Trong đạo Thầy hay nói tới kinh Xuân Thu. Biểu tượng Tam Giáo của Đạo Thầy là Xuân
Thu, phất chủ, bát vu. Trong Phật Mẫu
Chơn Kinh có câu:
Xuân Thu,
phất chủ, bát vu
Hiệp quy Tam Giáo hữu cầu chí chơn.
Trong Thánh Ngôn Hiệp Tuyển,
quyển 1, phần Thi Văn Dạy Đạo, có
câu:
Xuân Thu định vững ngôi lương tể
Phất chủ quét tan lũ nịnh thần.
Vậy, kinh Xuân Thu là kinh gì?
*
Kinh Xuân Thu 春秋 là một trong
sáu kinh của Nho Gia (Thi, Thư, Lễ, Nhạc,
Dịch, Xuân Thu).
Thiên Thiên Hạ trong sách Trang Tử Nam Hoa Kinh chép:
“Thi để dẫn dắt ý chí, Thư để dẫn dắt công việc, Lễ để dẫn dắt hành vi, Nhạc để hòa, Dịch để hiểu âm dương, Xuân
Thu để nói về danh phận. Sáu thứ này là sáu môn học mà Nho Gia đem ra giảng
dạy cho người ta.”
Đời Hán, sử gia Tư Mã Thiên 司馬遷 (145-86
trước Công Nguyên) cho
rằng Đức Khổng Tử soạn bộ kinh này:
“Khổng Tử dựa vào sử ký mà soạn bộ Xuân
Thu, chép từ đời vua Ẩn Công (722-712) đến năm 14 đời vua Ai Công (tức năm
481 trước Công Nguyên) của nước Lỗ 魯, gồm mười hai đời vua.”
Và:
“Ý nghĩa của kinh Xuân Thu được
thi hành thì bọn loạn thần tặc tử phải sợ.” (Sử Ký, quyển 47, Khổng Tử Thế
Gia).
Thế nhưng, hiện nay các học giả đều cho rằng sáu kinh này không phải Đức Khổng
Tử trứ tác, ngài chỉ sửa sang tu bổ sáu kinh có sẵn từ trước mà thôi. Sáu kinh
ấy vốn là các môn học của giới quý tộc. Đức Khổng Tử là người đầu tiên đem sáu
kinh ấy ra giảng dạy cho thường dân.
Phần đông cho rằng Đức Khổng Tử muốn thực hành chủ nghĩa chính danh nên
mới soạn kinh Xuân Thu. Đức Mạnh Tử
nói Đức Khổng Tử soạn kinh Xuân Thu
là để cho “loạn thần và tặc tử phải sợ.” (Mạnh
Tử, Đằng Văn Công Hạ).
Kinh Xuân Thu thực chất là sách
sử của nước Lỗ, cũng như các sách sử nước khác trong thời Xuân Thu (770-476 trước
Công Nguyên). Đức Mạnh Tử nói:
“Thặng 乘 của nước Tấn, Đào Ngột 檮杌 của nước Sở, và Xuân Thu 春秋 của nước Lỗ đều là các sách có cùng
tính chất chép sử như nhau. Chủ đề là sự việc của Tề Hoàn Công, Tấn Văn Công,
còn văn phong là của sử.” (Mạnh Tử, Ly Lâu Hạ).
Các
vua nước Lỗ là dòng dõi của Chu Công và Lỗ là nước có lễ nghĩa, có lẽ thế mà kinh
Xuân Thu của nước Lỗ chân thực hơn
các bộ sử của các nước khác. Hàn Tuyên Tử sang nước Lỗ, khi xem sách ở quan
thái sử,([1])
rất chú ý Xuân Thu của Lỗ. Hoặc có lẽ
Xuân Thu của Lỗ có chỗ đặc biệt hơn Thặng của Tấn, Đào Ngột của Sở, cho nên trước Đức Khổng Tử đã có người lấy Xuân Thu làm sách giáo khoa. Sách Quốc Ngữ chép:
“Sở
Trang Vương sai Sĩ Vĩ dạy thái tử Châm. Sĩ Vĩ hỏi ý Thân Thúc Thời, Thời nói: Dạy
Xuân Thu để khuyến thiện trừng ác và
để răn lòng.” (Quốc Ngữ, quyển 17, Sở Ngữ Thượng).
Đến
đời Hán, Nho học độc tôn, địa vị Đức Khổng Tử và giá trị kinh điển Nho Gia càng
được nâng cao. Khoảng năm 136 trước Công Nguyên, Đổng Trọng Thư 董仲舒 (179?-104?)
dâng đối sách lên vua:
“Xuân Thu là bộ sách thâu tóm tất cả. Nó
là lẽ thường của trời đất, là nghị luận thông suốt xưa nay. Nay các thầy có đạo
khác nhau, mọi người ngôn luận khác nhau, trăm nhà khác nẻo, ý chỉ bất đồng. Vì
vậy trên không có người giữ mối thống nhất, pháp chế thay đổi mấy lần, kẻ dưới
không biết đâu mà theo. Cứ ý của ngu thần thì bất cứ khoa gì không thuộc lục
kinh, không phải học thuật của Đức Khổng Tử thì cứ diệt chúng đi, không cho
bành trướng. Những thuyết tà vạy mà dứt rồi thì mới có thống nhất, pháp độ mới
rõ ràng, dân mới biết nên theo về đâu.” (Tiền
Hán Thư, quyển 56, Đổng Trọng Thư Truyện).
Trong hệ thống kinh điển của Nho Gia, kinh
vốn cô đọng hàm súc khó hiểu, nên về sau có sách giải thích kinh, gọi là truyện. Theo Hán Thư - Nghệ Văn Chí,
có năm truyện giải thích kinh Xuân Thu
là:
Tả Thị Truyện 左氏傳,
Công Dương Truyện 公羊傳,
Cốc Lương Truyện 榖梁傳,
Giáp Thị Truyện 夾氏傳, và
Trâu Thị Truyện 鄒氏傳.
Hai truyện sau đã mất, hiện còn ba truyện trước, gọi là Xuân Thu Tam Truyện 春秋三傳.
Tả Thị Truyện 左氏傳 (cũng gọi Xuân
Thu Tả Thị Truyện 春秋左氏傳, Tả Truyện 左傳, Tả Thị Xuân Thu 左氏春秋) được biên soạn cuối thời Chiến Quốc (475-221 trước Công Nguyên). Soạn
giả tương truyền là Tả Khâu Minh 左丘明,
nhưng từ đời Đường các học giả đã hoài nghi, không chắc Tả Thị là Tả Khâu Minh.
Công Dương Truyện 公羊傳 (cũng gọi Xuân Thu Công Dương Truyện 春秋公羊傳, Công Dương Xuân Thu 公羊春秋) tương truyền do Công Dương Cao 公羊高 người
nước Tề thời Chiến Quốc biên soạn. Công Dương Cao là học trò của Tử Hạ 子夏 (tức Bốc Thương卜商) mà
Tử Hạ là học trò của Đức Khổng Tử.
Cốc Lương Truyện 榖梁傳 (cũng gọi Xuân Thu Cốc Lương Truyện 春秋榖梁傳) tương
truyền do Cốc Lương Xích 穀梁赤 (còn gọi Cốc Lương Hỷ
穀梁喜, Cốc Lương Thục 穀梁淑), người nước Lỗ thời Chiến Quốc, là học trò của Tử Hạ, biên soạn.
*
Tranh tượng Quan Thánh thường vẽ Quan Vũ
ngồi giữa hổ trướng, tay cầm quyển kinh Xuân Thu, bởi vì sinh thời, Quan Vũ thường
xuyên đọc kinh Xuân Thu. Ngài giáng cơ tự thuật trong kinh Minh Thánh (đời nhà
Thanh):
Ta
thường đọc kinh Xuân Thu, ấu thơ xem sách của Khổng Tử và Mạnh Tử, chỉ lấy
hiếu đễ làm đầu, lấy sửa mình giúp nước làm gốc.
Kinh Bình Minh Đệ Nhứt (Sài Gòn, 1968, tr.
25-26) có nói đến việc Quan Vũ lập chí theo kinh Xuân Thu:
Bộ Xuân
Thu nằm lòng vẹn giữ
Sống phải lo cư xử cho tròn
Đối
cùng với nước với non
Sao
ra nghĩa khí lòng son một màu.
Đó cũng là lý do khiến các câu đối ở đền
thờ Đức Quan Thánh hay nhắc đến kinh Xuân Thu:
- Chí
tại Xuân Thu, công tại Hán / Trung đồng nhật nguyệt, nghĩa đồng thiên.
- Duy
xã tắc, công cao Vũ Mục / Độc Xuân Thu, đức phối Văn Xương.
- Khổng
Phu Tử, Quan Phu Tử, vạn thế lưỡng Phu Tử / Tu Xuân Thu, độc Xuân Thu,
thiên cổ nhất Xuân Thu.
- Thanh
dạ độc Xuân Thu, nhất điểm đăng quang xán kim cổ / Cô chu phạt Ngô Ngụy,
thiên thu hạo khí quán càn khôn.([2])
LÊ ANH MINH
15-12-2013
[2] Huệ Khải, Quan Thánh Xưa Và Nay. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2013, tr. 13-14. Quyển
59 trong Chương Trình Ấn Tống.
Người biết ta cũng chỉ ở kinh Xuân Thu.
Người trách tội ta cũng chỉ ở kinh Xuân Thu.
Tri ngã giả kỳ duy Xuân
Thu hồ.
Tội ngã giả kỳ duy Xuân
Thu hồ.
知 我 者, 其 惟 春 秋 乎.
罪 我 者, 其 惟 春 秋 乎.
ĐỨC KHỔNG TỬ