Minh
Lý Thánh Hội
Tuất thời, 08-9 Kỷ Dậu
(Thứ Bảy 18-10-1969)
Thông công: Bộ phận Hiệp Thiên Đài
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam .
Pháp đàn: Huỳnh Chơn. Đồng tử: Hoàng Mai.
THIỆN HẠNH ĐỒNG TỬ
Tiểu Thánh chào chư Thiên
mạng,[1] Thiên sắc.[2] Chào chư liệt vị [3] đàn tiền.[4] Vâng lịnh Đức Vạn Hạnh
Thiền Sư đến báo đàn. Chư liệt vị kỉnh lễ [5] nghinh tiếp. Tiểu Thánh xin xuất ngoại ứng hầu. Thăng.
VẠN HẠNH THIỀN SƯ
THI
Tướng giỏi điều hành vạn
toán binh
Muôn dân trăm họ hướng theo mình
(. . .)
Đàn hôm nay dành riêng
cho chư đạo hữu đạo tràng một đề tài tu học để kiểm điểm và khắc phục nội tâm
cho xứng với cương vị [10] của người tu thân lập
hạnh, học đòi theo đức tính của các Đấng Phật Tiên, Thánh Thần.
Vậy Bần Tăng mời chư đạo
hữu đạo tràng đồng an tọa.
Người thức thời hiểu đạo
nhìn các hình thức tôn giáo, đạo giáo hành đạo có khác nhau không lấy chi làm
lạ. Trong giới đó, thương hại thay cho những người còn nhận xét với phàm tâm
phàm ý, với nhục nhãn,[15] rồi lại bài
bác, chỉ trích, xuyên tạc những hình thức hành đạo khác với tập quán của
mình; do đó thế nhân trong cửa đạo thường mắc phải chứng bịnh kỳ thị.[16] Đó là một trở ngại rất
lớn trên bước đường tu thân lập hạnh.
Ví dụ một trường hợp rất
mỉa mai và đau thương. Nếu đất nước này, dân tộc này khi chưa có một tôn giáo
nào khai minh,[17] người dân vẫn sẵn có tinh
thần thương yêu nhau vì tình đồng chủng,[18] đồng quốc gia, thỉ tổ [19] dân tộc Việt. Nhưng đến
khi có một tôn giáo, rồi nhiều tôn giáo khai minh, mỗi một nhóm dân Việt vào
thọ giáo mỗi tôn giáo khác nhau. Vì sự nhận thức thiển cận [20] nảy sanh óc kỳ thị, từ đó
bắt nguồn sự chia rẽ giữa những nhóm người trong các tôn giáo khác nhau, rất đỗi chỉ biết bênh vực cho giáo thuyết giáo điều, cho các
hình thức lễ bái hành đạo mà quên đi tình dân tộc nước non.
Than ôi! Tôn giáo là cái gì? [21] Phải
chăng tôn giáo là phương hướng giáo thuyết để dạy đời nhìn thấy những gì thiêng
liêng cao cả? Chẳng những chỉ ở phần tâm linh tối thượng, mà tôn giáo còn dạy
người đời xem nhau như tình ruột thịt, huynh đệ đại đồng, tuy khác nhau ở màu
da sắc tóc nhưng cũng đồng thọ bẩm [22] đức háo sanh dưỡng dục an bài của luật đương nhiên Tạo
Hóa.
Tôn giáo dạy người phải
lấy tình thương yêu hòa ái từ xã hội rất nhỏ như gia đình, phu phụ, phụ tử,
huynh đệ, bằng hữu, đến một xã hội bực trung là đoàn thể, quốc gia, dân tộc và
chí đến nữa là đại xã hội nhân loại đại đồng.
Một
xã hội bực trung có thương yêu hòa ái thì đoàn thể được phát triển, nảy nở mau
lẹ trong sự dìu dắt, giáo dục, bảo vệ cho nhau.
Một
quốc gia, toàn thể dân trong nước đó từ vua quan cho đến lê thứ, dân dã cùng
đinh mà biết thương yêu hòa ái thì quốc gia đó được thạnh trị, dân tộc đó được
phú túc, sung mãn, hùng cường.
Nếu đại xã hội nhân loại
đại đồng biết thương yêu hòa ái nhau thì đại xã hội đó là một thiên đường cực
lạc tại thế gian.
Bởi chưng con người không
nhận thức được cái lý đó, chỉ nhìn sự kiện với óc thiển cận là trái ngược lại
đạo lý, cũng như những người hành giáo [24] nhận thức giáo lý thiển
cận như thế, nên đã làm sai lạc tôn chỉ cao quý của tôn giáo. Đó là mầm đau khổ
cho nhân loại.
Đáng lý con người đã sẵn
có tình quốc gia dân tộc, thêm được giáo lý đạo đức, biết dung hợp [25] như gấm thêm hoa, đàng
này trái lại.
Xuyên qua sự thể ấy, thử tìm
xem nguồn gốc do đâu nảy sanh, nếu không phải là bức màn vô minh [26] mà Đức Phật thường hay
dùng để chỉ con người tội lỗi.
Phật chỉ rõ, mọi điều tội
lỗi, độc ác, sa đọa đều do bức màn vô minh che lấp nguơn thần. Sự nhận thức của
con người không phân biệt được cái nào là chơn là giả, điều nào là thiệt là hư,
cũng đều do bức màn vô minh ngăn cách giữa con người và chân lý. Con người
thường nhận xét các sự vật qua nhãn quan và óc chủ quan của mình,[27] nên thường bị thất tình
lục dục gạt gẫm, đánh lừa.
Thánh xưa cũng vẫn có
thất tình lục dục như người thời nay, nhưng Thánh xưa biết sử dụng, điều khiển
những thất tình lục dục ấy đúng chỗ, đúng lúc và hợp hoàn cảnh.
Thánh xưa vui với cái vui
nội tâm thích hợp đạo lý, giận với cái giận của bực siêu nhân, thương với lòng
thương của hàng thánh thiện, sợ với cái sợ của bậc trí tri,[28] yêu với tình yêu của Đấng
Tạo Hóa, ghét với cái ghét của bực hiền nhân, muốn với lòng ham muốn của người
đạo đức. Như thế mới gọi là mừng, vui, giận, ghét, yêu, sợ, muốn của bực siêu
nhân.
Vui
là vui vì đã làm được những việc giúp đời.
Giận
là giận khi thấy lòng chưa được thanh tịnh hoặc ý nghĩ, lời nói, việc làm không
thuận Thiên hòa nhân, tự khắc kỷ [30] để tự hậu [31] không còn tái diễn.
Ghét
là ghét những điều trái đạo lý, luân thường, nhân nghĩa mà không hề nghĩ đến,
nhìn đến, nói đến và làm đến.
Sợ
là sợ những hành động trái với đạo đức, trái với lòng Trời, chớ không phải sợ
dư luận khen chê, tán tụng.
Có
điều khiển, làm chủ, hướng dẫn được thất tình thì chúng nó sẽ ngoan ngoãn tuân
theo rồi lần hồi trở thành thói quen. Biết tận dụng điều khiển thất tình, chúng
sẽ trở nên thất bửu là bảy món báu vô giá để làm tả phù hữu bật,[32] tiền xung hậu kích trước mọi cảnh ngộ đảo điên, và chúng sẽ giúp trở
lại chủ nhơn ông [33] được trọn vẹn trên đường thánh thiện.
Còn qua lãnh vực lục dục,
lục căn cũng thế. Hãy điều khiển, sai khiến chúng phải tuân theo, làm theo chủ
nhơn ông. Cũng thời chúng nó, nếu chủ nhơn ông biết tận dụng, chúng sẽ trở nên
hàng trung thần thân tín. Nếu ngược trở lại, không biết tận dụng, điều khiển
chúng thì chúng sẽ trở nên đám nghịch thần phá hoại, ngăn cản mọi bước tiến
trên đường thánh thiện.
Lục dục, lục căn biết
luyện thì chúng sẽ trở nên lục thông,[34] đưa chủ nhơn ông đến hàng
Tiên Phật. Ngược lại, chúng sẽ làm lục tặc [35] rồi dẫn dắt kéo trì chủ
nhơn ông trở xuống lục đạo luân hồi [36] hoặc sa tăng, ngạ quỷ.[37]
Thế nên người tu luôn
luôn phải xem xét, suy nghĩ, cân nhắc trước mọi sự vật xảy ra hằng ngày đến với
mình. Rất dễ mà cũng rất khó để phân biệt được cái nào chơn giả, điều nào thiệt
hư.
Đừng thấy người chê rồi
vội vàng phát giận; đừng nghe người khen rồi vội vàng mừng vui. Nếu sự chê ấy
đúng chỗ đúng lúc thì phải cố gắng nhẫn nại phục thiện để sửa chữa.
Bần Tăng xin lặp lại: Nếu
sự chê ấy do nơi mình khuyết điểm thì phải cố gắng để sửa chữa. Nếu gặp lời
khen có tánh cách ve vãn, nịnh bợ để làm hài lòng, có dụng
ý cho tư danh tư lợi thì hãy coi chừng. Đừng vội mừng mà mắc mưu ma quỷ.
Thánh xưa có nói: Người
chê ta đúng chỗ là thầy ta, khen ta đúng chỗ là bạn ta; ngược lại, nếu chê
không đúng chỗ là phá hoại ta, khen không đúng chỗ là hại ta.
Đó là lời khuyên đối với
hàng nhân sĩ để tiếp nhân xử thế; còn ở cương vị của người học đạo, tu thân lập
hạnh thì lại phải cần thận trọng, cân nhắc thêm hơn.
Người tu thân nên lạc
thiện lạc đạo,[38] chớ không đợi người đời
nhìn thấy để lời phê phán ngợi khen mới vui. Nếu vui như vậy là háo danh, bị
động, không làm chủ lấy mình. Nếu bị lời gièm pha, đố kỵ,
xuyên tạc rồi bỏ dở dang việc hành đúng đạo lý là đã mắc mưu tà quái rồi đó.
Những điều đan cử [39] vừa qua cũng chỉ là những
chi tiết trong sự điều khiển, hướng dẫn thất tình lục dục mà thôi.
Đây, Bần Tăng cũng nói
trở lại hai tiếng vô minh. Hễ vô
minh 無明 thì gặp minh 冥. Minh 明 trước là sáng, minh 冥 sau là mờ.[45] Nếu không dùng tâm linh
chung hợp lý trí [46] xét đoán các sự vật cho minh
明 thì mọi hành động xử sự
sẽ bị mờ ám.
THI
Tu hành luyện tập phải
luôn luôn
Như nước luân lưu khắp ngọn nguồn
Nếu nước bị ngăn thành bẩn thỉu
THI
BÀI
Sống
cõi tạm phải lo cho tạm
Lấp che thiên tánh mờ lu
Phải
dày công khó lo tu gỡ lần.
Tuy còn sống cõi trần tần tảo
Phải
lo phần nhân đạo hằng ngày
Ơn
dân nghĩa nước cao dày
Nhưng
phải ráng lo phần thiên đạo
Noi
gương Tiên Phật Thánh Thần
Lo
tu trọn kiếp nghiệp trần trả xong.
Đừng tạo nghiệp lòng vòng luân chuyển
Kiếp
xuống lên mấy chuyến đi về
Lộn quanh trong cõi trần mê
Muôn năm khó trở lại quê cảnh nhàn.
Đừng hiểu đạo cực đoan sự
thể
Vào tu rồi buông phế cuộc đời
Hoặc khi liệu thế xử thời
Thì đi theo mãi không rời bước nhau.
Mùi lợi danh tổn đức hại nhân
Cực đoan bên đạo bên trần
Phải cẩn thận dò từng
bước một
Bước một rồi lên tột bước cao
Không
vì dư luận bàn vào tán ra.
Cố gắng bước dầu xa cũng tới
Bền
tâm đi đến Hội Long Hoa
Biện
phân kẻ chánh người tà
Phật
Tiên cùng với quỷ ma hai đường.
Thời mạt kiếp còn đương diễn tiến
Ráng
tu đi thực hiện nghĩa nhân
Tạo đời minh đức tân dân sau này.
Đêm đã hết thì ngày lại
tới
Hại qua rồi kế lợi đến nơi
Để xem máy Tạo đổi dời
Phép mầu thưởng phạt buổi đời thượng nguơn.
Đừng thấy khổ chùn chân
chậm bước
Chớ thấy hay vội rước hai tay
Lòng tham không đáy là đời ngửa nghiêng.
Hãy trở lại căn duyên
tiền định
Là dân sanh, dân tính, dân quyền
Ngày xưa nòi giống tổ tiên
Áo lam vẫn giữ được yên cõi bờ.
Nào đâu phải trông nhờ ai
giúp
Để toàn dân lặn hụp biển mê
Suốt
bao thế kỷ não nề
Thôi
thôi muốn tắm hãy về ao ta.
Lấy
tình thương dân tộc hiệp hòa
Dựng
xây cho nước non nhà
Nhiệm
vụ Bần Tăng đến đây đã xong. Hẹn gặp lại chư đạo hữu cũng vào giờ này ngày 22
tới.
Bần
Tăng cảm ơn và xin giã từ chư đạo hữu đạo tràng. Bần Tăng xin lui điển về
thượng giới. Thăng.
[1] Thiên mạng (mệnh) 天命: Bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng
của Trời giao phó là thế Thiên hành hóa
替天行化 (thay
Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu hành).
[5] Kỉnh
lễ: Tức là kính lễ 敬禮, cung kính chào đón (to salute). Lễ Thành Hầu
Nguyễn Hữu Kính 阮有鏡
(1650-1700) có công lớn mở mang đất nước về phương Nam. Dân miền Nam kiêng húy,
đọc trại Kính thành Kỉnh.
[6] Đạo
tràng (trường) 道場: Chỗ tu học, nơi sinh hoạt tôn giáo như chùa, thất, thánh đường, thiền
viện, tu viện… (religious institution,
monastery...).
[7] Lấp
lửng: Không dứt khoát, không kiên quyết.
[8] Lục căn 六根: Sáu căn (the six senses) gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý nghĩ (eyes, ears, nose, tongue, body, mind). Đối
tượng của lục căn là lục trần 六塵, gồm sắc
色 (hình tướng),
thinh 聲 (âm thanh), hương 香 (mùi), vị 味, xúc
觸 (tiếp xúc với
da thịt), pháp 法 (tư tưởng). Khi lục căn tiếp xúc với lục trần thì sinh ra sáu thứ ham muốn gọi
là lục dục 六欲 (the
six desires): Ham muốn do mắt nhìn sắc đẹp, do tai nghe âm thanh du dương,
do mũi ngửi mùi thơm, do lưỡi nếm vị ngon, do thân xác được sung sướng, do ý được
thỏa thích.
[9] Thất tình 七情: Bảy tình cảm (the seven emotionals) là mừng (hỷ 喜, joy), giận (nộ 怒, anger), yêu (ái
愛, affection), ghét (ố 惡, hatred), buồn (ai
哀, sorrow), vui (lạc 樂, cheerfulness), sợ (cụ
懼, fearfulness).
[11] Thượng Đế vì nhân sinh đã
phải đến trần gian nhiều lần mở nhiều tôn giáo, mượn nhiều hình thể, bày nhiều
hình thức, xưng hô nhiều danh từ khác nhau: Tại
Long Ẩn Đàn (Sài Gòn), đêm 08-10 Kỷ Sửu (18-11-1939), Đức Chí Tôn dạy: Thích Ca xưa vốn Cao Đài / Cao
Đài nay cũng Như Lai giáng trần. Tại
Thiên Lý Đàn (Hòa Hưng), Tuất thời, 30-12 Giáp Thìn (01-02-1965), Đức Chí Tôn
dạy: Xuống lên, lên xuống luân hồi / Đến
tên Ngọc Đế mấy hồi đổi thay / Khi xưng Giáo Chủ Cao Đài /
Khi xưng Thiên Chúa, khi khai Di Đà / Lắm hồi Bồ Tát Ma Ha
/ Bao lần Khổng Mạnh cũng Già nầy đây.
[12] Độ rỗi: Độ 渡 [度] là qua (sông),
giúp người qua sông mê bể khổ. Rỗi là thong thả,
không bị ràng buộc (tự tại, tự do).
Con người lúc sống bị ràng buộc vào tham muốn, sân hận, si mê (ngu muội), vì
thế gây tội lỗi rồi bị vướng vào tù ngục thế gian; chết đi linh hồn lại chịu
đày đọa nơi địa ngục. Các chánh giáo dạy con người tu hành, như đưa chiếc
thuyền chở con người vượt qua biển khổ, giúp con người thoát khỏi tham sân si,
khỏi phạm tội; nhờ thế, khi còn sống thì tâm hồn và cuộc đời được rỗi, lúc chết đi thì linh hồn
cũng được rỗi, khỏi sa địa
ngục. Độ rỗi cùng nghĩa như cứu rỗi.
[13] Cải ác tùng (tòng) thiện 改惡從善: Sửa đổi những gì không tốt, đi theo đường ngay chính (correcting one’s wrong deeds and following
the right way).
[18] Đồng
chủng 同種: Cùng dòng giống (the same race). Đồng văn 同文: Cùng chữ viết, ngôn ngữ (the same script, the same language).
[21] Tôn giáo là cái gì? Lưu ý,
ở đây Đức Thiền Sư không hỏi Tôn giáo là
gì? Chủ đích thánh giáo này không nhằm giải thích ý nghĩa thuật ngữ tôn
giáo. Ngài hỏi Tôn giáo là cái gì?
Chữ cái được dùng mang
tính tu từ (rhetorical), để biểu thị
ý nhấn mạnh về sắc thái chơn chánh của tôn giáo mà Ngài nêu lên để cho thấy rất
tương phản với thực trạng là con người vì trót hiểu sai về tôn giáo đi đến hậu quả là kỳ thị tôn giáo, độc
tôn đạo của mình và coi rẻ đạo người khác. Thế gian vì khác tôn giáo mà
gây tranh chấp, chiến tranh (quả là sai lầm) trong khi đúng lý ra phải từ đức
tin tôn giáo mà hợp sức kết đoàn để chung tay xây đắp xã hội thương yêu, bác
ái, hòa hiệp, hòa bình.
[22] Thọ bẩm: Bẩm thụ (thọ) 稟受, tự nhiên có được tính chất nào đó chứ không do tập luyện (to be endowed with something).
[23] Huynh hữu
đệ cung 兄友弟恭:
Anh chị em hòa ái, tôn kính nhau (loving,
friendly and respectful siblings).
[27] Bởi
vậy, Đức Phật dạy thực hành Bát Chánh Đạo, trong đó có chánh kiến (right views:
thấy đúng), chánh tư duy (right thinking: suy nghĩ đúng), chánh niệm (right mindfulness: giữ tâm ý luôn luôn
ghi nhớ những điều chơn chánh), chánh định
(right meditation: tập trung tư tưởng
vào những điều chơn chánh, lợi ích cho mình và người).
[30] Khắc kỷ 克己: Kiềm chế bản thân, kỷ luật với chính mình (self-restraint, to subdue one's self),
tức là khắc chế bản ngã, trừ khử lòng tự tư tự lợi.
[33] Chủ nhơn (nhân) ông 主人翁: Ông chủ, người làm chủ,
ông chủ (master, host, owner). Chân tâm (真心 the
true mind) là chủ nhân ông, thắng được sự sai khiến,
cám dỗ của thất tình lục dục. Nếu để thất tình lục dục sai khiến, không còn làm
chủ được tâm, tức là mất quyền chủ nhân ông. Giống như chủ nhà bị người ngoài
lọt vào khống chế.
[34] Lục thông 六通:
Cũng gọi lục thần thông, là sáu phép
thần thông của bậc đắc quả a la hán, gồm có: <1> Thiên
nhãn thông (thấy được mọi vật trong vũ trụ). <2> Thiên nhĩ thông (nghe được mọi tiếng
trong vũ trụ). <3> Túc mạng thông
(biết kiếp trước của mình và của người khác, biết luôn cả kiếp này và kiếp
sau). <4> Tha tâm thông (biết
được ý nghĩ, tư tưởng người khác). <5> Thần túc thông (đi khắp nơi trong nháy mắt, biến hóa tùy ý). <6>
Lậu tận thông (trong sạch hoàn toàn,
dứt hết các phiền não, dứt luân hồi, nhập niết bàn).
[35] Lục tặc 六賊: Sáu tên cướp, ám chỉ lục dục 六欲. Lục dục (sáu ham muốn do mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý nghĩ) phá hoại tâm thanh tịnh, giống như kẻ cướp
xông vào nhà quấy nhiễu.
[36] Lục đạo luân hồi 六道輪迴:
Sáu nẻo tái sinh (the six paths of
rebirth): <1> Địa ngục 地 獄; <2> Ngạ quỷ 餓鬼 (quỷ đói); <3> Súc sinh 畜生; <4>
A tu la 阿修羅 (thần ác, asura); <5> Nhân 人 (người); <5> Thiên 天 (thần cõi trời, thiên thần, deva).
[38] Lạc thiện lạc đạo 樂善樂道: Vui làm việc lành, vui với cuộc sống đúng đạo
lý (to feel happy doing good deeds and
leading a righteous life).
[39] Đan
(đơn) cử 單舉: Nguyên nghĩa là nêu ra (cử) một trường hợp (đơn). Về sau, dùng rộng rãi, khi kể ra vài trường hợp vẫn nói là đơn cử.
[41] Tiền khiên 前牽: Sự trì kéo, ràng buộc do nợ nần kiếp trước, sang kiếp này
người mắc nợ phải trả nghiệp. Khiên
là lôi kéo, vướng vít, ràng buộc.
[42] Tu kỷ 修己: Tu thân, sửa đổi và luôn cải thiện chính con người mình
(to cultivate and constantly improve
oneself).
[43] Tài thí 財施: Giúp (bố thí, cho) tiền và hiện vật. Pháp thí 法施: Bố thí lời
đạo đức, nói lời lẽ đạo đức để khuyên
nhủ; thuyết giáo, ấn tống kinh sách. Vô úy thí 無畏施: An ủi, giúp cho người khác khỏi sợ hãi.
[44] Sở hữu 所有: Cái mình có (one’s
belongings). Sở năng 所能: Cái mình có thể làm, khả năng của mình (one’s capabilities). Sở đoản 所短: Mặt yếu, nhược điểm của mình (one’s weak points). Sở
trường 所長: Mặt mạnh, ưu điểm của mình (one’s strong points).
[45] Vô minh 無明 là không sáng suốt (minh
明 là sáng); thì gặp minh 冥 (u tối, tối
tăm). Thí dụ: thông
minh 聰明
(minh 明 là
sáng); cõi u minh 幽冥 (minh 冥 là tối
tăm).
[46] Tâm linh chung hợp lý trí: Kết hợp tâm linh với lý trí.
[50] Thiện bảo kỳ thân 善保其身: Giữ gìn kỹ,
bảo vệ thân mạng mình (to protect one’s
life prudentially).
[52] Nguyên
nhân (nhơn) 原人: Những linh căn 靈根 nguồn gốc từ cõi trời, xưa kia nhận lãnh sứ
mạng xuống thế gian độ đời; khác với hóa
nhân (nhơn) 化人 là những ai từ kim thạch, thảo mộc, cầm thú
tiến hóa lên làm người.
[53] Chí
hào: Chí lớn (muốn thoát trần, không chịu trói buộc trong vòng danh lợi
trần tục).
Huệ Khải chú thích
(16-3-2014)