng thành Phật. Cho nên tôi tự xét căn tu mình
còn nông cạn, không dám nói hai chữ tu đạo.” Bà Tôn Uyên Trinh nói: “Lời ông
sai rồi. Làm người trên đời, ai cũng đều có căn. Nếu không căn sao được làm
người? Nhưng căn cơ mỗi người khác nhau.”
Đức Quan Thánh Đế Quân dạy:
Có căn mới được kiếp con
người
Phải biết mà tu chớ dể
ngươi
Kẻo trở lại đời trong
thoái hóa
Bà Tôn Uyên Trinh còn nói thêm với ông Mã Ngọc rằng căn cơ
không phải là cái bẩm sinh cố định mà có thể tăng bổ, chẳng khác nào ngọn núi,
càng đắp càng lớn, càng đắp càng cao. Chẳng hạn như người phú quý so với người
tầm thường thì căn cơ sâu dày hơn là do kiếp trước đã biết làm công quả giúp
đời. Nếu kiếp này họ biết tiếp tục làm chuyện ích người lợi vật thì căn cơ còn
sâu dày hơn nữa, muốn thành Tiên thành Phật hay thành Thánh Hiền đều có thể
được.[8]
Mỗi người đều có hạt giống căn lành trong tâm mình, đó là
Phật tính, Thượng Đế tính trong mỗi con người. Thế nên, ai cũng có thể tu thành
Phật, chỉ khác nhau ở chỗ tu tiến nhanh hay chậm, dễ dàng hay khó khăn là do
mỗi người có biết tự bồi đắp thêm căn lành cho mình hay không và có quyết tâm
vượt qua khó khăn gian khổ để tu hành tinh tấn hay không mà thôi.
Thánh Augustine (354-430) nói: “Không có vị Thánh nào mà không có quá khứ, không có tội nhân nào không
có tương lai.” [9]
Câu nói này đã được minh chứng qua tích Thập Bát La Hán trong
truyện cổ Phật Giáo kể về mười tám tên ăn cướp bỏ vũ khí, ăn năn tu hành, đều
đắc quả La Hán.
Do đó, điều căn bản đầu tiên đối với người tu là phải tin
rằng mình có khả năng tu thành Phật, tin mình có thể vượt qua mọi khó khăn gian
khổ để đắc thành đạo quả, chứ đừng tự ti mặc cảm cho rằng mình không có căn tu
hay nhiều tội lỗi không thể tu thành chánh quả.
Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Luật Trời mầu nhiệm lắm
ai ơi
Một kiếp vi nhơn quý một
đời
Linh tánh khôn ngoan hơn
vạn vật
2. Tin chung quanh còn
được bao nhiêu trợ duyên gia hộ, Thần Thánh dắt dìu.
Người tu thường được gia đình, đồng đạo trợ giúp và tiếp nhận
được tình cảm quý trọng cùng sự giúp đỡ của mọi người trong xã hội. Đặc biệt,
người chơn tu luôn được các Đấng thiêng liêng hộ trì trợ giúp đêm ngày.
Truyện Thất Chân Nhân
Quả (hồi thứ 11) kể rằng sau khi tự hủy hoại nhan sắc và giả bộ khùng điên,
bà Tôn Bất Nhị đi đến thành Lạc Dương và nương thân trong một lò gạch bỏ hoang
để tu luyện. Ấy thế mà vẫn có những tên côn đồ rắp tâm hãm hại bà. Tuy nhiên,
khi bọn chúng vừa đến gần lò gạch nơi bà trú thân để tu luyện thì liền bị chư
Thiên hộ pháp hóa ra một trận cuồng phong, rồi sau đó là mưa đá đổ xuống đánh
cho chúng một trận tơi bời, làm chúng phải bỏ chạy té lên té xuống, đầu u trán
sứt, máu me đằm đìa. Kể từ hôm ấy không một kẻ xấu nào dám bén mảng đến lò gạch
khuấy phá việc tu luyện của bà Tôn Bất Nhị nữa.
Trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, nhờ cơ bút mà chúng ta biết được
rằng các Đấng thiêng liêng luôn âm phò mặc trợ cho người tu, nhất là các bậc
Thiên ân sứ mạng hành đạo độ đời.
Một vị đạo trưởng thuở còn trẻ thường đi thuyết đạo buổi tối
ở các tỉnh miền Nam
sau giờ làm việc hành chánh và trở về Sài Gòn ngay trong đêm và chở thêm một
vài bạn đạo. Do làm việc nhiều, mệt mỏi nên có một đêm ông đã ngủ gục và mọi
người trên xe hoảng vía khi thấy xe từng chập cứ lên đường xuống ruộng. Tuy
nhiên, mọi người không hề hấn gì. Vài ngày sau, ông Địa giáng đàn cho biết
chính Ngài đã lái xe giùm đêm ấy.[11]
Năm 1964, một số vị tiền bối của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý
(lúc bấy giờ còn là Ban Phổ Thông Giáo Lý Liên Quan Hành Đạo) được lệnh Ơn Trên
đi hành đạo tại miền Trung. Sau chuyến trung du hành đạo ấy, Đức Giáo Tông Vô
Vi Đại Đạo và Đức Đông Phương Chưởng Quản đã giáng đàn chủ tọa buổi kiểm thảo
chuyến đi để chư Thần tường trình chi tiết từ đầu đến cuối. Nhờ thánh giáo đó,
chúng ta mới biết được rằng trong suốt cuộc hành trình, đi đến đâu quý vị cũng
được các đấng Sơn Thần trấn nhậm từng địa phương theo sát hộ trì.[12]
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo dạy:
Đừng e chẳng huyền vi tế
độ
Chỉ e mình thiếu chỗ đức
tin
Đừng lo chẳng có Thần linh
3. Tin có Trời là chủ nhơn ông cầm quyền Tạo Hóa.
Nghĩa là tin có Đấng Tạo
Hóa chí linh cầm cân công bình, có luật Thiên điều thưởng phạt phân minh để
người tu phải cố gắng làm được như lời Đức Mẹ dạy:
Sống sao người đặng nên Người
Đức Giáo Tông Đại Đạo
Thái Bạch Kim Tinh dạy:
Chỉ cần chánh tâm hành chánh đạo, xả thân giúp đời theo lòng Tạo Hóa,
hòa hiệp với thiên nhiên. Sự gì sắp đến sẽ đến, mọi việc sẽ an bài, dầu mình
không tự lo tư hữu, cũng có Tạo Hóa an bài cho, được sanh trong vòng trưởng
dưỡng và bảo tồn theo định luật vũ trụ.[15]
4. Tin có luật báo ứng, gieo nhân gặt quả. Nên
cố làm, làm cầu thanh phước [16] tiêu giải oan trái tiền khiên.[17] Biết mình từ vô thỉ ([18]) đến nay tạo lấy tội lỗi hằng hà,[19] chác thù kết oán cùng kẻ sống và
người chết chưa sao giải được, nên thân này chồng chất vô minh, oan oan trái
trái theo hoài.
Nếu muốn giải thoát suôn sẻ đâu phải dễ dàng. Giết một con thú, làm một
việc bất lương cũng đủ ngăn ngại cho ta lúc lên đường, họ xúm nhau mà cản trở.
Phương chi mỗi người, dầu ít dầu nhiều, cũng kết buộc oan gia với ngạ quỷ, với
súc sanh, với tình ái ân trong gia đình, xã hội.
Nên phải nhờ tha lực Phật Trời âm phò mặc hộ, luôn luôn lân mẫn dắt dìu,
ám trợ đường tu. Nhờ thầy sáng bạn lành nương nhau mà giải thoát. Nhờ tâm
thường thiết tha cổi bỏ oán thù, phát tâm sám hối gội sạch tiền khiên.[20]
Đức Chí Tôn dạy:
Mỗi hành vi của các con dù tốt hay xấu cũng đem lại một kết quả. Sự nhân
quả nó liên lạc chặt chẽ nhau, từ cõi vô hình đến cõi hữu hình hiện tại của đời
các con. Nhân quả nó theo dõi các con từ kiếp trước sang kiếp này rồi đến kiếp
khác.[21]
Thật vậy, luật nhân quả
rất đáng sợ. Sợi dây oan trái của nhân quả buộc ràng con người từ kiếp này sang
kiếp khác. Thậm chí các bậc đã tu hành đắc quả vẫn còn bị luật nhân quả tác
động đến.
Có lần Đức Phật Thích Ca
Mâu Ni cùng với rất nhiều đệ tử đi đến một nước nọ. Dân nước này thấy Phật liền
đóng cửa lại, không ai chịu bố thí, cũng không ai đến cung kính chào hỏi. Nhưng
khi ngài Mục Kiền Liên đến thì cả quốc vương, đại thần và dân chúng đều hướng
về Ngài cung kính đảnh lễ, tranh nhau đến cúng dường. Các đệ tử Phật thấy thế
bèn hỏi Phật: “Tại sao Phật đến nước này không ai chịu cúng dường cả, mà Ma Ha
Mục Kiền Liên, đệ tử Phật, đi đến đây lại được mọi người tranh nhau cúng
dường?” Phật đáp: “Đó là do nhơn duyên đời trước.” Rồi Phật kể:
Từ vô lượng kiếp về
trước, tiền thân Mục Kiền Liên cùng tiền thân Đức Phật [22] ở chung một chỗ. Tiền thân Mục Kiền Liên lên núi đốn củi, còn tiền thân
Đức Phật xuống dưới núi sửa đường. Tiền thân Phật không thích bầy ong, thường
lấy khói hun đốt chúng. Trái lại, tiền thân Mục Kiền Liên rất thích chúng. Tuy
bị chúng đốt đau nhức nhưng tiền thân Mục Kiền Liên không dùng lửa hun đốt,
trái lại còn phát nguyện: “Về sau tôi đắc đạo, trước hết sẽ độ bầy ong có nhiều
tánh tu-la này.”
Sau rất nhiều kiếp, bầy
ong ấy biến thành dân chúng trong một nước; ong chúa là vua, các ong thợ là
dân. Ngày xưa tiền thân Đức Phật dùng khói hun đốt chúng, nên bây giờ Phật đến
nước ấy không có ai ra đón tiếp; quốc vương, đại thần, nhơn dân cũng không cúng
dường Ngài. Trái lại, tiền thân Mục Kiền Liên đã có phát nguyện sau khi đắc đạo
sẽ độ bầy ong này, cho nên khi gặp lại nhau thì quốc vương và quan dân nước ấy
tranh nhau đến cúng dường. Do đây chúng ta biết rằng nhơn quả rất hệ trọng.[23]
Những sợi dây nhân quả
chằng chịt từ bao kiếp trước buộc trói con người vào vòng luân hồi sinh tử và
là nguyên nhân trì kéo, cản trở bước đường tu tiến của hành giả. Do đó, nghiệp
lực càng nặng, càng khó tu tiến. Vì thế, người tu cần phải nỗ lực giải trừ
nghiệp quả tiền khiên và cố gắng không gây tạo thêm nghiệp mới. Người đi vay
tiền biết rõ mình mắc nợ bao nhiêu và ráng kiếm đúng bấy nhiêu tiền để trả lại.
Nhưng con người đã gây tạo bao nhiêu nghiệp chướng trái oan từ vô lượng kiếp,
làm sao con người biết được!?
Do đó, người cầu tu giải
thoát cần phải làm cho thật nhiều công đức (nhiều đến mức tối đa) mới có thể hy
vọng trả hết những món nợ tiền khiên mà mình đã vay, vì nào ai biết được mình
đã vay bao nhiêu oan trái!?
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư
khuyên nhủ:
Một kiếp ráng tu giải nghiệp trần
Từ bao kiếp trước đã gieo nhân
Trong ngoài vẹn giữ cho tinh tấn
Đức Hà Tiên Cô đã chỉ cho
người tu các phương cách để tháo gỡ những mối dây oan trái cột trói mình và
giải trừ những nghiệp quả tiền khiên để đường tu được nhẹ nhàng:
1.
Nên cố làm, làm [để] cầu thanh phước tiêu
giải oan trái tiền khiên.
Làm để cầu thanh phước
tức là làm nhiều công quả âm chất để giải trừ nghiệp quả.
Trong số bảy vị của nhóm
Toàn Chân Thất Tử, chúng ta thấy ông Khưu Trường Xuân tu hành vất vả nhất vì
nghiệp chướng nặng nề. Chẳng biết trong tiền kiếp ông gây nên tội nghiệp gì mà
khi đến xin học đạo với Vương Trùng Dương thì bị Vương tổ sư từ chối không chịu
nhận ông làm đệ tử. Một trong các đệ tử là Mã Đơn Dương thương tình nài xin giùm
thì Vương tổ sư bảo: “Chẳng phải ta không nhận hắn, nhưng mà gốc khổ của
hắn rất nặng, sợ sau này hắn không vượt qua được nạn ma, thì hắn thối
chí nản lòng. Chi bằng đừng nhận hắn thì hơn.”
Quả thật, quá trình tu
hành của Khưu Trường Xuân đã gặp phải bao nhiêu là ma chướng và phải chịu
nghiệp đói. Tuy nhiên, ông quyết chí tu hành và tích cực làm công quả để giải
trừ nghiệp chướng.
Một ngày nọ ông đi đến
một nơi có con suối băng ngang đường lộ. Nước suối lớn mà không có cầu,
tuy nhiên lòng suối cạn ghe xuồng lại không qua được, chỉ có thể lội
qua mà thôi. Khách đi đường nhiều người không dám lội qua.
Khưu Trường Xuân phát tâm
dừng chân nơi đây để làm công quả. Ai không biết lội thì ông cõng qua.
Người hảo tâm rộng rãi thì cho ông vài đồng mua thức ăn qua ngày. Có
nhiều người ông cõng qua nhưng chẳng lấy xu nào.
Đến mùa nước rút cạn
thì ông đi xin ăn. Sáng xin bảy nhà, chiều xin tám nhà. Xin được rồi,
nếu gặp ai đói lạnh, thì ông cho họ ăn, còn mình chịu đói. Nếu ngày
nào mưa giăng tuyết đổ, không đi xin ăn được, thì ngày đó không ăn.
Trước sau vài năm ông bị đói hơn trăm lần. Đói lớn bảy mươi hai lần,
đói nhỏ vô số kể.[25]
Ông Khưu Trường Xuân khổ
công tu hành như vậy được sáu năm, gặp biết bao gian khổ, kể sao cho
hết. Ngày làm công quả, đêm trú miếu lạnh, lúc rảnh việc thì tĩnh
tọa, công phu. Nhờ thế mà giải trừ lần lần nghiệp chướng tiền khiên và cuối
cùng cũng đắc thành đạo quả.
Đức Di Lạc Thiên Tôn dạy
người tu phương cách giải trừ bớt các nghiệp thân, khẩu, ý, nhãn, nhĩ - những nghiệp chướng con người thường hay mắc phải:
Sự lễ bái cúng lạy quỳ mọp ngoài ý nghĩa trịnh trọng thi lễ với Phật
Trời, lại còn có ý nghĩa câu thúc thân mình trong sự khó khăn để trừ bớt nghiệp thân.
Tịnh khẩu hoặc niệm Phật tụng kinh để trừ bớt nghiệp khẩu.
Nhắm mắt tham thiền hoặc ngó ngay vào tượng Phật hoặc ngọn nhang hay
ngọn đèn lưu ly là để trừ lần nghiệp
nhãn.
Tham thiền định ý khép chặt không tư tưởng suy nghĩ vẩn vơ phóng túng để
trừ lần nghiệp ý.
Thiền định không chấp nhận mọi tiếng động vào tai để trừ lần nghiệp nhĩ.
Tóm lại, tất cả những điều ấy là những phương pháp trợ cho người tu hành
được yên ổn trả dứt nghiệp cũ, không gây nghiệp mới và tạo thêm âm chất để làm
vốn liếng sản nghiệp vô hình cho kiếp lai sanh hoặc cho ở bên kia thế giới.[26]
2. Nhờ tha lực Phật Trời âm phò mặc hộ, lân mẫn dắt dìu, ám trợ đường
tu. Nghĩa là hành giả cần phải thường xuyên
cầu nguyện. Việc cầu nguyện hay niệm danh các Đấng thiêng liêng chẳng khác nào làm
một cuộc gọi điện thoại. Phải nhấc máy, quay số thì đầu dây bên kia mới có
người trả lời. Thật vậy, có cảm mới có ứng. Người tu phải thường xuyên thông
công cùng các Đấng để nhận được sự ban ơn hộ trì của Thiêng Liêng hầu có thể
vượt qua những chướng ngại cản trở trên đường tu do nghiệp chướng kéo trì.
Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Nên nhớ rằng, mỗi một người tu hành trong lúc này đều có một bậc Chơn
Linh hoặc Thiêng Liêng âm phò mặc trợ. Mỗi ngày nên tưởng niệm để nhắc nhở tâm
thức, liên lạc thông công với phần Thiêng Liêng hộ trì. Nếu để trống không, Bần
Sĩ e khó tránh khỏi những tà quái ngạ quỷ giựt giành. Hãy nhớ câu truyền khẩu
từ xưa rằng: Buổi hạ nguơn mạt kiếp, hễ con Phật, Phật rước; con ma, ma dẫn.[27]
3. Nhờ thầy sáng bạn lành nương nhau mà giải thoát.
Một trong những điều may
mắn nhất của người tu là gặp được thầy sáng bạn lành, tức là gặp được minh sư
dẫn dắt mình đi đúng chánh pháp và có những người đồng tu đức hạnh trợ giúp.
4. Nhờ tâm thường thiết tha cổi bỏ oán thù, phát tâm sám hối gội sạch
tiền khiên.
Một trong những phương
pháp giúp cho người tu được nhẹ nhàng thăng tiến trên đường tu chính là thường
xuyên quán xét tâm mình và thành tâm sám hối những lỗi lầm mà mình đã gây tạo.
Đức Tề Thiên Đại Thánh
dạy:
Sám hối được thì nghiệp chướng có thể giải được một phần ba, còn không
thì nặng nề, tu không tiến, học không thông, hành đạo bị trở ngại. Buộc phải
sám hối vì ai mà khỏi lỗi…
Chính vì thế mà trong đạo
Cao Đài, nhiều thánh thất thánh tịnh đều tổ chức tụng kinh Sám Hối hai ngày mỗi
tháng vào buổi tối trước hai ngày sóc vọng.
NGUYỆN. Lòng tin mãnh liệt mà phát ra nguyện lực rộng lớn như Quan Âm
Bồ Tát, Địa Tạng Bồ Tát, Đức Phật Di Đà:
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học,
Phật Đạo vô thượng thệ nguyện thành,
Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
Được vậy thì cảm động trời đất, cảm động chư Thiên, Bồ Tát. Họ sẽ giúp
ta mọi mặt để tác thành quyền pháp. Minh sư sẽ gặp, chỉ một lời là đắc đạo
thành Tiên.
Sau khi đã có lòng tin
thì điều tiếp theo là người tu cần phải lập nguyện để tinh tấn tu hành.
Trong Tứ Đại Điều Quy Giảng Nghĩa, tiền bối
Nguyễn Minh Thiện (1897-1972) [28] viết về sự cần thiết phải lập nguyện như sau:
“Thử xem các vị Phật Tiên thuở trước có ai không nhờ thệ nguyện mà đặng
thành chăng? Cho nên người tu trước phải thệ nguyện làm tin, rồi sau mới vững
lòng mà hành đạo.
Trong kinh có câu: Vô nguyện bất thành Phật dữ Tiên, Phật Tiên vô nguyện
bất điều hiền, nghĩa là người không lập nguyện chẳng thành Phật Tiên, còn Phật
Tiên cũng chẳng độ người không lập nguyện. Lời này đủ chứng tỏ sự thệ nguyện là
quý trọng dường nào.”
Thật vậy, các Đấng Phật
Tiên xưa nay đều lập đại nguyện.
Một trong bốn mươi tám
lời đại nguyện của Đức Phật A Di Đà như sau:
Lúc tôi thành Phật, nếu trong cõi nước tôi có địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh thì tôi không ở ngôi chánh giác.
Hai trong số mười hai lời
đại nguyện của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát như sau:
- Nguyện rằng chúng sanh ở cõi ta bà hay cõi u minh mà có lời cầu nguyện
thì sẽ đến nơi để tận độ.
- Nguyện ngày đêm tuần du khắp chốn, đến cả cõi địa ngục, ngạ quỷ, súc
sanh để độ rỗi chúng sanh khỏi vòng tổn hại.
Sang Tam Kỳ Phổ Độ, khi
Đức Chí Tôn rời Bạch Ngọc Kinh xuống trần lập đạo Cao Đài, Thầy cũng lập đại
nguyện:
Nếu các con chẳng chịu tu hành, không bỏ dữ làm lành, Đạo không
thành, Thầy nguyện không trở về ngôi
vị cũ.[29]
Muôn kiếp các con chịu lạc đường
Thấy vầy Thầy luống động lòng thương
Nên đoan thệ với hàng Tiên Phật
Lời đại nguyện của các
Đấng thật là cao cả, vĩ đại. Riêng đối với người tu chúng ta, trong cuộc sống
tu hành thường nhật, chúng ta quán xét xem mình còn phạm những khuyết điểm sai
lầm gì thì nên lập nguyện khắc phục những lỗi lầm ấy để giúp cho bản thân tu
hành tinh tấn, bởi lẽ nếu không lập nguyện thì sẽ không có cố gắng và quyết
tâm.
Chẳng hạn như ông Khưu
Trường Xuân lúc bắt đầu tu hành, đã lập vài lời thệ nguyện, làm thành bài
thơ viết trên tấm gỗ như sau:
Niệm quấy muốn trừ, mãi chửa thành
Nay trên tấm gỗ viết rành rành
Vọng ngôn quấy ngữ đều trừ hết
Vọng tưởng quấy tham quét sạch sanh
Nhận quấy bạc tiền: tay đứt đoạn
Miệng ham ăn uống: loét không lành
Bên mình mọi việc luôn xem xét
Nếu không lập nguyện thì
hành giả dễ mắc phải chứng bệnh giải đãi, biếng lười nên tu hành bê trễ, không
tinh tấn siêng năng. Đức Phật Thích Ca ngày xưa khi ngồi tĩnh tọa dưới cội cây bồ
đề đã nguyện rằng nếu không đắc thành chánh quả thì nhứt định không đứng dậy.
Và như lời Đức Hà Tiên Cô
dạy, người tu có lập nguyện và khổ công tu hành để thực hiện cho tròn lời
nguyện thì sẽ làm cảm động trời đất, cảm động chư Thiên, Bồ Tát, sẽ được các
Ngài giúp đỡ mọi mặt để tác thành quyền pháp.
HẠNH.
Nếu niềm tin kiên cố, nguyện lực sâu dày, mà còn giới hạnh đủ đầy, tạo cho hành
giả một quyền năng, đủ oai nghi hạnh đức, quỷ phục thần khâm.[32]
Giới quy [33] để làm ranh hạn chế tâm tà. Giới
quy để tô tạo cho con người trở nên thánh khiết. Giới có giữ trọn thì định mới
sanh. Nhờ giới kềm chế vọng tâm, tiêu trừ chướng nghiệp,[34] tạo nên công đức thù thắng,[35] đặng quả chơn định [36] mà trí huệ sinh ra. Trí
huệ có rồi thì trời đất với ta là một.
Đây là Phật. Đây là tự do, huyền năng ghê gớm, hàng phục [37] chúng ma.[38] Vạn hạnh đủ khiến cho chúng sanh
tỉnh ngộ hồi đầu, an ủi nỗi khổ đau cho muôn loài vạn vật.
Ấy là TÍN, NGUYỆN, HẠNH.
Kinh sách xưa nay vẫn
thường dạy rằng: “Đức trọng quỷ thần khâm” nghĩa là người có đức hạnh tròn đầy
sẽ phát lộ ra một dáng vẻ oai nghi khiến cho ma quỷ phải kiêng sợ không dám
quấy phá và Thần Thánh khâm phục hằng che chở hộ trì. Người tu muốn có đức hạnh
tròn đầy tỏa sáng thì cần phải trì giới cho tinh nghiêm vì giới quy là hàng rào
ngăn chận tâm tà tánh tục, là khuôn khổ nắn đúc con người trở nên thánh khiết.
Ngày xưa, khi Đức Phật
Thích Ca sắp nhập Niết Bàn, môn đệ tỏ lòng thương tiếc và lo sợ khi không còn
được sự dìu dắt của Đức Phật thì Ngài trối lại rằng: Sau khi ta nhập diệt rồi,
các ngươi noi theo giới luật mà gìn giữ để tu hành. Giới luật là Ta tại thế đó.
Ngày nay, Đức Chí Tôn
dạy:
Giới luật là con đường của Thầy dựng nên để cho các con đi về cùng Thầy.
Giới luật là một nấc thang để các con bước lên Thiên Đàng. Các con có chịu bước
thì mới đến, không bước lên mà trụt xuống thì làm sao đến được. Giới luật là
một phép lạ để các con xua đuổi tất cả loài ma lũ quỷ ra khỏi người các con để
các con đắc thành Phật quả. Con giữ được phép lạ ấy thì loài ma quỷ kia sẽ
tránh xa, con không giữ được phép lạ ấy thì ma quỷ sẽ đến gần các con, rồi các
con sẽ là ma quỷ.[39]
Xưa nay tất thảy mọi người được đắc thành quả vị Phật Tiên cũng nhờ ở
nương theo giới luật, không có một người nào ngoài giới luật mà đắc thành quả
vị bao giờ.[40]
Nếu không giữ được giới
luật thì hành giả không mong gì đắc thành đạo quả. Đức Giáo Tông Đại Đạo dạy:
Hễ tâm giới không giữ trọn thì ma quỷ sẽ thừa cơ hội mà lôi kéo vào nơi
sa đọa của chúng nó, nơi sa đọa ấy là gì?
Kẻ nào ưa danh thì nó cho danh, kẻ nào ưa lợi thì nó cho lợi, kẻ nào nào
ưa sắc thì nó cho sắc. Khi các hiền đã sa vào danh lợi sắc tài rồi thì lòng
mình chỉ còn biết vui sướng đắm đuối theo những vật ấy, có còn nghĩ chi đến
việc tu hành để thành Tiên tác Phật nữa đâu. Các hiền cũng tu đấy, nhưng chỉ mặc
cái áo tu bề ngoài, còn trong tâm thức thì chỉ toàn là danh lợi sắc tài mà
thôi. Tu như thế thì làm sao mong ngày đắc quả bồ đề, chứng ngôi chánh giác,
hỡi chư hiền? [41]
Một khi giới đã giữ trọn
thì tâm sẽ không còn điên đảo vì những vọng niệm ý tà mà sẽ đạt được trạng thái
an định. Nội tâm có an định thì trí huệ mới phát sinh. Đức Hà Tiên Cô dạy:
Trí huệ có rồi thì trời đất với ta là một. Đây là Phật, đây là tự do,
huyền năng ghê gớm, hàng phục chúng ma.
Điều mà Đức Hà Tiên Cô
nói đây là đỉnh cao của trí huệ. Chúng ta hiểu rằng, tùy theo mức độ tinh tấn
trong việc giữ giới và an định nội tâm mà người tu có thể đạt được trí huệ sáng
suốt theo từng mức ấy. Trước hết là có thể phân biệt chánh tà để khỏi phải lạc
lầm vào bàng môn tả đạo, tiếp theo là có thể hiểu được đúng thánh ý Thiêng Liêng
chỉ dạy để thực hành cho đạt kết quả. Người tu được bao nhiêu đó cũng là điều
rất đáng quý rồi.
Vạn hạnh đủ khiến cho chúng sanh tỉnh ngộ hồi đầu, an ủi nỗi khổ đau cho
muôn loài vạn vật.
Người có giới hạnh đủ đầy
thì không cần nói nhơn sanh cũng cảm mến theo về.
Tôn giả Xá Lợi Phất là vị
đại đệ tử trí tuệ bậc nhất của Đức Phật Thích Ca. Từ lúc còn là một chàng thanh
niên hai mươi tuổi, Xá Lợi Phất đã nổi tiếng thông minh xuất chúng. Ông đi khắp
nơi tìm thầy học đạo nhưng không tìm được một vị nào khiến cho ông cảm phục. Ấy
thế mà tôn giả đã trở thành đệ tử của Đức Phật sau khi gặp tỳ kheo A Thuyết Thị,
một trong năm vị tỳ kheo đầu tiên xuất gia làm đệ tử của Đức Phật.
Tỳ kheo A Thuyết Thị có
một khuôn mặt ngời sáng và một dáng vẻ trang nghiêm, thanh thoát lạ thường. Mỗi cử chỉ đi, đứng của
vị tỳ kheo ấy đều tỏ rõ oai nghi đức hạnh của bậc chơn tu. Thoạt nhìn thấy, Xá
Lợi Phất bỗng cảm thấy tâm hồn rúng động không thể tả được! Xá Lợi Phất liền
đến hỏi xem thầy của A Thuyết Thị là ai. A Thuyết Thị trả lời bằng bốn câu kệ
gọi là “Duyên Khởi Kệ”. Nghe xong, ngài Xá Lợi Phất liền trực nhận ngay về lý
“Có sinh thì có diệt”, về thuật lại cho bạn là Mục Kiền Liên nghe rồi hai người
cùng xin Phật cho gia nhập tăng già, trở thành đệ tử của Đức Phật.
Hạnh đức của Ngài Minh Thiện lúc còn tại tiền cũng đã được
Đức Hưng Đạo Đại Thánh khen ngợi như sau:
Hồi Minh Thiện còn tại
tiền, vì đức lớn tài cao, ngồi một chỗ mà thấy được khắp nơi, nói ít thiên hạ
nghe nhiều, không la rầy mà ai cũng sợ, chẳng nịnh nọt mà người quyền quý mến
yêu, không ban ơn thí vật mà người người như được cậy nhờ nhiều lắm. Vì đức độ,
vì uy nghi, vì quên thân cầu Đạo mà quần chúng quy tụ một cách nồng nàn. Mỗi
lúc mỗi thấy sum suê thêm nhiều cái hay cái đẹp.[42]
Qua đó, chúng ta thấy rằng người tu đức hạnh trang nghiêm có
thể độ được người theo đạo một cách dễ dàng.
*
Tóm lại, theo lời dạy của Đức Hà Tiên Cô, người cầu tu giải
thoát cần phải giữ trọn ba điều: Tín, Nguyện, Hạnh.
TÍN là có lòng tin vững
chắc: Tin mình có đủ sức vượt qua mọi khó khăn để đắc thành đạo quả. Tin được
sự trợ duyên gia hộ của Thiêng Liêng và mọi người xung quanh. Tin có Đấng Tạo
Hóa cầm cân công bình và an bài tất cả. Tin có luật báo ứng gieo nhân gặt quả
để cố công tu hành giải trừ oan trái tiền khiên và không gây nghiệp mới.
NGUYỆN là lập nguyện kiên cố để
tinh tấn tu hành với một tâm chuyên nhất bất thối chuyển.
HẠNH là giới hạnh đủ đầy [43] tạo cho hành giả một huyền
năng, đủ oai nghi hạnh đức, quỷ phục thần khâm để cảm hóa người chưa giác ngộ
vào đường đạo đức và tự thân hành giả được phát sinh trí huệ.
Đặc biệt, trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, người môn đệ Cao Đài
còn có thêm một niềm tin nữa, đó là tin vào luật đại ân xá của Đức Chí Tôn.
Những ai quyết chí tu hành chơn chánh thì có thể được giải thoát ngay trong một
kiếp như lời Đức Mẹ dạy:
Kỳ ân xá vô ngần duyên
phước
Một kiếp tu mà được đắc
thành
Thoát vòng hệ lụy tử sanh
Xin nguyện cầu Đức Hà
Tiên Cô cùng các Đấng thiêng liêng ban ơn hộ trì cho tất cả huynh tỷ, đệ muội
chúng con luôn giữ trọn được ba điều Tín, Nguyện, Hạnh mà Thiêng Liêng đã chỉ
dạy ngõ hầu có thể thẳng tiến trên đường cầu tu giải thoát, tự độ và độ tha.[45]
DIỆU NGUYÊN
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo
[1] Đoàn Trung Còn, Phật Học Từ Điển. Sài Gòn, 1963.
[2] Tư
lương: Những gì cần thiết cho một cuộc viễn hành, như lương thực, lộ phí…
[4] Believe you can and you’re halfway there.
[5] Thiền sư Muju, Sa Thạch Tập: “Trong Bàn Tay Định
Mệnh”.
[6] Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 10-5 Giáp
Dần (29-6-1974).
[7] Thánh thất Tân Định, 03-01 Ất Tỵ
(04-02-1965).
[8] Lê Anh Minh dịch và chú giải, Thất Chân Nhân Quả. Hà Nội: Nxb Tôn
Giáo, 2012. Quyển 34-2 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
[9] There
is no saint without a past, no sinner without a future.
[10] Thánh tịnh An Tiên, 02-02
Đinh Mùi (12-3-1967).
[11] Diệu Nguyên, Câu Chuyện Đức Tin. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2012, tr. 9-10. Quyển
25-3 trong Chương Trình Ấn Tống.
[12] Diệu Nguyên, Câu Chuyện Đức Tin., tr. 53-60.
[13] Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 22-4 Nhâm
Tý (03-6-1972).
[14] Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 30-11
Canh Thân.
[15] Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 01-3 Đinh
Mùi (10-4-1967).
[16] Thanh
phước 清福:
Cái phúc tạo ra không phải để mong hưởng lấy phần thưởng ở kiếp sau, mà là để
giải trừ (tháo gỡ, trả sạch) những nợ nần, nghiệp quả của quá khứ và hiện tại.
[18] Vô
thỉ (thủy) 無始: Không có chỗ bắt đầu. Từ vô thỉ nghĩa là từ rất xa
xưa trong tiền kiếp, không thể nói ra được.
[19] Hằng
hà: Nói tắt của Hằng hà sa số 恆河沙數 (nhiều như số cát ở sông Hằng bên Ấn
Độ), nghĩa là vô số (innumerable).
[20] Bác Nhã Tịnh Đường, 20-02 Nhâm Tý
(03-4-1972).
[21] Thánh
Huấn Hiệp Tuyển, quyển I, 1961, tr. 72.
[22] Tiền thân Đức Phật lúc ấy chưa đắc
đạo thành Phật.
[23] Hòa thượng Tuyên Hóa lược giải Kinh
Phật Thuyết A Di Đà (http://www.tinhdo.net).
[24] Minh Lý Thánh Hội, 12-8 Canh Tuất
(12-9-1970).
[25] Lê Anh Minh dịch và chú giải, Thất Chân Nhân Quả. Hà Nội: Nxb Tôn
Giáo, 2012, tr. 204.
[26] Trúc Lâm Thiền Điện, 18-7 Kỷ Dậu
(30-8-1969).
[27] Thánh
Bộ Từ Bi Thông Thiên Học, 01-4 Đinh Mùi (09-5-1967).
[28] Đắc quả vị Bác Nhã Thiền Sư Tam Tông
Pháp Chủ Nguyên Quân Bồ Tát.
[29] Đại
Thừa Chơn Giáo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2011, tr. 32. Quyển 36-1 trong Chương Trình Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
[30] Đại
Thừa Chơn Giáo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2011, tr. 34.
[31] Lê Anh Minh dịch và chú giải, Thất Chân Nhân Quả. Hà Nội: Nxb Tôn
Giáo, 2012, tr. 189-190.
[36] Quả
chơn định: Kết quả được trạng thái định
tĩnh vững chắc.
[39] Thánh
Truyền Trung Hưng, Tịnh Đường, 08-11 Ất Tỵ (30-11-1965).
[40] Thánh
Truyền Trung Hưng, Tịnh Đường, 16-11 Ất Tỵ (08-12-1965).
[41] Thánh
Truyền Trung Hưng, Tịnh Đường, 08-11 Ất Tỵ (30-11-1965).
[42] Minh Lý Thánh Hội, 02-01-1973.
[44] Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 13-8 Kỷ
Mùi.
[45] Bài nói chuyện tại Hội Trường Thuyết
Minh Giáo Lý Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, ngày 15-11 Quý Tỵ (Thứ Ba,
17-12-2013).
Đại Đạo Văn Uyển trân
trọng giới thiệu quý đạo hữu
blog UNDERSTANDING CAODAISM gồm các bài
tiếng Anh của
HUỆ KHẢI viết về đạo Cao Đài tại địa chỉ:
|