Sách "Toàn Thư Tự Học Chữ Hán" của Trần Văn Chánh và Lê Anh Minh
Chữ Hán từ thế kỷ trước đã trở thành một thứ vốn liếng quý hiếm đối
với người Việt.
Ngày nay, phần đông chúng ta học ngoại ngữ chủ yếu để tìm lợi ích vật
chất trên đường công danh sự nghiệp. Âu cũng là lẽ tự nhiên, không nên phê
phán.
Tuy nhiên, đối với người học đạo, và đặc biệt đối với người có tâm
đạo muốn xiển minh giáo lý Đại Đạo Kỳ Ba, thì chữ Hán quá cần thiết, không thể
bỏ qua.
Xưa nay, thánh ngôn thánh giáo hay bị chép sai sót, hiểu lầm và giảng
lầm, vốn có nhiều nguyên nhân. Một nguyên nhân không thể phủ nhận, đó là vì người
đạo chúng ta thiếu chữ Hán!
Văn Uyển giới thiệu sau đây bài viết của nhà nghiên cứu TRẦN VĂN
CHÁNH - một người đã tự học
chữ Hán thành công, đã soạn một số sách tự học chữ Hán và từ điển Hán Việt.
Mong rằng quý đạo hữu quan tâm tới việc tự học chữ Hán sẽ thấy hữu ích.
*
Tôi chọn lối “tản mạn” để
không bị ràng buộc phải theo một bố cục chặt chẽ khi trình bày một số vấn đề
liên quan. Nói tới học chữ Hán, với một người mới chỉ có ý thích và ý định thôi
nhưng thực tế chưa từng học qua thì tâm lý chung thường dẫn họ đến mấy câu hỏi
đầu tiên đại loại như: Chữ Hán với chữ Nho và chữ Nôm có gì giống và khác nhau?
Học chữ Hán dễ hay khó? Học chừng bao lâu thì đạt được kết quả như mong muốn? Có
thể tự học được không hay bắt buộc phải có thầy dạy?...
Trước hết có thể xác định: Học
chữ Hán, nếu là chữ Hán cổ với tính cách là một tử ngữ, học để nghiên cứu, đọc
sách, viết hoặc dịch thuật… thì có thể tự học được. Học Hán ngữ hiện đại (tức
tiếng phổ thông hay bạch thoại) nếu cũng chỉ nhằm vào những mục đích tương tự
như trên mà không nhằm giao dịch bằng lời nói thì cũng có thể tự học. Trái lại,
nếu học Hán ngữ hiện đại với tính cách nó là một sinh ngữ dùng để đàm thoại
trong giao dịch thông thường hoặc làm ăn mua bán thì thường thường, nếu không
muốn nói nhất thiết, phải có thầy dạy, và những lớp dạy Hoa ngữ như vậy hiện
nay đang có khắp nơi trong nước, ai muốn học đều có thể ghi danh dễ dàng.
Trước hết, để nói cho người
chưa nhập môn, chúng ta nên phân biệt Hán cổ và Hán hiện đại, mà người ta còn gọi
là văn ngôn và bạch thoại. Đây là hai thể văn của người Trung Quốc, trong đó bạch
thoại còn gọi ngữ thể là thể văn viết theo tiếng nói thực tế ngoài xã hội, còn văn
ngôn hay cổ văn (hay Hán cổ) là loại bút ngữ chỉ dùng trong việc biên chép hoặc
trứ thuật thời trước. Ngày nay, văn ngôn đã trở thành một tử ngữ chỉ dùng cho
việc nghiên cứu văn hóa lịch sử của các triều đại, mà người Trung Quốc nếu
không được dạy thêm cũng không thể viết hoặc đọc hiểu. Do vậy, ngay tại đất nguồn,
người Trung Quốc cũng phải học cổ văn gần giống như học một ngoại ngữ, hoặc như
người Việt học Hán cổ (chỉ khác về cách phát âm), mới có thể tiếp cận, thưởng
thức được các công trình của tổ tiên họ. Rất nhiều sách dạy cổ văn từ bậc tiểu
học đến bậc đại học đã được xuất bản, phổ biến tại Trung Quốc (kể cả lãnh thổ
Đài Loan). Hầu hết các sách Hán cổ của họ đều đã được dịch ra và chú giải bằng bạch
thoại (Hán ngữ hiện đại), gọi là “ngôn văn đối chiếu”, hoặc “dịch chú”, “đối dịch”,
“thông dịch”, “tân dịch” (bản dịch mới)…, giúp thế hệ con cháu đọc hiểu được tư
tưởng của tiền nhân trong các sách cổ Thi
Kinh, Luận Ngữ, Lão Tử, Trang Tử, Cổ Văn Quan Chỉ,
Đường Thi Tam Bách Thủ, Tam Tự Kinh, Thiên Tự Văn… Cũng nhờ vậy mà người Việt Nam chúng ta ngày nay cũng
dùng “ké” vào được, điều đó có nghĩa một người thông thạo Trung văn (Hán ngữ hiện
đại) mà chưa rành cổ văn cũng có thể tham khảo đọc hiểu được các bản cổ văn đã
được chuyển dịch sang bạch thoại.
Văn ngôn tương đương với cái
mà chúng ta gọi chữ Nho. Ngày xưa các cụ học chữ Nho là để đọc sách thánh hiền
chứ không để nói; khi gặp một người Trung Hoa có học vấn, hai bên có thể “bút
đàm” với nhau, như trường hợp cụ Phan Bội Châu thời xưa khi qua gặp Lương Khải
Siêu (Trung Quốc) hoặc Khuyển Dưỡng Nghị (Nhật Bản) cũng phải giải quyết trở ngại
ngôn ngữ bằng kiểu đó. Đây cũng là khía cạnh độc đáo của chữ Hán cổ, một loại
chữ viết – văn viết chứ không để nói, mà thứ chữ đó đầu tiên được cấu tạo bằng
các lối tượng hình, hội ý…, không ghi lại theo âm thanh của tiếng nói như trong
trường hợp chữ Nôm ghi âm đọc tiếng Việt, hoặc các ký tự Latinh ghi âm đọc của
chữ Pháp, chữ quốc ngữ...
Lại nói về chữ Nôm và Hán
Nôm. Chúng ta thường gặp nhiều người đã có trình độ học vấn phổ thông rồi nhưng
vẫn chưa phân biệt được chỗ khác nhau giữa chữ Hán với chữ Nôm, và Hán Nôm khác
với Hán ngữ nói chung như thế nào. Họ không hiểu rõ chữ Hán là chữ của dân tộc
Hán tức người Trung Hoa, được viết bằng những nét “ngoằn ngoèo rối rắm” nhưng
trông vào thì có vẻ đẹp hấp dẫn, còn chữ Nôm chính là một loại chữ Việt cổ, mượn
nét của chữ Hán và phép cấu tạo hài thanh của nó để ghi thanh âm tiếng Việt,
như khi Nguyễn Du làm câu thơ đầu truyện Kiều Trăm năm trong cõi người ta thì phải viết toàn chữ Nôm (chữ Việt cổ).
Trong khi đó, nếu chữ Hán thì trăm năm
phải nói bách niên, bách tuế… ; trong là trung; còn cõi người ta là
nhân gian, nhân sinh… chẳng hạn. Câu
thơ trên khi Hoàng Dật Cầu (Trung Quốc) chuyển truyện Kiều sang chữ Hán, phải dịch là nhân
sinh bất mãn bách 人生不滿百, là chỉ dịch thoát. Chữ trăm
trong chữ Nôm được tạo nên bằng chữ 百 (bách) ở trên là trăm để chỉ ý nghĩa, và chữ 林 (lâm) ở dưới để chỉ âm
đọc, cũng là một lối chữ hình thanh, có cách cấu tạo tương tự chữ Hán.
Do chữ Nôm cấu tạo bằng những
nét và thể thức của chữ Hán nên phải biết chữ Hán kha khá trước rồi mới có thể
học qua chữ Nôm được.
Còn Hán Nôm là gì? Hán Nôm
thường để gọi gộp chung chữ Hán và chữ Nôm, đồng thời cũng chỉ vào những thư tịch
cổ của người Việt Nam viết bằng chữ Hán, như các sách Khâm Định Việt Sử (Quốc Sử Quán triều Nguyễn), Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh (Lê Hữu Trác), Hoạt Nhân Toát Yếu (Hoàng Đôn Hòa), Hoàng Việt Văn Tuyển (Bùi Huy Bích), Thượng Sĩ Ngữ Lục, Thiền Uyển
Tập Anh Ngữ Lục (đời Trần)… hoặc những truyện Nôm, thơ Nôm, văn cúng viết bằng
chữ Nôm…, đều là nằm chung trong kho tàng Hán Nôm của người Việt. Về mặt từ vựng
và ngữ pháp, khi người Việt xưa sử dụng chữ Hán (mượn của Trung Quốc) để diễn đạt
những vấn đề và sự vật của nước mình, đã phải sáng tạo ra một số từ ngữ mà
Trung Quốc không có, như nói ngưu lao
牛牢 là trâu bò, cao 高 là sào (đơn vị đo ruộng), tượng
phường binh 象坊兵 là lính giữ voi, kiên thán
堅炭 là than đá, nam trân 南珍 là trái loòng
boong…, đều là những từ ngữ không tìm thấy trong bất kỳ từ điển nào của người
Trung Quốc. Một số từ Hán Việt hiện đại như hoa
hậu, hải phận… cũng không có trong kho từ vựng của Trung Quốc. Về ngữ pháp,
một số hư từ đã được dùng riêng theo lối Việt Nam như hồ nhi (sao mà), tồn như
(còn như)… cũng không thấy trong tiếng Hán chính thức của người Hán.
Còn về ngữ âm, thì người
Trung Quốc đọc chữ Hán theo âm của họ (khác nhau tùy theo địa phương), người Việt
đọc theo âm Hán Việt, như hai chữ 天地 (trời đất) đọc theo âm Quảng Đông
là thín tì, theo âm Bắc Kinh là thí-ến tí, đọc theo âm Hán Việt là thiên địa; chữ 三 (ba) âm Quảng Đông đọc xám,
âm Bắc Kinh đọc sán, âm Hán Việt đọc tam… Như vậy dù đọc theo âm nào, ở đâu,
ai biết chữ nhìn vào chữ 三 (tam) cũng biết
ý nghĩa nó là ba (số lớn hơn 2, nhỏ
hơn 4).
Cách đọc Hán Việt thường được
hiểu đơn giản là cách đọc chữ Hán ở Việt Nam , bằng lối đọc riêng của người
Việt. Theo các nhà nghiên cứu, cách đọc này bắt nguồn từ hệ thống ngữ âm tiếng
Hán thời Đường, cụ thể là Đường âm dạy ở Giao Châu vào khoảng thế kỷ VIII-IX,
nhưng dần dần có sự biến đổi theo quy luật ngữ âm tiếng Việt để trở thành một
cách đọc riêng biệt của người Việt…[1]
Chữ Hán cổ đọc theo âm Hán Việt
(tức chữ Nho) từ khá lâu đã trở thành một tử ngữ nhưng nó vẫn giữ vai trò rất
quan trọng vì trong tiếng Việt hiện đại, có đến 50-70 % từ ngữ gốc Hán. Nếu
không am hiểu chữ Hán sẽ rất khó hiểu đầy đủ và vận dụng tiếng Việt một cách
chính xác, thuần nhã. Ngoài ra, để đi sâu nghiên cứu văn hóa − lịch sử cổ của
Việt Nam, cũng như để thưởng thức được những danh tác thơ, văn, triết lý của cả
Trung Quốc lẫn Việt Nam vốn chứa đựng nhiều tinh hoa tư tưởng phương Đông rất
thâm trầm sâu sắc liên quan đến mọi lĩnh vực của đời sống, nếu không biết chữ
Hán thì cũng khó đi vào, đừng nói chi thâm nhập. Nói như ông Dương Ngọc Dũng có
vẻ khẳng định nhưng không xa sự thật là mấy: “Đối với người Việt Nam
học triết phương Đông đồng nghĩa với học tiếng Tàu mà tiếng Hán cổ thì khó quá.
Ngay cả người Trung Quốc còn phải than tiếng Hán cổ là khó huống hồ là người Việt…
Nếu chỉ cần đọc chơi cho biết thì không nói làm gì chứ thực sự muốn nghiên cứu
dài hơi thì không thể không vượt qua khâu học tiếng Hán… Khó thì khó thật nhưng
phần thưởng thật là lớn lao, xứng đáng. Không có niềm vui sướng nào lớn hơn khi
nhìn thấy qua những nét bút ngoằn ngoèo phức tạp cả một thế giới ý nghĩa từ từ
hiện ra. Có lẽ đó chính là niềm thích thú của những người học cổ văn. Đối với kẻ
khác đó là một kho tàng bí mật mà chìa khóa đã bị quăng mất, nhưng đối với
người am hiểu, kho tàng mở ra với bao nhiêu điều thú vị, những điều mà ngay cả
một bản dịch tốt nhất cũng chỉ là những tiếp cận nhạt nhẽo không có sức sống,
không có linh hồn…” [2]
Trước năm 1975, ở miền Nam,
theo chương trình giáo dục chính quy, chữ Hán cổ được dạy mỗi tuần một giờ ở bậc
trung học, nhưng ít có trường nào thực hiện đúng vì thiếu giáo viên và cũng vì
ít có giá trị thực dụng hơn so với tiếng Anh, tiếng Pháp, tuy nhiên lúc đó người
ta vẫn duy trì ban D là ban cổ ngữ ở cấp thi tú tài I và tú tài II để thí sinh
có thể tùy chọn giữa hai môn Hán cổ và cổ ngữ La Tinh. Trên thực tế, chữ Hán chỉ
được dạy chính thức ở các khoa Văn, Sử, Triết của bậc đại học (mỗi tuần vài giờ),
hoặc trong một lớp chuyên tu Hán Nôm nào đó, và ở một số chùa chiền, còn phần lớn
là học trong các sách tự học. Mà những người có cơ may học trong trường lớp, nếu
không đeo đuổi tự học thêm thì sau một thời gian bao nhiêu chữ cũng trả lại hết
cho thầy, đến đọc một đôi câu đối hoặc dòng chữ Hán trong toa thuốc bắc cũng
không hiểu nổi!
Như trên đã nói, chữ Hán cổ hoàn
toàn có thể tự học được, mặc dù nếu có thầy dạy thì vẫn tốt hơn. Theo sự hiểu
biết của tôi thì một số cụ tiền bối giỏi Hán cổ như Phạm Quỳnh, Đào Duy Anh,
Nguyễn Hiến Lê, Phạm Tất Đắc, Phùng Tất Đắc (Lãng Nhân)… đều là những người chủ
yếu tự học. Thế hệ bây giờ vẫn tiếp nối có những dịch giả với nhiều công trình nghiên
cứu, dịch thuật khá giá trị như Lý Việt Dũng, An Chi (Huệ Thiên, tức Võ Thiện
Hoa), Nguyễn Tôn Nhan, Nguyễn Duy Chính, Lê Anh Minh, Phạm Hoàng Quân, v.v… đều
do tự học mà đạt được những thành tích rất đáng trân trọng.
Trong khoảng 50-60 năm trở lại
đây, khi Hán học suy tàn, sách tự học chữ Hán trái lại được xuất bản lần lượt khá
nhiều, như một cách để cứu vãn tình thế, còn trước đó nữa thì hầu như không có
sách tự học. Truy lại khoảng những năm 40 của thế kỷ trước, chúng ta được biết,
ngoài những cuốn như Nhất Thiên Tự, Tam Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Minh Tâm Bảo
Giám… được một số dịch giả (có lẽ Trương Vĩnh Ký là người đầu tiên) đem ra
phiên âm, dịch nghĩa, còn thì loe hoe chỉ có mấy cuốn đáng gọi “tự học” như:
Hán Tự Tự Học của Nguyễn Xuân Lâm (1942),
Hán Học Tiệp Kính và Hán Văn Quy Tắc của Nguyễn Di Luân và Trần
Quốc Trinh (cuốn sau, thư viện chùa Huệ Quang mới sưu tầm được),
Hán Văn Tự Học (sau đổi thành Nho Văn Giáo Khoa Toàn Thư) của Nguyễn
Văn Ba,
Hán Tự Tân Phương của Tạ Quang
Phát …
Để bổ sung, người tự học đôi
khi phải tìm thêm những sách dạy, nhất là về ngữ pháp, của một số tác giả người
Pháp như Cordier, Margouliès, Wieger, Ramusat… nhưng phần lớn những sách này đều
biên soạn rất sơ sài.
Tại miền Nam trước năm 1975,
còn có nhiều sách tự học chữ Hán của một số tác giả khác như Võ Như Nguyện và Võ
Hồng Giao, Lưu Khôn, Nguyễn Khuê, Trần Trọng San, Trần Văn Quế, Huỳnh Minh Đức,
Đào Mộng Nam, v.v… Mỗi cuốn đều có ưu khuyết điểm riêng và cuốn nào dùng cũng lợi
ích, nhưng riêng tôi thích nhất bộ Hán Văn
của Trần Trọng San (Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh có tái bản lần thứ nhất năm 1996),
chủ yếu lấy các bài khóa từ bộ Tân Quốc
Văn của Trung Quốc làm giáo trình, nhưng biên soạn cẩn thận, trình bày sáng
sủa ngắn gọn mà có phương pháp, lại có thêm phần văn phạm (ngữ pháp) và văn tuyển.
Học hết quyển đó có thể bắt đầu đọc gần hiểu được những sách thông thường viết
bằng cổ văn, với điều kiện là phải chịu khó tra thêm những chữ khó chưa biết.
Trong suốt thời gian 50-70
năm, góp thêm vào việc tự học chữ Hán cổ, phải kể đến hai bộ tự / từ điển Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh (1931)
và Hán Việt Tự Điển của Thiều Chửu
(1942). Hai bộ này tuy còn không ít khuyết điểm nhưng đều có công rất lớn cho
việc tự học chữ Hán của người Việt Nam trong suốt mấy mươi năm dài.
Riêng cuốn của Thiều Chửu, nhờ có số tự nhiều hơn và chứa đựng nhiều từ ngữ Phật
Giáo nên được các nhà sư dùng nhiều, đến nay vẫn còn hữu dụng và được biên tập
lại cho hợp lý hơn để tái bản nhiều lần.
Nói “Hán học suy tàn”, nhưng
càng về sau, sách dạy chữ Hán cả cổ lẫn hiện đại đều xuất hiện mỗi ngày một thêm
nhiều, hoặc soạn mới, hoặc được tái bản từ những sách cũ trước đây. Riêng sách
tự học Hán cổ, có những sách như Giáo Trình
Hán Văn của Chu Thiên (do nhóm biên tập Bùi Xuân Trường, Lạc Thiện, và Nguyễn
Thịnh thực hiện, Nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 2002), Toàn Thư Tự Học Chữ Hán của Trần Văn Chánh và Lê Anh Minh…; cuốn
sau này nhờ biên soạn sau nên gom góp tham khảo được một số ưu điểm của những
người đi trước và hiện cũng đang được dùng khá phổ biến. Về ngữ pháp, có những
sách của Phạm Tất Đắc, Trần Văn Chánh, và một cuốn gọn hơn, Ngữ Pháp Hán Văn của nhà sư Thích Tuệ
Dũng dùng thích hợp cho các tu sĩ Phật Giáo. Về hư từ, có những sách của Trần
Thước, Trần Văn Chánh… Riêng về từ điển Hán Việt (không kể của Đào Duy Anh và
Thiều Chửu) thì có khá nhiều, người học có thể tự chọn một quyển nào thích hợp
cho hoàn cảnh mua sắm và mục đích học tập của mình.
Ai biết tiếng Anh, có thể tìm
thêm mấy cuốn sau đây, biên soạn rất tốt:
- J. Brandt, Introduction to Literary Chinese. New York : Frederick
Ungar Publishing Company.
- Harold Shadick, A First Course in Literary Chinese. Ithaca and London : Cornell University Press, 1992.
- Gregory Chiang, Language of the Dragon. USA : Cheng and
Tsui Company, 1998.
Chuyên về ngữ pháp Hán cổ, nếu
có điều kiện, có thể tìm cuốn Outline of
Classical Chinese Grammar của Edwin G. Pulleyblank, do UBC Press /
Vancouver in năm 2000.
- V.v…
Như vậy tính ra, với điều kiện
mới bây giờ, người tự học chữ Hán có được thuận lợi hơn những lớp người đi trước
đến cả chục lần, ấy là còn chưa kể đến những phương tiện hiện đại (nhất là các
sách công cụ, từ điển lớn nhỏ, từ điển chuyên dùng đủ loại…) mà chúng ta có thể
truy cập bất cứ giờ phút nào trên internet.
Khi học được một vài trong số
những sách đã được giới thiệu trên đây, coi như hết chặng đường đầu, người học
tự nhiên sẽ có khả năng tham khảo trực tiếp dần những sách viết bằng chữ Hán xuất
bản tại Trung Quốc, và khi đó tha hồ lựa chọn mà chẳng mấy cần phải có ai hướng
dẫn, vì nó phong phú vô cùng, hiện có thể tìm được ở hiệu sách Đại Thế Giới (quận
5) hoặc Fahasa Tân Định, và vài hiệu sách tư nhân nhỏ ở góc Triệu Quang Phục và
Nguyễn Trãi trong Chợ Lớn.
Ở giai đoạn này, bạn có thể đọc
vài tiểu thuyết chủ yếu viết bằng văn ngôn như Tam Quốc Chí, Thủy Hử, Đông Chu Liệt Quốc Chí…(bán rất nhiều ở
mấy hiệu sách tiếng Hoa với giá rẻ) để vừa thưởng thức, vừa tự rèn luyện thêm
khả năng đọc hiểu Hán cổ. Cụ Nguyễn Hiến Lê khi tự học chữ Hán đến giai đoạn
này, đã ghi lại cảm tưởng của mình trong quyển Tự Học Một Nhu Cầu Thời Đại:
“Trước bạn học thấy khó nhọc bao nhiêu, thì bây giờ bạn thấy thú bấy
nhiêu. Công của bạn đã được đền bù. Không bao giờ tôi quên được những phút say
mê, khi mới biết lõm bõm ít chữ Nho, tôi đọc lời bình phẩm Tam Quốc Chí của
Thánh Thán: Trời thì rét căm, ngọn đèn thì lù mù mà tới 11 giờ khuya tôi vẫn
còn ngồi trước cuốn sách. Tôi tưởng ai học chữ Hán cũng được phần thưởng vô giá
ấy.” (Sài Gòn: Nxb Thanh Tân, 1967, tr. 133-134.)
Để có thể tham khảo được sách
Trung Quốc, người tự học trước đó cũng nên tự học qua văn bạch thoại, bằng cách
tìm hiểu các từ ngữ và ngữ pháp riêng của tiếng Hán hiện đại (khác nhiều với
Hán cổ), và như thế trong tủ sách cũng không thể thiếu một bộ từ điển tiếng Hán
hiện đại đáng tin cậy mà mình có thể lựa chọn thoải mái ở các hiệu sách với giá
không cao lắm. Như vậy, để vừa học thêm cổ văn, đọc được các tác phẩm cổ từ Tứ Thư
Ngũ Kinh đến bách gia chư tử… thông qua các bản dịch bạch thoại, vừa có thể đọc
được sách báo hiện đại của Trung Quốc.
Ngoài ra trong nhà cũng nên
có sẵn một số bản dịch tiếng Việt các tác phẩm kinh điển, để vừa đọc vừa học,
như Thi Kinh (các bản dịch của Tản Đà, Tạ Quang Phát, Nguyễn Thị Hảo…), Luận Ngữ (các bản dịch của Đoàn Trung Còn,
Lê Phục Thiện, Nguyễn Hiến Lê…), Đại Học
(các bản dịch của Đoàn Trung Còn, Tạ Thanh Bạch…), Trung Dung (các bản dịch của Đoàn Trung Còn, Phan Khoang, Tạ Thanh
Bạch…), Mạnh Tử (của Nguyễn Đôn Phục
và Nguyễn Hữu Tiến…), Lão Tử (các bản
dịch của Nghiêm Toản, Nguyễn Duy Cần, Phan Ngọc…), Đường Thi (các bản dịch của Tản Đà, Ngô Tất Tố, Trần Trọng Kim, Trần
Trọng San, Lê Nguyễn Lưu…), Cổ Văn (tức
Cổ Văn Quan Chỉ, các bản dịch của
Nguyễn Hiến Lê, Hoàng Khôi…), Sử Ký Tư Mã
Thiên (các bản dịch của Nguyễn Hiến Lê, Nhữ Thành…). Một số loại sách đặc
biệt khó đọc như Văn Tâm Điêu Long của
Lưu Hiệp… thì người đọc nhất thiết phải tham khảo bản dịch sang bạch thoại của
Trung Quốc hoặc sang tiếng Việt (như của Nguyễn Thị Hảo), mới có thể hiểu được,
vì đối với loại sách này, các học giả phần lớn phải khảo từng câu từng chữ để
khám phá các ý nghĩa, chứ không ai đọc ron rót được.
Ở Trung Quốc, có khá nhiều
sách công cụ để tra cứu riêng cho từng thể loại văn cổ, như có những sách tra
riêng cho tiểu thuyết, thơ Đường, nhân danh, địa danh… Tự điển, từ điển Hán cổ
phổ thông thì nên có ít nhất ba bộ, trước đây thông dụng là Khang Hi Tự Điển, Từ Nguyên, Từ Hải, còn bây
giờ có thể chỉ cần Hán Ngữ Đại Tự Điển,
Hán Ngữ Đại Từ Điển và một bộ Từ Hải là đủ. Bộ sau cùng vừa có tính
ngôn ngữ vừa có tính bách khoa, còn hai quyển đầu tính cho đến hôm nay vẫn là
công trình từ thư [3]
quốc gia lớn nhất của người Trung Quốc, nhưng nếu chưa có nhu cầu gì lớn, có thể
chỉ cần mua bản rút gọn hay bản phổ cập (súc
ấn bản, phổ cập bản) cho rẻ (cách nay mấy năm, giá ở các hiệu sách chừng năm,
sáu trăm ngàn).
Muốn đọc được chữ Hán theo lối
phiên thiết, nên có bộ Khang Hi hoặc Từ Hải bản in cũ (vì ấn bản mới, phần
chú âm phiên thiết đã bị loại bỏ), nhưng nếu có cơ hội, nên tìm bộ Vương Lực Cổ Hán Ngữ Tự Điển (Trung Hoa
Thư Cục, 2000), trong đó phần chú âm phiên thiết rất rõ ràng mạch lạc. Về Hán
ngữ cận đại, tức những từ ngữ xuất hiện từ khoảng Đường, Tống trở về sau, nên
tham khảo quyển Cận Đại Hán Ngữ Từ Điển
của Tri Thức Xuất Bản Xã in năm 1992, hơi khó tìm, nhưng tôi được biết tại thư
viện Tu Viện Huệ Quang hiện có giữ được bản photocopy.
Nên nhớ, mỗi loại sách đều có
đặc điểm ngôn ngữ và phong cách diễn đạt riêng, ai “chuyên trị” lĩnh vực nào
thì chỉ quen đọc hiểu sành hơn trong lĩnh vực đó. Về Hán cổ mà thuộc Hán Nôm,
nên tìm cho được bộ Cơ Sở Ngữ Văn Hán Nôm
do Lê Trí Viễn chủ biên, gồm bốn tập (Nxb Giáo Dục, 1984-1987), trong đó riêng
tập bốn có giới thiệu một số thể loại Hán văn đặc thù như văn bia, thần tích, sắc,
luật lệ, bằng, trát, bẩm, biên từ, đơn, văn tự, chúc thư, gia phả, văn cúng… của
Việt Nam, mà nếu chỉ học cổ văn thông thường thì chúng ta không thể đọc hiểu chúng
một cách chính xác.
Riêng đối với các kinh luận,
Phật thư, nó là một loại ngôn ngữ pha trộn giữa Hán cổ với cận đại (một thứ bạch
thoại cổ), có pha lẫn nhiều từ phiên âm gốc Phạn ngữ nên đọc ra thấy khác hẳn
kinh truyện của Nho gia, đặc biệt là những tập ngữ lục của thiền sư Trung Hoa,
Việt Nam. Khác về từ vựng lẫn ngữ pháp, như kiểu cấu trúc hành thâm (thay vì thâm hành)
trong Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, như thị ngã văn (thay vì ngã văn như thị) của hầu hết các kinh… Để
đọc hiểu kinh Phật, chúng ta còn nên tham khảo thêm các loại từ điển riêng của Phật
Giáo. Ở Việt Nam ngoài quyển của Đoàn Trung Còn thông dụng đã lâu, hiện còn có
thêm những quyển mới khác như Từ Điển Phật
Học Hán Việt của Kim Cương Tử (chủ biên), Từ Điển Phật Học của Chân Nguyên và Nguyễn Tường Bách, Từ Điển Phật Học Huệ Quang (tám quyển,
do Thích Minh Cảnh chủ biên), Phật Quang
Đại Từ Điển (tám quyển) do Thích Quảng Độ dịch. Hai quyển sau cùng đầy đủ
nhất, nhưng chi phí mua hơi cao (đều trên dưới ba triệu đồng). Đặc biệt, nếu muốn
đọc hiểu những thư tịch của Thiền Tông, chúng ta nên có thêm bộ Từ Điển Thiền Tông Hán Việt do Hân Mẫn và
Thích Thông Thiền biên dịch, trong đó chứa đựng rất nhiều đặc ngữ của Thiền
Tông, khác hẳn với ngôn ngữ cổ thông thường và cũng không giống với Hán ngữ hiện
đại. Ngoài ra, người học khi đã ở trình độ kha khá, có thể tham khảo thêm những
kinh điển Phật Giáo của người Trung Quốc dịch ra bạch thoại, trong đó có những
lời chú giải khá kỹ cho những chỗ dùng đặc biệt về ngữ nghĩa và ngữ pháp, đại
khái như các sách Phật Giáo Nhập Môn Tam Tự
Kinh (Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã, 2002), Phật Học Văn Học Túy Biên (Thượng Hải Cổ Tịch Xuất Bản Xã, 1999)…
Khi mới “nhập môn” bạn có thể
dùng bất cứ loại sách tự học nào như đã kể trên kia. Trong các sách này, các
tác giả phần lớn đều giới thiệu qua một số khái niệm và tri thức cơ bản, như sáu
phép cấu tạo chữ Hán (gọi là Lục Thư), giới thiệu 214 bộ chữ Hán truyền thống
(các từ điển mới về sau đã có cải cách, nên không còn đúng 214 bộ nữa), chữ Hán
phồn thể (viết đủ nét) và giản thể (viết rút gọn), cách tra và đọc chữ Hán
trong các loại từ điển (theo bộ, theo số nét, theo tứ giác hiệu mã…), cách viết
chữ Hán (theo lối “bút thuận”)… Việc nắm vững sáu phép cấu tạo, cũng như học thuộc
từ từ 214 bộ chữ Hán có ý nghĩa rất quan trọng, vì tuy nói chữ Hán “ngoằn ngoèo
phức tạp” nhưng thật ra chúng cũng có quy củ nhất định. Nếu hiểu được sáu cách
cấu tạo và thuộc được dần dần các bộ chữ Hán (tương đương như 214 chữ cái),
chúng ta đã nắm được cái chìa khóa đầu tiên để đọc và nhớ được chữ Hán một cách
không khó khăn lắm. Ngoài ra ta còn có thể căn cứ vào đó để đoán nghĩa tổng
quát cho một số chữ Hán mới gặp. Chẳng hạn đã biết chữ 同 đọc là đồng (cùng, cùng
nhau), thì có thể đoán ra các chữ 桐, 筒, 銅 cũng đọc đồng nhưng chữ
thứ nhất viết bộ mộc 木 thì có nghĩa liên quan đến cây cối (cây ngô đồng), chữ thứ hai viết
bộ trúc 竹 nên có nghĩa là cái ống, còn chữ thứ ba viết bộ kim 金 nên có thể hiểu là một thứ kim loại có tên đồng (ký hiệu hóa học
là Cu). Chữ tiêm 尖 (nhọn) cấu tạo theo phép hội ý gồm chữ đại dưới, chữ tiểu trên,
bởi vật gì trên nhỏ dưới lớn tất phải nhọn…
Muốn đọc được những chữ Hán lạ
nhưng chưa được ghi trong các từ điển Hán Việt đã xuất bản, ta lại phải học
thêm cách đọc phiên thiết, mà tôi đã có dịp trình bày trong bài “Đọc Chữ Hán Bằng
Phương Pháp Phiên Thiết” đăng trong tập sách Suối Nguồn số 1 (tháng 5-2011).
Đến đây, chúng ta vẫn chưa trả
lời hai câu hỏi học chữ Hán dễ hay khó, học chừng bao lâu… là những câu hỏi mà
bất kỳ ai đang có ý định học cũng nôn nóng muốn biết.
Ở đây xin mượn kinh nghiệm của
nhà văn hóa − học giả Nguyễn Hiến Lê (mà ông tự đánh giá là chỉ có trình độ
thông minh trung bình như phần đông mọi người), kể lại trong cuốn Tự Học Một Nhu Cầu Thời Đại mà tôi đã có
dẫn trên kia. Ông học trong bốn vụ hè, mỗi vụ chừng một tháng thì đạt được số vốn
chừng 1.000 chữ. Rồi học thêm bốn tháng nữa, mỗi ngày ít nhất chín giờ và dụng
ngữ học được tăng lên khoảng 3.000 chữ, cộng là 4.000. Lúc đó, nghĩa là sau tám
tháng học có gián đoạn, ông đã bắt đầu đọc Tam
Quốc Chí trong bản chữ Hán được. “Cuốn
này văn rất giản dị, tôi lại biết truyện rồi, mà đọc cũng chỉ hiểu sáu phần mười
mà thôi. Vậy một người thông minh trung bình học liên tiếp sáu tháng, mỗi ngày bảy,
tám giờ thì thuộc được độ 4.000 tiếng, tạm đủ để đọc những sách Nho thông thường.”
[4]
Theo kinh nghiệm cụ Nguyễn Hiến
Lê, nên chia đoạn đường dài ra làm nhiều chặng cho đỡ ngán, chẳng hạn khi chưa
biết một chữ Hán nào, nên lập chặng đầu
(từ ba tới sáu tháng tùy theo thì giờ rảnh), học chừng 1.000 chữ và chút ít ngữ
pháp. Chặng thứ nhì học thêm 1.500
chữ nữa và nhiều ngữ pháp (cũng từ ba tới sáu tháng vì lúc này học đã dễ hơn
trước rồi). Nhưng muốn thông chữ Hán thì còn phải học thêm nhiều nữa, phải nhớ
điển tích, thuộc cổ văn và học lối chữ thảo (chữ viết tháu, tức thảo thư). “Những bạn nào muốn học chữ Nho mà còn do dự
hãy mạnh bạo tiến đi! Dù chẳng tới nơi tới chốn thì ít nhất cũng thuộc được ít
ngàn chữ thông thường. Một người Việt Nam có học thức không thể thiếu cái
gốc chữ Hán ấy được.” [5]
Tác giả Nguyễn Hiến Lê còn
nêu thêm kinh nghiệm dùng thẻ để học chữ Hán, mỗi thẻ dùng cho một chữ, như học
về chữ 梅 (mai) thì ghi trên thẻ: 梅 và số nét: 11; tên bộ 木 và số nét: 4; cách đọc; những nghĩa của nó; những từ ngữ có chữ mai; những nhận xét riêng về chữ ấy, chẳng
hạn nên phân biệt nó với chữ 海, vì cả hai đều
có bộ phận chữ 每 (mỗi) ở bên… Khi
học được 3.000-4.000 chữ sẽ có được 3.000-4.000 thẻ, nếu sắp lại theo bộ sẽ có
một bộ từ điển để dùng riêng, rất thích thú vì đó là kết quả công phu của chính
mình…
Ngoài hai kinh nghiệm chia đoạn
đường dài ra làm nhiều chặng, và lối học thẻ, ta không thấy học giả Nguyễn Hiến
Lê cung cấp kinh nghiệm gì thêm. Tôi đã thử mở một trang diễn đàn trên mạng (Sachxua.net) nói về phương pháp học tiếng
Hoa thế nào cho có hiệu quả, có hàng chục người tham gia đóng góp ý kiến / kinh
nghiệm liên quan chữ Hán cổ, nhưng tựu trung cũng chỉ thấy có mấy kinh nghiệm
thông thường như sau (ở đây chỉ xin tóm tắt và lấy ý viết lại cho gọn, mỗi gạch
đầu dòng là ý kiến của một người):
- Chịu khó mỗi ngày học một bài trong giáo
trình, học cả văn phạm, từ vựng... chịu khó tìm tòi từ nguyên, tại sao nó có
nghĩa như vậy, sẽ nhớ được lâu. Học được khoảng 3000 từ thì chịu khó đọc
sách tiếng Hoa mỏng mỏng, rồi từ từ dày lên theo số vốn từ mình học được.
- Chuyện nhớ chữ à? Vào trang từ nguyên của
Richard Sears, cũng có giải nghĩa nhiều chữ. Cứ kiên nhẫn mỗi ngày mỗi học sẽ dễ.
Giống như dậy sớm tập thể dục. Dậy được đã khó. Tập mấy ngày đầu thì rêm mình
nhức mẩy. Nhưng theo chừng một hai tháng thì quen.
- Học như thế nào thì hiệu quả, điều đó cũng
tùy thuộc vào năng khiếu và điều kiện của từng người: Khuynh hướng của từng người:
Mỗi nguời có cách nhớ khác nhau, người thì nhìn và viết hoài sẽ nhớ; người thì
phải phân tích tới cội nguồn mới nhớ; có người thích ghi nhớ qua âm thanh, phát
âm đi chung với từ thì sẽ nhớ; Hoàn cảnh: Có người nhờ nhân duyên tốt, gặp được thầy giỏi sách
hay, có tiền mua tài liệu hoặc có thời gian rảnh rỗi đi học, có người thì phải
mầy mò tự học thiếu những tài liệu hay, không người chỉ dẫn nên bỏ rất nhiều thời
gian mà kết quả không cao. Do vậy, phải biết được mình để xác định phương thức
hiệu quả nhất.
- Nên học căn bản trước, nắm được sơ sơ về các
nguyên tắc của chữ Hán rồi thì cứ ôm Thiều Chửu mà tụng. Có ba điều lưu ý thế
này:
1. Không nên học thuộc hết 214 bộ. Học ngoại ngữ nhưng đừng bao giờ có
tư tưởng phải học thuộc cái gì. Ngôn ngữ là phải tự nó ngấm vào mình qua quá
trình cọ xát, tiếp xúc chứ ép vào đầu nhanh thì nó cũng ra khỏi đầu nhanh. Cụ
thể ở đây, chỉ cần nắm được vài chục bộ thủ thường gặp để tra từ điển là đã bao
quát được gần hết các chữ cơ bản rồi.
2. Cách tụng Thiều Chửu là chữ nào tiếng Việt mình còn dùng thì học
trước. Chính những chữ đó về nghĩa mình cũng đã hiểu sơ sơ rồi, không cần câu nệ
từ nguyên nhiều quá. Nên học từ các tác phẩm, tốt nhất là các tác phẩm văn học
quen thuộc cho dễ nhớ. Tuy vậy, với đặc thù chữ Hán, nên nắm được nghĩa riêng lẻ
và trong tương quan với các chữ khác.
3. Không học theo một giáo trình nào cả mà cứ thấy chữ Hán ở đâu thì mổ
xẻ bằng từ điển. Dù sao nó cũng là một tử ngữ rồi, không thể giữ cách học như một
sinh ngữ với các bài text khi mà khó có thể gặp lại trong cuộc sống. Chính các
câu đối, hoành phi, thơ ca ta gặp mới là giáo trình sinh động và hiệu quả nhất.
- Phương pháp phân tích ngữ
pháp Hán cổ bằng ký hiệu của Thích Minh Thanh (giảng viên môn Hán cổ tại Học Viện
Phật Giáo Việt Nam tại TP.HCM soạn) rất khoa học và dễ hiểu cho người học, quen
rồi khi nhìn vào sẽ hiểu không cần phải dùng ký hiệu nữa.
- 1. Tại
sao phải học thuộc 214 bộ chữ Hán khi mới nhập môn Hán cổ? Bộ thủ 部首 là thành phần cốt
yếu của từ tiếng Hán, nó đóng vai trò gần như một bộ chữ cái trong tiếng Hán. Hầu hết các chữ trong 214 bộ thủ đều là
chữ độc thể tự, là những chữ không thể phân tích nhỏ ra được nữa, nếu phân tích
ra, các thành phần đều vô nghĩa, vì vậy phải học thuộc bộ thủ.
2. Tại sao phải nhớ? Để tra tự điển, tra tự điển theo bộ
có phần dễ dàng hơn là đếm nét, vì đếm thường hay đếm sai.
3. Chiết tự giúp nhớ lâu chữ Hán, đây mới là việc quan trọng. Ví dụ 休 (hưu) có nghĩa là nghỉ ngơi, thì được ghép từ hai chữ nhân 人 đứng và mộc 木, là việc lấy hình ảnh con người khi làm việc mệt, hoặc đi đường mệt
thường tựa vào gốc cây (bộ mộc) để nghỉ, do đó ta có chữ hưu là nghỉ; 4. Đoán nghĩa của
chữ: khi biết bộ thủ thì một cách tương đối ta có thể đoán được chung chung
nghĩa của từ, như thấy bộ thủy 水 (氵) là biết nghĩa sẽ liên quan đến sông nước, bộ mộc 木 liên quan đến cây cối, bộ tâm 心 (忄) liên quan đến
tình chí, cảm xúc của con người... Chiết tự xảy ra với cả ba mặt hình, âm, nghĩa của chữ Hán, nhưng chủ yếu
là ở hai mặt hình và nghĩa. Chẳng hạn: Ba
xe kéo lê lên đàng, âm vang như sấm, đó là chữ oanh 轟. Chữ oanh được viết với
ba chữ xa 車 (xe) và có nghĩa là tiếng động
của nhiều xe cùng chạy (chiết tự về mặt ý nghĩa)…[6]
- Thời gian học dài: Người học chữ Trung Quốc phải mất hai, ba năm mới
nhớ được mặt chữ của ba bốn ngàn từ thường dùng; nếu dùng lối tượng thanh thì
nhanh và đơn giản hơn; chữ viết phức tạp, nhiều nét: có những chữ trên hai mươi
lăm nét. Cái lợi của chữ Trung Hoa cũng hiển nhiên: khi nhớ mặt chữ của một từ
thì người học rất khó quên được ý nghĩa của nó, chẳng hạn chữ an 安 gồm nữ 女 (đàn bà) ở dưới miên 宀 (mái nhà) nên có nghĩa là an
ổn, hoặc chữ minh 明 gồm nhật 日 (mặt trời) và nguyệt 月 (mặt trăng) nên có nghĩa là sáng. Như vậy mỗi từ của Trung Hoa có
tính chất sống động hơn từ của phương Tây và vì vậy đọc một bài thơ Trung Hoa
viết bằng chữ Hán thì cảm thấy có ý nghĩa hơn, thú vị hơn khi đọc cũng bài thơ
đó phiên âm ra chữ quốc ngữ.
Đối với những người chưa biết
nhiều về chữ Hán, thì thường có một quan niệm sai lầm là họ cứ tưởng chữ Hán rất
khó học. Thật ra không hoàn toàn đúng, nếu so sánh với việc học tiếng Anh, thì
chữ Hán dễ học hơn. Lý do thật đơn giản vì người học chữ Hán chỉ cần nhớ được ba
ngàn chữ đơn là có thể đọc viết được các loại sách báo hay tạp chí, trong khi
người học chữ Anh phải cần phải nhớ đến hơn con số đó nhiều...
- Có lẽ vì món Hán cổ vừa
khó, ngữ pháp phiền nhiễu, nhất là các bản kinh Thư, Luận Ngữ, Sở Từ... nhiều câu, nhiều đoạn phải tự
luận, hoặc đối chiếu với văn cảnh phía trên mới hiểu tàm tạm được…, thế nên chẳng
có mấy người học được… Theo tôi, cứ cố gắng đọc, đọc không được, không hiểu văn
bản thì đem tới hỏi các bậc cao nhân, tiếp đó, bổ túc thêm kiến thức về âm vận,
ngôn ngữ lịch sử nữa (để đọc thêm chữ Nôm, nhất là Nôm thế kỷ XVII về trước).
- Đọc các văn bản Hán cổ (văn
ngôn) của Trung Quốc như kinh Thư, Luận Ngữ, Sở Từ... nên tìm đọc các bản dịch bạch thoại của chúng trước khi đọc
chính văn thì sẽ dễ hiểu hơn (vì hầu hết các văn bản Hán cổ của Trung Quốc đều
đã được họ chú thích và dịch sang thể bạch thoại). Còn về ngữ pháp văn ngôn, chỉ
cần nắm vững bốn hư từ Chi 之 Hồ 乎 Giả 者 Dã 也 là đủ xài rồi. Nắm vững chúng ta sẽ phân tích được câu, mà đã
phân tích được câu thì sẽ hiểu được văn bản, còn mức độ hiểu nhiều hay ít lại
còn tùy thuộc vào kiến thức nền của mình!
- Học chữ Hán, ngoại trừ việc
chuyên cần, chăm chú viết lách, còn phải cố gắng trau dồi những kiến thức liên
ngành như lịch sử, văn học, địa lý, ngoại ngữ, văn hóa − tư tưởng... Bởi tiếng
Hán, chữ Hán chỉ là công cụ để từ đó ta hiểu hơn về ngôn ngữ, văn hóa của dân tộc
và rộng ra là cả thể giới! Vậy, học chữ Hán cổ nâng cao cũng không thể bỏ qua yếu
tố văn hóa Trung Quốc và điển tích Trung Hoa…
Trích dẫn tới đây, tôi tưởng
chắc cũng khó thể nêu thêm được một kinh nghiệm mới mẻ nào khác. Phần kinh nghiệm
cá nhân tôi, mặc dù chẳng đáng kể ra cho lắm, nhưng thú thật tôi học cũng không
có bài bản, không có ghi chép kỹ lưỡng như ông Nguyễn Hiến Lê chỉ dẫn, mà chỉ
theo cách “mò đá qua sông” (mô trước thạch
đầu quá hà), vừa mò mẫm tiến tới vừa tích lũy kinh nghiệm... Do lúc còn rất
trẻ thích văn chương, triết học Trung Quốc, nên vớ được bộ sách nào có chèn chữ
Hán trong đó, như sách Minh Tâm Bảo Giám,
bộ Nho Giáo của Trần Trọng Kim, tập Đường Thi của Ngô Tất Tố… thì đều để ý
nhớ được một số câu chữ Hán có ý nghĩa sâu xa thâm trầm mà mình thích. Sau đó,
chừng lớp Đệ Tam (tức lớp 10 bây giờ), tôi học thêm trong vài cuốn sách dạy chữ
Hán của người đương thời biên soạn, nhưng không học hẳn cuốn nào, và cũng thiếu
tính hệ thống. Trong lúc học, tôi đặc biệt thích môn ngữ pháp, vì sớm nhận ra rằng
nếu không am hiểu ngữ pháp và các hư từ Hán cổ (đâu phải chỉ có CHI, HỒ, GIẢ,
DÃ) thì khó dịch được chính xác chữ Hán cổ, mới tìm được mấy cuốn như Văn Ngôn Hư Tự của Lữ Thúc Tương, Hư Tự Dụng Pháp Cập Luyện Tập của Chu Dực
Tân, Cao Đẳng Quốc Văn Pháp của Dương
Thụ Đạt… mua trong các tiệm sách cũ, mới ở Chợ Lớn. Càng đọc (chứ chưa phải học)
càng thấy có sự lôi cuốn, tôi mới “liều mạng” tự biên soạn một tập ngữ pháp Hán
văn ghi chép tay đầy trên bốn cuốn sổ bìa đen, cộng lại dày chừng 800 trang giấy
ca-rô khổ lớn. Cùng khoảng thời gian này, ngày nào tôi cũng vào Thư Viện Quốc Gia
Sài Gòn (bây giờ là Thư Viện Tổng Hợp TP.HCM) và Thư Viện Viện Khảo Cổ (bây giờ
là Thư Viện Khoa Học Xã Hội TP.HCM) ghi chép các tài liệu chữ Hán và chữ Pháp,
biên soạn được một quyển lấy tên Lịch Sử
Tiểu Thuyết Trung Hoa, được một nhà xuất bản nhận in nhưng sau đó vì thời
cuộc mà nhà xuất bản phải dẹp và mất luôn bản thảo. Riêng bản thảo về ngữ pháp
mãi đến hơn mười năm sau mới được chỉnh lý lại để xuất bản thành cuốn Sơ Lược Ngữ Pháp Hán Văn (Nxb TP.HCM),
là một trong những sách ngữ pháp Hán cổ còn rất hiếm hoi ở Việt Nam trong những
năm 80 của thế kỷ trước. Trước đó một thời gian, do phải sống trong một tình trạng
gần như thất nghiệp, tôi rị mọ dịch đại quyển Lão Tàn Du Ký của Lưu Ngạc (1850-1910), một trong bốn bộ khiển trách tiểu thuyết tức tiểu thuyết
hiện thực phê phán nổi tiếng của Trung Quốc (giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ
20), mà trong tay chỉ có vỏn vẹn hai quyển từ / tự điển của Đào Duy Anh và của
Thiều Chửu (và dường như còn có thêm bộ Từ
Vị của Đài Loan xuất bản nữa, và một bản dịch tiếng Pháp của nhà Gallimard
xuất bản dưới sự bảo trợ của UNESCO). Đến năm 1989 thì sách này mới được xuất bản.
Tôi dịch không hay, mà bây giờ gần như cũng đã quên đi, nếu đọc lại chắc chắn sẽ
thấy có một số chỗ sai sót đáng tiếc, nhưng phải nhận rằng sau lần dịch đó, số
dụng ngữ thủ đắc được đã tăng tiến lên khá nhiều. Vậy nếu nói kinh nghiệm, thì
kinh nghiệm của tôi là không đợi phải chín muồi rồi mới bắt tay biên soạn, dịch
thuật, mà làm ngay như thể một cách tự ra bài tập cho mình làm, làm đến đâu học
thêm đến đó. Giờ đây, được biết có một số bạn đồng thanh khí của tôi cũng tiến
bộ được bằng con đường tương tự như thế. Điều này quả đúng với lời khuyên của cố
học giả Nguyễn Hiến Lê, cũng là tên một chương trong quyển Tự Học… của ông: “Viết sách
và dịch sách cũng là một cách để tự học.”
Tôi tự xét không phải thuộc hạng
người thông minh hoặc có ý chí sắt đá. Còn nói kinh nghiệm, thật ra cũng chẳng
có hệ thống kinh nghiệm nào cho ra hồn cả, mà dường như chính sự đam mê, từ đó
hứng thú, đã dẫn dắt người ta tự tìm lấy con đường học tập thích hợp cho chính mình.
Đã có hứng thú thì không còn biết nệ nhọc mệt tìm tòi cho dù thức khuya dậy sớm,
từ đó luôn tay tra cứu, thủ bất thích quyển
(tay không rời sách), dần dần thâm nhập, thông qua một quá trình khổ học mà
không cảm thấy khổ, công phu mà không thấy bỏ sức công phu, để đạt được những kỹ
năng mong muốn lúc nào không hay. Vả chăng, kinh nghiệm nếu thật là kinh nghiệm
thì cũng khó trao truyền, như câu chuyện “Đọc Sách Cổ” kể trong Cổ Học Tinh Hoa (của Nguyễn Văn Ngọc và Trần
Lê Nhân), với lời bình của dịch giả: “…
Cái hay nhiều khi miệng không thể nói ra được, bút không thể tả hết được… Những
kẻ hay mượn bã giả của cổ nhân để buông ra những học thuyết dông dài làm ra
sách vở để dạy đời, ta tưởng cũng lầm lắm.”
Nói chung không nên tin có một
bí quyết hay “bí kíp” thần thông nào cả. Chỉ có thể khẳng định một kinh nghiệm
đúng cho hầu hết mọi người, đó là học bất kỳ môn gì cũng nên bắt đầu từ lúc còn
trẻ, còn có tinh thần hăng hái. Đợi đến từ quá bốn mươi trở lên nhiệt huyết
không còn, trí nhớ cũng suy kém đi nhiều, một chữ tra từ điển đôi khi đến hơn
mười lần vẫn không nhớ được!
Trong điều kiện hiện nay, nếu
được tiếp cận với một lớp học chuyên tu chữ Hán (như các lớp ở khoa chuyên Văn
trường đại học, ở trường cao cấp Phật Học, ở Tu Viện Huệ Quang và một số chùa
chiền khác) rồi tự học thêm thì sẽ đỡ vất vả và mau tiến bộ hơn nhiều, vì ít ra
cũng có thầy hướng dẫn với sự ràng buộc và chương trình để theo. Nhưng cuối
cùng muốn thật sự giỏi thì cũng phải tự học thêm, bằng tất cả mọi phương tiện,
mà hiện nay đang rất phong phú so với thời trước. Nên thường xuyên đọc mọi loại
sách chữ Hán cổ mình thích, rồi tự tập dịch những bài từ ngắn đến dài, từ dễ đến
khó, chỗ nào không biết cứ hỏi người khác giỏi hơn hoặc tra từ điển. Các cuốn
sách tra cứu cũng là ông thầy vì thật ra ông thầy cũng học từ các sách vở mà
ra. Điều quan trọng là không câu nệ, cũng không nhất thiết phải có một ông thầy
hay cuốn sách nào nhất định, theo lối học rộng mở vô thường sư chi hữu của Khổng Tử và tận tín thư tắc bất như vô thư của Mạnh Tử. Nếu có ý định dịch thuật
thì càng phải đọc sách cho nhiều để tích lũy kiến thức và rèn luyện kỹ năng,
ngoài chữ Hán ra phải trau dồi thêm tiếng Việt để luôn cải tiến nghệ thuật diễn
đạt, hành văn.
Nói về thời gian cần dành ra,
cũng như mức độ thành tựu và những cảnh giới có thể đạt được trong việc học chữ
Hán thì nó cũng mênh mông lắm. Học để đọc được sách báo phổ thông hoặc vài đoạn
kinh Phật thông thường thì có khác hơn học với trình độ thâm cứu, dịch thuật,
trứ tác nghiêm túc.
Nghe kể, có một dịch giả chuyên
dịch tiếng Nga, sau tiếng Nga ít dùng, chuyển qua tự học chữ Hán chỉ trong vòng
vài tháng, đã dịch được đến một, hai chục tác phẩm chữ Hán. Đó là một sự thật
đáng nể. Dịch giả đó hiện nay đã quá cố, chúng ta không hỏi nhưng đoán chắc ông
là người thông minh, và học theo cách vừa làm vừa học mới mau được như vậy. Để
đạt được những công trình có chất lượng đi vào chiều sâu với những đề tài khó
khăn hơn, chắc phải mất thời gian nhiều hơn. Cách nay mấy năm, báo chí phấn khởi
đưa tin, nhờ sự hỗ trợ của công cụ máy vi tính, người ta có thể dịch trọn bộ Đại
Tạng Kinh từ Hán ra Việt chỉ mất khoảng hai mươi bốn tiếng đồng hồ, nhưng thật
ra đây chỉ là một ảo tưởng phát sinh
trong lúc vội vội vàng vàng quá tin tưởng vào sự thần diệu của máy móc. Bởi cứ
cho như máy tính lập trình sẵn có thể giúp ta được một phần bằng cách dịch từng
chữ Hán này ra từng chữ Việt kia, thì công tác biên tập lại cho tròn vành rõ
nghĩa sao cho vừa dễ hiểu vừa có ý vị văn chương cũng phải mất thời gian thậm
chí còn lâu hơn cả lối dịch thủ công cổ truyền nữa, trừ khi máy tính có thể làm
thay con người tất cả mọi thứ.
Óc thực dụng đôi khi tốt
nhưng không phải lúc nào cũng tốt cho việc học tập chữ Hán cổ. Bởi vì, ngay
trong các kinh sách Hán cổ, nhất là kinh Phật, dường như đã chứa đựng sẵn sự phê
phán óc thực dụng đó rồi. Trong việc học chữ Hán cổ, cần thực học không cần hư
danh, bởi nếu chỉ chuyên chủ chạy theo hư danh, hoặc quyền lợi đơn thuần vật chất,
rất khó đạt được kết quả mỹ mãn, vì tinh thần thiếu sự chuyên nhất, tập trung. Nhưng
như vậy cũng có một nghĩa khác có lẽ phải tạm chấp nhận, là bằng con đường học chữ
Hán cổ và chữ Nôm, ít ai có thể làm giàu lên được! Nếu chọn được một công việc
vừa hợp sở thích vừa tạm đủ ăn qua ngày, như thế đã là may mắn và hạnh phúc lắm
rồi. Còn đối với một số nhà sư dịch kinh Phật, thì tính bất vụ lợi lại càng rõ
hơn, chỉ cần ăn chay niệm Phật mỗi ngày, các thầy vẫn có thể hoan hỷ làm việc
hăng hái được.
Các nhà nghiên cứu ghi nhận
chữ Hán có đến khoảng 85.000 đơn tự nhưng số lượng thực tế sử dụng chỉ nằm trong
khoảng từ 6.000 đến trên 12.000. Nếu không tính những chữ thuộc loại chuyên
dùng thì số chữ được dùng chỉ vào khoảng sáu, bảy ngàn, như vậy nếu siêng học
liên tục chừng hai năm có thể nhớ được. Tuy nhiên bể học thì mênh mông, nhiều
khi để đọc được một đoạn Hán cổ, người ta phải “khảo” từng chữ chứ không thể đọc
như đọc sách báo thông thường được, và kinh nghiệm thực tế cho thấy lắm khi chỉ
một chữ nào đó trong cùng văn bản nào đó mà nhiều nhà chú giải giảng không giống
nhau, các từ điển cũng giải khác nhau, không biết ai trúng ai trật, hễ ai có lý
thì tạm được đa số chấp nhận. Nhiều từ ngữ đọc mãi không hiểu mà tra hết các
sách vẫn không chỗ nào giúp cho ta giải hoặc được. Chính vì vậy mà đức khiêm tốn
trong học vấn có lẽ là một thứ đạo đức đáng được đề cao, trong tinh thần càng học
càng thấy mình càng kém, và cái đạo của học vấn, nói theo Mạnh Tử, không phải
là thứ gì khác, chẳng qua chỉ là để tìm lại cái tâm chất của mình đã bị đánh mất
đi mà thôi, tức có nghĩa không để cho mình vì sự tăng trưởng của tri thức mà trở
nên ngã mạn, đến bị vong thân, tha hóa, mình không là mình (Học vấn chi đạo vô tha, cầu kỳ phóng tâm nhi
dĩ hỹ). Còn nói theo Lão Tử thì Vi học
nhật ích, vi đạo nhật tổn, tổn chi hựu tổn, dĩ chí ư vô vi (Theo đường học
thì mỗi ngày một tăng thêm, theo đường đạo thì mỗi ngày một giảm đi, giảm rồi lại
giảm, cho đến lúc chỉ còn số không). Người ta nói, học chữ Nho cũng là học đạo,
để khám phá tiền nhân và soi rọi lại chính mình, nhằm cải thiện cuộc sống chủ yếu
về phương diện tâm linh chứ không phải vật chất, có phải là những nghĩa như thế
này chăng?
TRẦN VĂN CHÁNH
[1] Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn Gốc Và Quá Trình Hình Thành Cách Đọc
Hán Việt. Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội, 1979, tr. 14-15.
[3] Từ
thư: Gọi chung các loại tự điển và từ điển. [Văn Uyển chú]
[6] Xem Phụ Chú cuối bài. [Văn Uyển chú]
____________
PHỤ CHÚ: NGƯỜI VIỆT
CHIẾT TỰ CHỮ HÁN
Muốn dễ nhớ mặt chữ Hán, người Việt dùng
thơ lục bát để chiết tự. Sau đây là một số thí dụ thú vị.
1. Chiết tự chữ đức 德 (đức độ):
Chim
chích mà đậu cành tre 彳
Thập 十 trên, tứ 四 dưới, nhất 一 đè chữ tâm 心.
2. Chiết tự chữ hiếu
孝 (hiếu thảo): thổ + phiệt + tử.
Đất thì là đất bùn ao [chữ thổ 土 (đất)]
Ai cắm cây sào sao lại chẳng ngay [bộ phiệt丿]
Con ai mà đứng ở đây [chữ tử 子 (con)]
Đứng thì chẳng đứng, vịn ngay vào sào. [chữ hiếu 孝]
3. Chiết tự chữ phu
夫 (chồng):
Thương em, anh muốn nên duyên
Sợ e em có chữ thiên 天 trồi đầu. [chữ phu 夫]
4. Chiết tự
chữ tư 思 (nhớ, nghĩ): điền + tâm.
Ruộng kia ai cất lên cao [chữ điền
田 (ruộng)]
Nửa vầng trăng khuyết, ba sao giữa
trời. [chữ tâm 心]
5. Chiết tự
chữ pháp 法 (phép):
Hột thóc, hột thóc, phẩy đuôi trê [bộ thủy氵(nước)]
Thập 十 trên nhất 一 dưới bẻ què lê 厶. [chữ pháp 法]
6. Chiết tự
chữ mỹ 美 (đẹp): dương + đại.
Con dê ăn cỏ đầu non [chữ dương 羊 (con dê)]
Bị lửa cháy hết không còn chút
đuôi. [bỏ chữ đại 大 bên dưới chữ mỹ 美 thì còn chữ dương
羊]
Trong thánh giáo Cao Đài có lắm khi Ơn Trên giáng cơ xưng danh bằng cách
chiết tự. Văn Uyển sẽ giới thiệu với quý đạo hữu trong một dịp khác.
[Văn Uyển chú]
Đại Đạo Văn Uyển trân
trọng giới thiệu quý đạo hữu
blog UNDERSTANDING CAODAISM gồm các bài
tiếng Anh của
HUỆ KHẢI viết về đạo Cao Đài tại địa chỉ:
|