Gió muốn thổi đâu thì thổi. (Gioan 3:8)
* Hiền tỷ Phạm Thị Th. (giáo viên nghỉ
hưu, cù lao Châu Ma, ấp Phú Thuận, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp):
“Tôi vui mừng được đọc tập Thơ Người Áo Trắng.
Nhà nghiên cứu Trần Văn Chánh nhận định rằng
với tập thơ này ‘dường
như đã có dấu hiệu xuất hiện một thứ lãng mạn Cao Đài Giáo bàng bạc trong tất
cả những bài thơ được tuyển chọn, và điều đó cho phép chúng
ta xác tín trong tương lai sẽ có một nền văn chương
– văn hiến – văn hóa Cao Đài mang tính đặc thù của người Việt, hoàn toàn
tương xứng với khả năng phát triển ngày càng sâu rộng của
tôn giáo Cao
Đài.’ (tr. 16)
“Tôi rất trân trọng và cảm kích ý kiến của ông, và tôi gạch dưới
những chữ mà tôi nhấn mạnh, vì muốn các đạo hữu Cao Đài sẽ chú ý tới tầm nhìn của
một người không phải là tín hữu Cao Đài.
“Sau đây, tôi xin nhờ Văn Uyển giải
thích vì sao trong một số thánh giáo Cao Đài, Ơn Trên có khi gọi người Pháp là Lang
Sa.” (Trích thư ngày 03-12-2013.)
Ban Ấn Tống: Hiền tỷ trọng kính, đa tạ hiền tỷ quan tâm tới tập thơ nhỏ nói trên.
Cũng xin chia sẻ với hiền tỷ niềm vui này: Sau khi tập Thơ Người Áo Trắng phát hành, trên trang điện tử Nhịp Cầu Tâm Giao (nhipcautamgiao.net)
của Ban Mục Vụ Đối Thoại Liên Tôn (Tổng Giáo Phận TpHCM), ngày 02-11-2013 đã
trân trọng giới thiệu. Tiếp theo đó, hầu như mỗi ngày trong tuần, trang điện tử
này lại trích đăng lần lượt vài bài thơ, đến nay (tháng 12-2013) thì gần trọn
nội dung tập thơ đã được tải lên mạng quốc tế, giúp phổ biến tới các Kitô hữu
và những đạo hữu đạo tâm yêu thơ. Chúng ta thật cảm kích tấm lòng của quý linh
mục và quý vị phụ trách Nhịp Cầu Tâm Giao.
Về câu hỏi của hiền tỷ, sau đây là ý kiến của đạo hữu Lê Anh Minh:
Người Việt mình gọi nhân danh và địa danh nước ngoài phần lớn dựa theo cách
chuyển âm (translitering) của người
Trung Quốc. Thí dụ: England
được chuyển âm là 英吉利,
họ đọc theo giọng Quan Thoại là [yīng-jí-lì], nghe na ná như âm ['ɪŋglənd] của
từ England .
Dựa vào đó, người Việt đọc theo âm Hán Việt là Anh Cát Lợi, rồi
rút gọn là Anh (nước Anh, tiếng Anh).
Vậy, người Trung Quốc lấy âm Quan Thoại để chuyển âm tiếng
phương Tây, còn người Việt mình mượn lại chữ Hán của họ rồi đọc theo âm Hán
Việt. Cho nên, chữ inspiration
[ɪnspɪ'reɪʃən] (cảm hứng) được họ chuyển thành 煙士非[披]理純, và ta đọc là yên sĩ phi lý thuần thì nghe chả dễ hiểu tí nào cả!
Trở lại câu hỏi của hiền tỷ, danh từ France (nước Pháp) được
người Trung Quốc tách ra ba âm là F-ran-ce, rồi chuyển âm nhiều cách
như: 坡郎沙 [po-lang-sha], 葩郎沙 [pa-lang-sha], 富浪沙
[fu-lang-sha], 法蘭西 [fa-lan-xi]. Nếu các cụm chữ Hán này
đọc theo âm Quan Thoại thì nghe na ná như âm France [fra:ns].
Người Việt mình dựa các chữ Hán đó và đọc theo âm Hán Việt là: 坡郎沙 Pha
Lang Sa, 葩郎沙 Ba Lang Sa, 富浪沙 Phú
Lãng Sa, 法蘭西 Pháp Lan Tây.
Cách đọc thứ tư rút gọn thành Pháp (hay Tây) còn thông dụng tới
nay. Ba cách đọc đầu rút gọn thành Lang Sa bây giờ không còn
dùng, nhưng thuở xưa lại thông dụng, còn thấy chép trong các sách Hán Nôm.
Sang đầu thế kỷ 20, người Việt vẫn còn dùng từ Lang Sa. Đạo Cao Đài mở ra
lúc ấy thì tất nhiên từ Lang Sa có dùng trong các thánh ngôn tiếp nhận vào thời
đó.
*
* Hiền huynh Tr. Q. Hùng (hungqtr57@xxx):
Ở thánh thất chúng tôi, sau khi bầu lại
Ban Cai Quản thì một vị cao niên không còn được giữ chức vụ cũ. Ban Cai Quản vừa
được công cử mời vị này làm cố vấn. Do nhiều năm quen làm lãnh đạo, trong các
cuộc họp thường kỳ của thánh thất, vị cố vấn này luôn luôn chủ động đưa ra ý kiến
chỉ đạo, khiến cho họ đạo nghĩ rằng vị ấy vẫn đang thi hành chức trách của nhiệm
kỳ cũ, và dường như muốn lấn lướt Ban Cai Quản đương nhiệm! Xin hỏi, theo lẽ
thường, vai trò của cố vấn thật sự là gì?
Minh Tuệ Khai: Hiền huynh trọng kính, cố vấn
顧問 là chữ Nho; nên trước hết hãy căn cứ
theo chữ Nho mà hiểu.
Vấn
là hỏi. Cố là ngoảnh lại nhìn, quay đầu lại ngó. Bề trên mà đoái nhìn
tới kẻ dưới là hạ cố 下顧. Quay đầu lại nhìn cũng là hồi cố
回顧 (to look back).
Xét theo nghĩa đó, nếu không được lãnh đạo quay đầu lại nhìn mình mà hỏi ý
kiến mình, thì vị cố vấn không nên chủ động đưa ra ý kiến trước. Cố vấn nên chờ
được hỏi.
Ngày xưa, triều đình cũng có chức cố vấn, và họ chỉ dâng ý kiến nếu vua
hỏi tới. Vua không hỏi thì chẳng dám vượt quá thân phận chủ động tấu trình, dễ
bị vua trách phạt.
Chúng ta nên biết rằng ở Trung Quốc, trước thế kỷ 1 đã có chức cố vấn, vì
vào đời Đông Hán (25-220) ông Ứng Thiệu 應劭 cho biết như vậy. Ứng Thiệu (tự
Trọng Viện 仲瑗, không rõ năm sinh, năm mất) là một
vị quan học rộng, sử gia kiêm văn gia. Một tác phẩm danh tiếng của Ứng Thiệu
(mang tính bách khoa) nhan đề Phong Tục
Thông 風俗通, ở chương Thập Phản 十反,
viết như sau:
Tục cũ thường lấy con cháu của sĩ đại
phu, dung mạo cử chỉ đoan trang nghiêm túc, học vấn tinh thông bác lãm, phụ
trách cố vấn, làm chức ngự sử.[1]
Còn ngày nay, chúng ta thấy có nhiều
công ty tư vấn pháp luật (người Hoa gọi là pháp luật cố vấn
công ty 法律顧問公司);
họ phải chờ khách hàng có nhu cầu tìm tới hỏi, chớ họ đâu có thể nào chủ
động bán kiến thức luật pháp của họ cho bá tánh.
Tóm lại, cố vấn không phải
là người thi hành (executive)
công việc của một tổ chức (dù đời hay đạo). Lãnh đạo có thể hỏi ý của cố vấn để
tham khảo, nhưng lãnh đạo vẫn có quyền không nghe theo, không làm theo ý kiến
đó.
Xét theo những ý nghĩa cơ bản như
vậy, nếu vị cố vấn ở thánh thất của hiền huynh chỉ vì lòng quá nhiệt thành với
đạo mà thường hay hăng hái phát biểu ý kiến trong các cuộc họp, khiến cho tín
hữu phải nghĩ rằng vị đó vượt quá cương vị của mình, thì quả đáng tiếc thật!
* Bác sĩ Trần Bảo Lâm (Chánh Hưng, thư 15-12-2013):
“Một đạo hữu chép cho tôi bốn
câu thơ của Đức Giáo Tông Đại Đạo Lý Thái Bạch, dạy tại Minh Đức Tu Viện (Vũng
Tàu), vào giờ Tuất ngày 25-01 Giáp Dần (16-02-1974). Bốn câu thơ ấy như sau:
Vui say non nước hữu tình
Đơn phòng bạn lữ vân trình vào ra
Ngoài ta nào có cái ta
Vẽ chi thế sự trần la buộc ràng.
Bạn tôi viết là vẽ (dấu
ngã); vậy là vẽ vời phải không? Nhân tiện, kính nhờ Văn Uyển giảng luôn
bốn câu thơ tôi đọc thấy hay mà chưa hiểu rõ nghĩa cho lắm.”
Huệ Khải: Một
trong nhiều nhược điểm của giọng miền Nam là không phân biệt dấu hỏi và dấu
ngã; nếu sơ ý sẽ dễ chép sai thánh ngôn. Vì vậy, chữ vẻ trong
câu thơ của Đức Lý Đại Tiên Trưởng đã bị chép sai thành vẽ.
Đúng ra, phải viết vẻ (dấu
hỏi). Vẻ chi nghĩa là nào có đáng chi, chẳng đáng chi cả.
Đơn (đan) phòng 丹房 là phòng (buồng) riêng để
ngồi tu tịnh (tu thiền). Đạo Lão gọi tu thiền là “luyện đơn nấu thuốc”;
âm dương và ngũ hành trong cơ thể là dược liệu sẵn có (nội dược 內藥) để luyện thành kim đơn...
Lữ 侶 là bạn bè. Bạn lữ 伴侶 cũng là bạn bè.
Vân trình 雲程 là đường mây. Các vị Tiên cỡi mây mà đi; đường đi của Tiên là đường
mây.
Thế sự 世事 là việc đời.
Trần la 塵羅 là lưới trần. Con người sống ở đời thường đam mê bốn thứ tửu khí sắc tài (rượu, ma túy, sex, tiền
bạc), nên bị chúng sai khiến. Ngoài ra còn bị bốn thứ khổ là sanh lão bệnh tử ràng buộc, không ai
thoát được (trần la tứ khổ). Cho nên
cõi trần được ví như tấm lưới bủa giăng, vây hãm và con người bị nhốt chặt
trong đó. Ngoài ra trần gian còn được ví như nhà lao, nhà tù (trần lao 塵牢, trần tù 塵囚).
Bốn câu thơ này ca ngợi thú tiêu dao thoát tục của bậc Tiên Gia vui chơi
với thiên nhiên xinh đẹp (câu 1), làm bạn với đạo pháp, tự do tự tại (câu 2),
làm chủ lấy mình (câu 3); và được như thế rồi thì việc đời đâu có đáng chi (vẻ chi thế sự) để mà buộc ràng, trói
trăng mình vào đó (câu 4).
*
* Hiền huynh Phạm Văn Cự (Bến Tre, thư 25-12-2013):
“Kinh nhà Phật thường viết Di Lặc.
Thánh giáo Cao Đài hay viết Di Lạc.
Xin giải thích giúp tôi chữ nào đúng?”
Huệ Khải: Người
Hoa khi dịch hồng danh Đức Maitreya
(tiếng Sanskrit) hay Metteyya (tiếng
Pali) ra chữ Hán đã viết là 彌勒.
Người Việt đọc và viết là Di Lặc.
Bản thân chữ Lặc này có
nhiều nghĩa:
(Danh từ) Cái dàm để chằng đầu và mõm ngựa. Thí dụ, mã lặc 馬勒: Dây cương
ngựa (bridle). (Động
từ) Ghì, gò. Thí dụ, lặc
mã 勒馬:
Ghì (gò) cương ngựa cho đi chậm lại (to
rein in a horse). Từ nghĩa đó, có thêm các nghĩa như: (Động từ) Kềm chế, bắt buộc. Thí dụ, giáo lặc
tử tôn 教勒子孫:
Dạy dỗ, kềm chế con cháu (bắt chúng vào khuôn phép); (Động từ) Đè nén, áp chế (to throttle, to supress); bóp cổ cho chết ngạt (to strangle). Thí dụ, lặc tử
勒死
bóp cổ hoặc thắt cổ cho nghẹt thở đến chết.
Khắc chữ (to carve, to engrave). Thí
dụ, lặc thạch 勒石: Khắc chữ lên đá; lặc bi
勒碑:
Khắc chữ lên bia.
(Động từ) Cầm quân. Thí dụ, lặc binh lai kinh 勒兵來京: Thống lĩnh
quân binh kéo về kinh đô.
Qua những nghĩa đó, chữ Lặc 勒 không liên
quan gì tới hồng danh Đức Maitreya. Người
Hoa khi nói mí lè (Di Lặc) có
lẽ cũng chả nghĩ gì tới bộ cương ngựa hay ý nghĩa trói buộc, áp bức hàm chứa trong
đó.
Vậy, nói hay viết DI LẶC, tức là noi theo
truyền thống kinh điển Phật Giáo Trung Quốc trong Nhị Kỳ Phổ Độ.
Trong Tam Kỳ Phổ Độ, thánh ngôn thánh
giáo Cao Đài thoát ra khỏi cách dịch của Phật Giáo Trung Quốc, mang lại cho
hổng danh Đức Maitreya (Metteyya) một
ý nghĩa đẹp: DI LẠC, vì Lạc 樂 là
vui sướng (cheerful, happy). Theo
kinh điển từ Nhị Kỳ Phổ Độ sang qua Tam Kỳ Phổ Độ, Đức Di Lạc làm chủ mở Hội
Long Hoa, mở ra đời thánh đức, nhân loại thái hòa. Thế thì Di Lạc mà mang nghĩa
hạnh phúc, sướng vui thì rất phù hợp.
Trong đạo Cao Đài, có nhiều lần Đức
Di Lạc giáng cơ, xưng danh qua các bài thơ quán thủ (khoán thủ) hay quán tâm
(khoán tâm); qua đó, Ngài dùng chữ LẠC theo nghĩa vui sướng như nói trên.
1. Vào năm Ất Hợi (1935), Ơn Trên ban
cho quyển kinh Thánh Đức Chuyển Mê.
Đàn cơ ngày mùng 3 tháng 6 Ất Hợi, Đức Di Lạc giáng lâm, xưng danh qua bài thơ
quán tâm như sau:
Đạo đức DI
truyền máy nhiệm sâu
Huyền vi LẠC cảnh đạt cơ mầu
Hào quang THIÊN
mạng soi trần tối
Chiếu sắc TÔN oai diệt tận sầu.
Trong
câu 2, LẠC là vui; lạc cảnh 樂景 là cảnh vui.
2. Năm Bính Tý (1936), Ơn Trên ban
thêm Thánh Đức Chơn Kinh. Trong một đàn cơ (không ghi ngày), Đức Di
Lạc giáng lâm, xưng danh qua bài thơ quán thủ như sau:
DI luân
chuyển động mối cơ Trời
LẠC thú thông
đồng đặng thảnh thơi
THIÊN võng
khôi khôi nào có lậu
TÔN truyền yếu nhiệm sửa cơ đời.
Trong câu 2, LẠC là vui; lạc
thú 樂趣 là thú vui, niềm vui (pleasure, joy).
3. Cũng trong quyển Thánh Đức Chơn
Kinh này, bài thứ mười (nhan đề Chơn
Truyền Đạo Giáo), Ngài xưng danh:
DI
truyền chơn giáo buổi tang thương
LẠC đạo
nhàn tâm kẻ biết đường
Tuyên
bố mối giềng cùng chúng khổ
Quang
minh chơn lý với tai ương
Phật
Đà pháp nhiệm chưa ai rõ
Giáng
thế huyền vi mấy kẻ tường
Ngọc
điệp lưu ly trau quý giá
Đàn
Tiên học tập lánh trần dương.
Trong câu 2, LẠC (động từ) là vui; lạc đạo 樂道
là vui với đạo.
4. Đầu tháng 2 Mậu Dần (1938), Ơn Trên ban thêm quyển kinh Thánh
Đức Chơn Truyền. Trong một đàn cơ (không ghi ngày), khi giáng dạy đề
tài Dại Khôn, Đức Di Lạc xưng danh
qua bài thơ bát cú như sau:
DI truyền chơn giáo buổi
Tam Kỳ
LẠC đạo tâm thành khả đắc tri
Tiên bút nhuận ban nhơn tỉnh
thức
Quang minh bố điển vật năng
vi
Phật môn khải ngộ huờn minh
pháp
Giáng thế
Long Hoa hội chỉ huy
Khai sáng chơn truyền toan
cứu chúng
Kinh mầu thông triệt Đấng
huyền vi.
Trong câu 2, lạc đạo 樂道 cùng nghĩa
như câu 2 bài 3.
Tóm lại, nói hay viết DI LẠC là theo Tam Kỳ
Phổ Độ, với ý nghĩa Lạc là vui. Có thể nói đây là một đóng góp của đạo Cao Đài
cho tiếng Việt. Nghĩa vui này cũng phù hợp với hình ảnh rất quen thuộc trong
dân gian: Đức Di Lạc là vị Phật dáng ngồi thoải mái, miệng cười rạng rỡ, như các
ảnh tượng thường lưu truyền trong dân gian (xem tranh vẽ Đức Di Lạc ở trang
sau).
Tuy nhiên, cần lưu ý: Khi muốn viết DI LẠC
ra chữ Hán, thì chữ Di không thể lúc nào cũng viết như chữ Di 彌 (tròn đầy, đầy đủ / full, complete) của Phật Giáo Nhị Kỳ Phổ Độ. Chẳng hạn, theo ý
nghĩa chữ Di trong ba bài thơ 1, 3 và 4 trích dẫn trên đây, thì Di
詒
là
lưu truyền, truyền lại (to hand down).
Trong bài 2, có thể hiểu chữ DI 移 là
biến đổi, di dời, chuyển dịch (to change,
to move, to remove…).
Nói như thế nghĩa là cần chú ý tới cách dùng từ Hán Việt (đồng âm dị
nghĩa) trong từng bài thánh giáo để chọn chữ Hán cho tương thích.
Đức Di Lạc Thiên Tôn
* Hiền huynh Nguyễn Văn Thế (phường Mỹ Quý,
thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang, thư
27-12-2013):
“Ở quê, ngày còn nhỏ, bọn trẻ
con chúng tôi thích chạy đuổi theo mấy xe quảng cáo mà xin các tờ giấy mỏng nhiều
màu của gánh hát hay rạp chớp bóng để coi tóm tắt tuồng tích. Con nít chúng tôi
hồi đó gọi là tờ “pồ-gam”, sau này mới biết là programme (tiếng Pháp), tức chương
trình. Có dịp đi dự lễ ở các thánh thất, chúng ta thường thấy ban tổ chức
mở màn bằng cách “thông qua chương
trình buổi lễ”, tức là đọc các tiết mục sẽ lần lượt tiến hành…
Trong lịch sử đạo Thầy, có
nhiều tổ chức ra đời, hoặc gọi là Ban, là Hội, là Cơ Quan, v.v… nhưng không ai
xưng danh là “chương trình” giống như Chương
Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo đã hơn năm năm nay! Xin vui
lòng cho hỏi: Hai chữ Chương Trình (như quý huynh tỷ đang dùng
khi ấn tống kinh sách) có nghĩa là gì?”
Huệ Khải:
Thưa hiền huynh, hồi nhỏ sống ở miền Tây tôi cũng mê các tờ “pồ-gam” này lắm.
Các rạp hát, chớp bóng (chiếu phim) thường in và phát không (miễn phí) các tờ
này, noi theo cách làm của đồng nghiệp họ ở nước ngoài. Từ điển Merriam-Webster rất danh tiếng của Mỹ
giải thích: Chương trình là một tập sách mỏng hay một mảnh giấy
cung cấp thông tin về một buổi hòa nhạc, vở kịch, thi đấu thể thao, v.v… (a thin book or a piece of paper that gives
information about a concert, play, sports game, etc.)
Còn nghĩa thứ hai (ở các cuộc lễ) như hiền huynh nói tới, cũng đúng nữa.
Vẫn từ điển Merriam-Webster giải
thích: Chương trình là một loạt các việc làm để đạt được một kết
quả cụ thể (a plan [a set of actions] of things that are done in order to achieve a specific result).
Cả hai nghĩa này đều không đúng với danh xưng “Chương Trình Chung Tay Ần
Tống”; hiền huynh quả nhận xét chí lý. Tức là còn có ý nghĩa thứ ba, nói
dưới đây.
Hiền huynh biết rằng Liên Hợp Quốc (UN: United Nations) có nhiều hoạt động toàn cầu vì mục đích nhân đạo;
mỗi hoạt động đó được gọi là Programme (tiếng
Anh) hay Program (tiếng Mỹ), là chương
trình. Chẳng hạn:
- UNDP: The United Nations
Development Programme (Chương Trình Phát Triển của Liên Hợp Quốc).
- UNEP: The United Nations
Environment Programme (Chương Trình [bảo vệ] Môi Trường của Liên Hợp Quốc).
- WFP: The World Food Programme
(Chương Trình [trợ giúp] Lương Thực Thế Giới).
Từ điển Merriam-Webster giải
thích: Chương trình là một kế hoạch hay hệ thống theo đó có thể
thực thi hoạt động hướng về một mục tiêu (a
plan or system under which action may be taken toward a goal).
Trải qua nhiều thập niên dài, cộng đồng tín hữu Cao Đài chúng ta rất
thiếu kinh sách in ấn kỹ lưỡng (nghĩa là sạch lỗi chánh tả, cú pháp và thuật
ngữ đạo giáo chính xác rõ ràng, v.v…); do đó, gây trở ngại chẳng nhỏ cho người
trong và ngoài đạo Cao Đài muốn tìm hiểu về đạo Thầy.
Trước thực trạng này - là một nhóm tín hữu Cao Đài không
phân biệt chi phái, cũng không thuộc về một Hội Thánh, hay một tổ chức Cao Đài
bất kỳ - chúng tôi cảm thấy “bức xúc” nên tự tìm một “lối
thoát”. Chúng tôi gọi hoạt động ấn tống là “Chương Trình”, theo
đúng nghĩa thứ ba, như từ điển Merriam-Webster
(www.merriam-webster.com) giải thích.
[1] 舊俗常以衣冠子孫, 容止端嚴,學問通覽,任顧問者, 以為 御史. Cựu tục thường dĩ y quan tử tôn, dung
chỉ đoan nghiêm, học vấn thông lãm, nhậm cố vấn giả, dĩ vi ngự sử.