Dân miền Nam , ở lứa tuổi
xấp xỉ hàng sáu như chúng tôi, cứ mỗi lần bạn bè tụ họp trà dư tửu hậu thì
thường trao đổi với nhau về đủ thứ chuyện trên đời. Nếu có ôn lại quãng đời đi
học xa xưa, thì lại thường hay nhắc đến thầy, bạn cũ…, với những kỷ niệm khó
quên của tuổi học trò. Chúng tôi còn nhắc lại đến cả những bài tập đọc, học
thuộc lòng đã được học cách nay chừng bốn, năm mươi năm về trước...
Thậm chí, có người còn
thuộc hết cả một bài học thuộc lòng dài, đọc ron rót từ đầu đến cuối, như bài “Tình Nhân Loại”, được học vào khoảng
những năm cuối thập niên 50 của thế kỷ trước:
TÌNH NHÂN LOẠI
Sau một trận giao tranh ác liệt,
Giữa
sa trường xác chết ngổn ngang.
Có
hai chiến sĩ bị thương,
Hai
người hai nước hiện đương nghịch thù.
Họ
đau đớn khừ khừ rên siết,
Vận
sức tàn cố lết gần nhau.
Phều
phào gắng nói vài câu,
Lời
tuy không hiểu, hiểu nhau nỗi lòng:
Họ
hai kẻ không cùng Tổ Quốc,
Nhưng
đã cùng vì nước hy sinh.
Cả
hai ôm ấp mối tình,
Yêu
thương đất nước, gia đình, quê hương.
Đêm
dần xuống, chiến trường sương phủ,
Một
thương binh hơi thở yếu dần.
Trước
khi nhắm mắt từ trần,
Xót
thương người bạn tấm thân lạnh lùng.
Anh
cởi áo đắp trùm lên bạn,
Rồi
tắt hơi! thê thảm làm sao!
Cho
hay khác nghĩa đồng bào,
Nhưng
tình nhân loại còn cao hơn nhiều!
ĐẶNG DUY CHIỂU
(Quốc Văn Mới)
Nghe xong bài này ai cũng kính nể trí nhớ tốt của người bạn, và
đều tấm tắc khen hay. Tuy nhiên, hỏi tác giả của những bài học thuộc lòng cảm động
và lý thú như trên thì không ai còn nhớ, chỉ biết lờ mờ nó nằm đâu đó trong
những sách Quốc Văn mà mình đã từng học qua hồi tiểu học.
Qua câu chuyện trà dư tửu hậu, tôi sực nghĩ những bài học thuộc
lòng như thế, nằm rải rác trong các sách Quốc Văn tiểu học giai đoạn 60-70 của
thế kỷ trước, thuộc thế hệ tiếp sau Quốc Văn
Giáo Khoa Thư của nhóm Trần Trọng Kim và Đỗ Thận... biên soạn (dạy trong
những năm 40-50 mà gần đây nhà xuất bản Trẻ và vài nhà xuất bản khác có in
lại), dường như là một kho tàng quý báu đang bị bỏ quên, chứ không đơn giản như
người ta thường có thể tưởng. Nếu nay thu thập lại, chắc sẽ tìm thấy trong đó
nhiều điều vẫn còn hứng thú và bổ ích, nhất là về phương pháp sư phạm, gắn với
việc đào tạo con người toàn diện cả về đức lẫn tài.
Nghĩ vậy rồi, tôi nhắn nhe tìm tòi khắp nơi, gọi điện cho những
bạn cùng trang lứa hoặc già hơn mà có quan tâm chuyện sách vở, để tìm lại cho
được những cuốn Quốc Văn tiểu học của một thời, nhưng kết quả gần như là một sự
thất vọng. Thử tra tìm trên thư mục (phần lớn đã được số hóa đưa lên mạng Internet)
của một số thư viện lớn (như Thư Viện Quốc Gia Hà Nội, Thư Viện Tổng Hợp TpHCM,
Thư Viện Khoa Học Xã Hội TpHCM, Thư Viện Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân
Văn TpHCM, Thư Viện Trường Đại Học Sư Phạm TpHCM...), cũng không thấy. Cuối
cùng, nhờ kiên nhẫn lục tìm lai rai trong các hiệu sách cũ ở Sài Gòn, trong tay
tôi hiện chỉ vỏn vẹn có được chừng mười quyển lớn nhỏ đủ cỡ, từ lớp Năm (tương
đương lớp 1 bây giờ) đến lớp Nhất (tức lớp 5), của một số soạn giả quen thuộc
như Hà Mai Anh, Nguyễn Hữu Bảng, Bùi Văn Bảo, Đặng Duy Chiểu, Thềm Văn Đắt, Cao
Văn Thái..., nhưng hầu hết đều đã rách bìa, mất từ vài trang đến vài chục trang
ở đầu hoặc ở cuối sách. Chỉ còn được ba quyển nguyên vẹn nhưng chưa được vừa ý
lắm, vì lẻ mẻ không đủ bộ. May sao, trong Thư Viện Khoa Học Xã Hội TpHCM (tiền
thân là thư viện của Viện Khảo Cổ Sài Gòn) hiện vẫn còn lưu trữ tương đối đủ bộ
Tiểu Học Nguyệt San (từ năm 1957 đến
năm 1963) do Bộ Quốc Gia Giáo Dục Sài Gòn chủ biên để cung cấp tài liệu giảng
dạy cho giáo viên bậc tiểu học, mà trong đó có sưu tập và chép lại khá đầy đủ
những bài tập đọc, học thuộc lòng..., tương tự như những bài đã có trong các
sách Quốc Văn tiểu học của thời đó.
Như chúng ta đều biết, sau Hiệp Định Genève năm 1954, đất nước tạm
thời chia đôi ở vĩ tuyến 17, thành hai miền Nam, Bắc. Miền Bắc, qua hai lần cải
cách giáo dục vào các năm 1950 và 1956, đã xây dựng một nền giáo dục kết hợp
chuyên môn với chính trị (vừa hồng vừa chuyên), lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền
tảng, định hướng giáo dục vào hai mục tiêu: chuẩn bị tiến lên CNXH và xây dựng
miền Bắc thành hậu phương vững mạnh chi viện cho công cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam. Trong khi đó, miền Nam, trong giai đoạn 1955-1963, chỉ thực hiện cải
cách giáo dục theo hướng cải lương chủ nghĩa, bằng cách kế thừa và phát huy
những truyền thống, lề lối và nội dung đã có trong chương trình giáo dục Việt
Nam cũ ban hành năm 1945 mà ta quen gọi là chương trình Hoàng Xuân Hãn (vì do
Bộ Trưởng Bộ Giáo Dục Và Mỹ Thuật Hoàng Xuân Hãn chủ trì biên soạn).
Năm 1958, dưới thời Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục Trần Hữu Thế,
Đại Hội Giáo Dục Quốc Gia (lần I) nhóm họp tại Sài Gòn, đã định hướng triết lý
giáo dục dựa trên ba nguyên tắc căn bản: nhân
bản, dân tộc và khai phóng. Ba
nguyên tắc này đã trở thành nền tảng cho triết lý giáo dục, được ghi cụ thể
trong tập tài liệu Những Nguyên Tắc Căn
Bản do Bộ Quốc Gia Giáo Dục Sài Gòn ấn hành năm 1959 và sau đó trong Hiến Pháp
1967. Chương trình môn Quốc Văn cấp tiểu học vì thế có thể nói vẫn lấy những
nội dung giáo dục thiên về đạo đức chứa đựng trong bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư và Luân
Lý Giáo Khoa Thư của nhóm Trần Trọng Kim biên soạn làm cơ sở rồi cải cách,
thêm bớt một số nội dung mới cho phù hợp với hoàn cảnh và thời đại lúc đó.
Tinh thần chung của nền học vấn miền Nam lúc bấy giờ là phải học
lễ trước rồi mới học văn sau, tức coi việc rèn luyện đức-trí là quan trọng như
nhau, nhưng đức phải đi trước một bước, nên trường học nào vào thời đó cũng có
câu khẩu hiệu “Tiên học lễ, hậu học văn” treo ở những vị trí quan trọng dễ thấy
nhất và trong mỗi phòng học. Tinh thần trọng lễ nhờ thế không chỉ bàng bạc,
quán xuyến trong tâm tưởng, đầu óc của mọi giáo chức từ tiểu học đến đại học,
mà còn lan tỏa rộng khắp vào trong mọi giai tầng xã hội, tạo thành một phong
khí học tập-ứng xử chú trọng rèn luyện cả đức lẫn tài để chuẩn bị điều kiện đầy
đủ cho thế hệ tương lai trở thành những con người hữu dụng đối với bản thân,
gia đình và xã hội.
Cho nên có thể nói, nội dung đạo đức hàm chứa trong các sách Quốc Văn
tiểu học thời kỳ này ở miền Nam là vẫn duy trì nhưng có phát huy thêm và cải
biên từ những bộ sách giáo khoa cũ thế hệ 1940, khá đúng với tinh thần đã được
ghi trong câu nói của Khổng Tử mà cụ Trần Trọng Kim đã trích dẫn để in lên đầu
quyển Sơ Học Luân Lý (1914, có tài
liệu nói 1919), vốn là cơ sở chỉ đạo tư tưởng của nền giáo dục cũ và sách giáo
khoa môn Văn thời trước: “Người học trò ở
trong nhà thì hiếu với cha mẹ, ra ngoài thì kính nhường kẻ bề trên, làm việc gì
thì cẩn thận, nói điều gì thì tín, rộng lòng thương người mà lại thân với kẻ có
nhân. Hễ làm được những điều ấy rồi, mà còn thừa sức thì hãy học văn chương xảo
kỹ” [Luận Ngữ, thiên “Học Nhi” đệ
nhất], (xem Sơ Học Luân Lý, Nxb Tân
Việt, in lần thứ 2, 1950).
*
Về sách giáo khoa Quốc Văn tiểu học, để phục vụ
cho những mục tiêu như trên, thông thường các giáo chức lớp trước ở miền Nam
khi biên soạn thì soạn luôn nguyên cả bộ từ lớp Năm (lớp 1) đến lớp Nhất (lớp
5), và ở trang bìa giả sách thường có đề câu “Soạn theo chương trình hiện hành của Bộ Quốc Gia Giáo Dục”, hoặc
thậm chí còn nêu rõ hơn: “Soạn đúng
chương trình tiểu học đã sửa đổi do Nghị Định số... ngày... của Bộ Quốc Gia
Giáo Dục”. Sách của họ thường mang những tên khác nhau như Việt Văn Toàn Thư, Quốc Văn Toàn Thư, Quốc Văn
Toàn Tập, Tiểu Học Quốc Văn, Quốc Văn Mới, Quốc Văn Bộ Mới, Quốc Văn Độc Bản,
Việt Văn Khóa Bản, Việt Văn Tân Khóa Bản, Tân Việt Văn, Việt Ngữ, Việt Ngữ Độc
Bản, Việt Ngữ Bộ Mới... Chuyên xuất bản loại sách này, được biết có một số
nhà xuất bản (hoặc nhà in) nổi tiếng như Nam Hưng Ấn Quán, Sống Mới, Nam Sơn,
Việt Hương, Cành Hồng...
Thời đó, khi trích giảng các bài thơ để làm bài
học thuộc lòng, các nhà biên soạn sách tiểu học dường như không mấy chú trọng
việc ghi tên tác giả, nên họ thường chỉ ghi sơ sài tên người sáng tác, một đôi
khi mới ghi thêm xuất xứ cho biết trích dẫn từ sách báo nào. Một số trường hợp
chỉ ghi tượng trưng X., XXX., H.H., không rõ bút hiệu hoặc tên thật là gì. Cũng
không phân biệt tác giả những bài thơ là người đang sống và phục vụ trong chế
độ nào, mà hễ thấy hay, bổ ích là chọn.
Theo chỗ chúng tôi được biết, ngoài những bài
trích dẫn tác phẩm của một số nhà văn, nhà thơ cổ điển hoặc hiện đại đã nổi
tiếng (như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà,
Nguyễn Văn Vĩnh, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Á Nam Trần Tuấn Khải, Nguyễn Nhược
Pháp, Vũ Hoàng Chương, Kiên Giang, Tế Hanh, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ, Bàng Bá
Lân...), một số soạn giả sách giáo khoa đã tự mình sáng tác luôn những bài thơ
theo chủ đề giảng dạy để làm bài học thuộc lòng, như trường hợp nhà giáo Bùi
Văn Bảo với bút hiệu Bảo Vân thường thấy xuất hiện trong những sách giáo khoa
Việt Văn tiểu học do ông biên soạn. Một vài tác giả khác, như Kình Dương, Chiêu
Đăng, Như Tuyết, Thy Thy, Đề Quyên... dường như cũng gốc thầy cô giáo, chuyên sáng
tác thơ cho bài học thuộc lòng. Phần còn lại là thơ của một số người làm thơ
nghiệp dư, có bài đăng rải rác đâu đó trên một số báo, tạp chí đương thời, được
các nhà biên soạn sách giáo khoa chọn đưa vào sách của mình.
Chỉ cần tôn trọng chương trình và lời hướng dẫn
do Bộ Giáo Dục vạch ra một cách tổng quát, các tác giả sách giáo khoa được tự
do chọn bài để đưa vào sách, và giáo viên đứng lớp cũng có quyền chọn quyển
sách giáo khoa nào mình ưa thích để giảng dạy. Nhờ vậy, nội dung sách giáo khoa
phong phú, tuy vẫn có những nét chung nhưng mỗi người một vẻ, và trong điều
kiện được tự do như thế, các giáo chức soạn sách cũng cố thi đua cạnh tranh
nhau một cách tự giác để soạn ra những sách giáo khoa được nhiều người vừa ý,
chấp nhận. Phần thưởng xứng đáng của họ là sách được nhiều người tin dùng, chứ
không phải những mảnh bằng khen của nhà nước.
Bộ Giáo Dục chỉ khuyến cáo các giáo viên bằng lời
chỉ dẫn chung, như về Việt Ngữ thì có nêu rõ: “Trong lúc dạy Việt Ngữ, giáo chức nên nhớ rằng chương trình ấy không
phải đứng tách hẳn chương trình của các môn học khác như đức dục, công dân giáo
dục, sử ký, địa lý, v.v... mà phải cố tìm cách cho chương trình các môn học ấy
và khoa Việt Ngữ có liên lạc với nhau (...). Đặc biệt chú ý về Việt Ngữ: nên
nhẹ về phần tầm chương trích cú, nghệ thuật vị nghệ thuật, và phải chú ý đề cao
vấn đề nghệ thuật vị nhân sinh (phục vụ cho đạo đức con người, cho hạnh phúc
gia đình, cho an ninh xã hội, cho độc lập, tự do)”.
Chương trình Việt Ngữ tiểu học thời đó, thông
thường gồm các phân môn sau:
- Ngữ Vựng;
- Tập Đọc và Học Thuộc Lòng;
- Chính Tả, Văn Phạm (chỉ dạy ở lớp Nhì và lớp
Nhất, tức lớp 4 và lớp 5), Tập Viết;
- Tập Làm Văn (chỉ không dạy ở lớp Năm tức lớp
1).
Môn Quốc Văn rất được coi trọng, chẳng hạn lớp
Năm (đến năm 1967 đổi gọi là lớp 1, tương đương với lớp 1 bây giờ), mỗi tuần
học 25 giờ, trong đó đã có tới 9 giờ rưỡi dành cho môn này. Riêng về phân môn
Học Thuộc Lòng, mỗi tuần học sinh từ lớp Năm (lớp 1) đến lớp Nhất (lớp 5) đều
có bài học.
Chủ đề
(hay chủ điểm) các bài Học Thuộc Lòng luôn đi theo chủ đề của các bài Tập Đọc.
Về tiêu chuẩn lựa chọn thì tuy có sự khác nhau chút ít tùy soạn giả hoặc tùy
cấp lớp nhưng đều có thể hiểu đại khái: “Về
bài Tập Đọc và Học Thuộc Lòng, bài soạn nào cũng đi sát với chương trình cùng trình
độ của học sinh theo những chủ điểm có liên quan tới nhiều môn khác.” (Thềm
Văn Đắt, Huỳnh Hữu Thanh. Việt Ngữ Bộ Mới
Lớp Nhứt, “Lời nói đầu”. Sài Gòn: Nxb Nam Sơn, in lần thứ 6.) Hoặc: “Về Học Thuộc Lòng, chúng tôi chú trọng lựa
chọn những bài văn vần có tính cách kích thích lòng yêu nước và tinh thần tranh
đấu của nhân dân.” (Đặng Duy Chiểu và một nhóm giáo viên. Quốc Văn Toàn Thư Lớp Nhì, “Lời nói đầu”.
Sài Gòn: Nxb Sống Mới, 1959.) Có soạn giả còn nêu rõ hơn: “Về văn vần dùng làm các bài Học Thuộc Lòng, chúng tôi đã hợp tác cùng
một số thi sĩ để soạn riêng những vần
thơ trong sáng, dễ hiểu, giàu nhạc điệu cho thích hợp với các em hơn.” (Bùi
Văn Bảo. Tân Việt Văn Lớp Năm (lớp
Nhứt cũ), “Lời nói đầu”. Sài Gòn: Nxb Sống Mới, 1971)...
Khảo sát một số sách giáo khoa cũ còn tìm được,
cũng như bộ Tiểu Học Nguyệt San do Bộ
Giáo Dục thời đó ấn hành, chúng ta thấy về
hình thức, hầu hết chúng đều là
những bài thơ lục bát, song thất lục bát hoặc thơ mới (với mỗi câu tám chữ, bảy
chữ, hoặc số chữ trong các câu không đều nhau), ít khi có thơ luật (với niêm
luật chặt chẽ kiểu Đường luật), trừ một vài bài trích dẫn từ thơ cổ của người
xưa như của Tản Đà, Nguyễn Khuyến...
Dân tộc Việt Nam sính thơ, có truyền thống về
khối ca dao khổng lồ và thơ lục bát, nên ngay cả trong lĩnh vực tuyên truyền,
giáo dục cũng có thói quen sử dụng văn vần. Nhờ có vần điệu dễ nhớ dễ thuộc,
những bài thơ như thế không chỉ được dùng để kêu gọi, thức tỉnh đồng bào về một
việc gì đó mà còn thường được áp dụng trong những bài học về đạo đức, hoặc để
phổ biến kiến văn đủ loại. Nếu đem so sánh những bài thơ học thuộc lòng trong
các sách Quốc Văn tiểu học giai đoạn 1954-1975 với Nhị Thập Tứ Hiếu, Gia Huấn Ca, Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca (giữa thế kỷ
19), với những bài thơ răn dạy đạo đức in trong bộ Thông Loại Khóa Trình của nhóm Trương Vĩnh Ký (nửa sau thế kỷ 19),
hoặc với những bài ca cổ động phong trào Duy Tân in trong tập Quốc Dân Tập Độc (năm 1907, đầu thế kỷ
20) của nhóm Đông Kinh Nghĩa Thục (xem Thơ
Văn Đông Kinh Nghĩa Thục. Nxb Văn Hóa, 1997), chúng ta sẽ thấy rất rõ giữa
chúng với nhau là “nhất mạch tương thừa”.
Thử dẫn vài đoạn thơ như sau trong Quốc Dân Tập Độc, sẽ chứng minh được hầu
hết những bài thơ học thuộc lòng sưu tập lại từ các sách Quốc Văn tiểu học nói
trên là có cùng một “giọng”, chung một phong cách:
Đấng làm
trai sinh trong trời đất,
Phải sao cho rõ mặt non
sông.
Kìa kìa mấy bậc anh hùng,
Cũng vì thủa trước học
không sai đường.
Cuộc hoàn hải liệt cường
tranh cạnh,
Mở trí dân giàu mạnh biết
bao.
Nước ta học vấn thế nào,
Chẳng lo bỏ dại nhẽ nào
được khôn.
Chữ quốc ngữ là hồn trong
nước,
Phải đem ra tính trước
dân ta,
Sách các nước sách Chi Na,
Chữ nào nghĩa ấy dịch ra tỏ tường.
(“Bài
hát khuyên học chữ quốc ngữ”, sđd, tr. 110)
Hoặc:
Nước Nam ta từ đời Hồng Lạc,
Mấy nghìn năm khai thác đến nay,
Á Châu riêng một cõi này,
Giống vàng ta vẫn xưa nay một loài.
(“Bài
hát yêu nước”, sđd, tr. 111)
Hoặc:
Đạo vệ sinh phải nên biết trước,
Nghĩ rượu men là chất độc người.
Xin ai chớ lấy làm chơi,
Rượu ngon cấm tiệt nhớ lời Hạ Vương.
(“Bài
hát răn người uống rượu”, sđd, tr. 135)
Để
phổ biến kiến thức, các nhà Nho thuở trước dạy dân, cũng quen dùng cùng một thể
loại văn vần, để giúp người học dễ thuộc nằm lòng:
Năm châu quanh mặt địa cầu,
Á Châu lớn nhất, Mỹ Châu thứ nhì.
Châu Âu, châu Úc, châu Phi,
Mỗi châu mỗi giống sắc chia rành rành.
(“Bài
hát kể đường đất nước ta”, sđd, tr. 115)
Về
nội dung, những bài học
thuộc lòng trong các sách Quốc Văn tiểu học không kém phần phong phú, đa dạng.
Đương nhiên chúng có tính hiện đại gần gũi với thời nay hơn so với các thế hệ
trước, nhưng tựu trung vẫn chú trọng rèn luyện cho học sinh về nhân cách, đạo
đức, óc cầu tiến, chí tiến thủ, niềm tin ở sự tiến bộ của khoa học, và nhất là
lòng nhân ái, yêu thương, tôn trọng con người... Đa số bám theo
những bài học luân lý, với những nội dung cụ thể được lặp đi lặp lại từ lớp
tiểu học nhỏ nhất đến lớn nhất và thường xoay quanh một số chủ đề như:
- Bổn phận đối với bản
thân như giữ vệ sinh cá nhân, rèn luyện thân thể, bồi dưỡng chí khí, óc mạo
hiểm và những phẩm chất tốt đẹp khác, nhất là tính trung thực, thật thà... Việc
rèn luyện phẩm đức phải đi đôi với quyết tâm từ bỏ các thói hư tật xấu...
- Khuyến học. Xác định
động cơ học tập đơn giản “Ngày nay học
tập ngày mai giúp đời”...
- Lòng hiếu kính trước
hết đối với ông bà, cha mẹ rồi đến các bậc tôn trưởng khác: anh chị, bà con cô
bác, thầy cô giáo, người già cả...
- Cổ vũ tình yêu quê
hương xứ sở, từ đó ra sức góp phần xây dựng Tổ Quốc giàu mạnh; đề cao lòng tự
hào dân tộc, ca ngợi anh hùng dân tộc, kêu gọi bảo vệ Tổ Quốc chống xâm lăng;
ca ngợi quê hương giàu đẹp, các thuần phong mỹ tục, và đề cao giá trị tiếng mẹ
đẻ...
- Tình dân tộc, nghĩa
đồng bào.
- Lòng bác ái thương
người yêu vật, tình đồng loại, đặc biệt tình cảm đối với tầng lớp lao động chân
tay nghèo khổ và những người có hoàn cảnh khốn khó, cơ nhỡ.
- Ca ngợi giá trị, nét
đẹp của lao động và lòng biết ơn những con người lao động, đặc biệt đối với dân
quê cày ruộng và tầng lớp thợ thuyền, người buôn bán nhỏ và dân nghèo thành
thị, từ em bé đánh giày đến người thợ hớt tóc, bác thợ mộc, thợ rèn...
- Các nghĩa vụ đối với
tha nhân và với xã hội. Bổn phận và quyền lợi công dân.
- Ca ngợi nếp sống
thanh bần, đạm bạc, tri túc tiện túc; đề cao tinh thần trọng nghĩa khinh tài...
- Kinh nghiệm sống (qua
một số bài thơ ngụ ngôn).
- Cổ vũ dùng hàng nội
hóa, phát triển nông – công – thương nghiệp.
- Phổ biến tri thức
khoa học phổ thông (về vũ trụ, thiên nhiên, máy móc, các phát minh...), đề cao
tinh thần khoa học, phê phán óc mê tín dị đoan.
- Ước mơ có được cuộc
sống thanh bình, ấm no, hạnh phúc.
Ngày nay đọc lại những
bài học thuộc lòng này, ngoài phần nội dung tư tưởng mang tính giáo dục hàm
chứa bên trong ra, chúng còn giúp ta tái hiện được một cách sinh động hình ảnh
năm, sáu mươi năm về trước của vùng đất Sài Gòn và một số tỉnh thành từ Cà Mau
ra đến các tỉnh Trung Bộ, qua đó thấy rõ khung cảnh sinh hoạt muôn màu muôn vẻ
của người dân từ nông thôn đến thành thị. Hình ảnh con trâu, cái cày, bác nông
phu, anh công nhân, chị bán hàng xén, mái tranh vách đất đơn sơ ở nông thôn và
các khu phố chợ tráng lệ ở thành thị... có lẽ được nhắc tới nhiều nhất, và thật
cảm động, vì chúng phản ảnh hoàn cảnh sống thật của đa số người dân Việt miền
Nam trong bối cảnh chiến tranh và sự nghèo khổ, cũng như cho thấy trình độ phát
triển về các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội một bộ phận phân ly của đất nước vừa
thoát khỏi ách cai trị của chế độ thực dân cũ.
Đây là hình ảnh của
người nông phu Việt Nam, thành phần dường như luôn được đề cập và đề cao nhiều
nhất, trong hoàn cảnh một đất nước nông dân chiếm phần đa số và vì thế họ cũng
có tư cách lẫn tính cách đại diện cho cả dân
tộc ở một giai đoạn phát triển kinh tế – xã hội nhất định:
Đôi cánh tay rắn chắc,
Anh
xới lúa vun dâu.
Mồ
hôi rơi thấm đất,
Tình
anh tràn ruộng sâu.
Tóc
anh vương vấn gió chiều,
Hồn
anh thấm lúa, lan vào hương quê.
Đôi
trâu bạn bè,
Cuốc
cày tri kỷ.
Khỏe
làm mệt nghỉ,
Đời
đẹp như thơ.
Lòng
anh hòa với lũy tre,
Hòa
trong lòng đất, đem về nguồn vui.
CAO THÀNH NHÂN
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 1 và 2-1957)
Một cách diễn tả khác,
giản dị và thực tế hơn:
Làm ăn từ sáng đến chiều,
Giữa
trời bêu nắng như thiêu ngoài đồng.
Ruộng
nương chẳng chịu bỏ không,
Hết
mùa lúa thóc lại trồng bắp khoai.
Nghiệp nhà gánh vác hai vai,
Chẳng chồn gót sắt, chẳng phai dạ vàng...
NAM HƯƠNG
(Trích Giáo Khoa Tạp Chí)
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 7-1961)
Nghề nông thời bấy giờ
luôn được ca tụng không tiếc lời, như một nghề cao quý, nhưng bằng những lời lẽ
chân thành, giản dị. Một hình thức khuyến nông qua văn chương với nghệ thuật sử
dụng ngôn từ điêu luyện:
Non cao cũng có đường leo,
Đường
dẫu khó trèo, cũng có lối đi.
Cao nguyên đất tốt lo gì,
Cày cấy kịp thì, chồng vợ ấm no.
Đất mầu trồng đậu, trồng ngô,
Đất lầy cấy lúa, đất khô làm vườn.
Nghề nông ra sức khuếch trương,
Cao nguyên phá rẫy, làm nương ven đồi...
Tưởng rằng đá rắn thì thôi,
Ai ngờ đá rắn nung vôi lại nồng.
Tưởng rằng đất núi gai, chông,
Ai ngờ đất núi cấy trồng nở hoa...
DÂN VIỆT
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 2-1958)
Mùa gặt hái đã được nhà
thơ Bàng Bá Lân mô tả bằng một đoạn hoạt cảnh thật sinh động:
Trời tang tảng, sương đao bay lớp lớp,
Cánh
đồng quê mờ ngập khói sương mờ.
Từ
cổng làng, từng bọn kéo nhau ra,
Tiếng
quang hái, đòn cân va lách cách.
Họ
vui vẻ đi nhanh trên đường đất,
Rồi
tạt ngang, tản mát khắp đồng quê.
Họ
dừng chân bên ruộng ướt sương khuya,
Lúa
rạp rạp ngã, theo gió thổi...
BÀNG BÁ LÂN
(Tiểu Học Nguyệt San, số 5/1957)
Còn đây là giá trị của
người công nhân, làm việc ngày đêm không nghỉ, không chỉ để lo cho bản thân,
gia đình, mà còn vì nghĩa vụ chung phục vụ đồng loại:
Em có biết, học sinh, em có
biết,
Các tiện nghi em thụ hưởng hằng ngày,
Là công trình vô số những bàn tay,
Chai dắn lại sau những ngày lam lũ?
Trong cơ xưởng, khắp nơi trên hoàn vũ,
Bánh xe quay, máy móc chuyển rầm rầm.
Bao công nhân, ngày hai buổi, âm thầm,
Lo phận sự chu toàn, không mệt mỏi.
Công nhân hỡi! Người anh hùng không tên tuổi!
Nhờ có anh, còi nhà máy vang rền.
Nhờ có anh, nhân loại mãi vươn lên,
Đến tột đỉnh nền văn minh cơ khí.
NGỌC LUYỆN
(Nhóm Lửa Việt, Việt Ngữ Lớp Bốn)
Hoặc:
Da mồ hôi tưới nắng đào bóng
loáng,
Gân ngoằn ngoèo, cùng năm tháng dẻo dai.
Thớ thịt căng, mọi nét máu chạy dài,
Pho hoạt tượng, hình của người lao động.
Còi nhà máy rộn lên, vang sức sống!
Khói
tung bay, cuồn cuộn bốc mây xanh.
Tay
vung lên, ôm giữ mộng hiền lành,
Tiếng
kèn kẹt xoay nhanh vòng xã hội...
Những
thanh sắt vang lời ca dữ dội,
Tia
lửa bừng, hôi hổi sức công nhân.
Đẹp
hiên ngang, một sắc đẹp tuyệt trần!
Tô
non nước, thêm muôn phần rực rỡ.
Người
lao công, ngươi là người muôn thuở,
Xây
hình hài cho bờ cõi quê hương!
Người
lao công! kìa tráng lệ huy hoàng!
Thay
tạo hóa điểm trang toàn thế giới...
HIỆP NHÂN (Tia sáng)
(Hà Mai Anh, Tiểu Học Quốc Văn Lớp Nhất)
Rồi tới tầng lớp dân
nghèo thành thị. Không nghề nghiệp nào bị bỏ sót, bị coi thường, miễn nó lương
thiện và phục vụ cho con người bằng lương tâm chức nghiệp, từ anh thợ cắt tóc
cho tới bác thợ rèn, đều có nét đẹp riêng của người lao động chân chính:
Trong túp lá bên đường qua xóm chợ,
Tiếng
“Băng! Băng!” từng chập dội vang rền:
Bác
thợ rèn làm việc, ở ngay bên,
Nào
đe, búa, nào than, nào sắt, bễ.
Một
đứa bé, ngồi cao trên chiếc ghế,
Rướn
thân gầy thụt bễ chẳng khi lơi.
Lò
than hồng, hừng hực đỏ, reo vui,
Mưa
bụi lửa từng cơn bay tới tấp.
Cứ
mỗi lần vươn vai giơ búa đập,
Là
một lần thanh sắt ở trên đe,
Lại
oằn đi, dưới sức mạnh tràn trề,
Của
bắp thịt người cần lao kiên nhẫn.
NGUYỄN NGỌC
(Nhóm Lửa Việt, Việt Ngữ Lớp Bốn)
Tuy nhiên, cũng còn có
những cảnh đời cơ khổ, bất hạnh, lỡ làng... của bác phu xe, em bé đánh giày, và
những trẻ mồ côi..., tất cả đều được miêu tả sinh động như một cách khéo để
đánh thức lương tâm và kêu gọi sự quan tâm cũng như tinh thần liên đới trách
nhiệm của mọi người trong nỗ lực đấu tranh cho công bằng xã hội:
Bác phu xe:
Trời mưa như trút nước,
Đường
nhựa bóng như gương.
Gió
rung, gào, gió thét,
Nhìn
cây cối mà thương.
Giờ
chỉ còn mấy bác,
Phu
xe cứ chạy đều.
Chân
đạp, tay bẻ lái,
Gắng
lướt gió ngược chiều.
Dưới
trời mưa ướt át,
Dưới
gió rét căm căm.
Người
phu xe cảm thấy,
Cả
thân thể như dần.
Trong
cơn mưa gió đó,
Ai
ngồi ở trong nhà.
Có
để ý nhìn qua,
Những
con người lao khổ.
Theo XUÂN CHINH
(Tiểu Học
Nguyệt San, tháng 4-1957)
Em bé đánh giày:
Mai vàng đua nhau nở,
Báo
hiệu xuân về đây.
Bao
nhiêu người vui vẻ,
Buồn
riêng em đánh giày.
Em
xách chiếc thùng cây,
Mang
tấm thân ốm gầy,
Len
khắp đường phố chợ,
Tìm
đánh một đôi giày.
Em lê tấm thân tàn,
Vào các tiệm cao sang,
Đánh giày ăn qua bữa,
Thân trẻ sớm cơ hàn.
Xuân
này em lang thang,
Đi
khắp các phố phường,
Mang
quần áo tả tơi,
Rước
xuân bằng đau thương.
ĐỘC LINH
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 9-1961)
Và những đứa bé mồ côi:
Có những con người đang thời hoa nở,
Sống
trong niềm đau khổ: kiếp lầm than.
Cặp
chân non ngày tháng những lang thang,
Trên
đường phố ngút đầy bao gió bụi.
Tuổi
niên thiếu dệt trong ngàn sầu tủi,
Không
gia đình, cha mẹ, khát tình yêu.
Ôi
long đong, thân trẻ nhỏ sớm chiều,
Ngàn
cực nhục cũng chỉ vì cơm áo!
Tuổi
niên thiếu lớn dần trong khổ não,
Mặt
trẻ trung đầy những nét đau thương.
Sống
lầm than, dầu dãi nắng mưa sương,
Thân
còm cõi không đủ đầy nhựa sống.
Những
trẻ ấy dưới bầu trời cao rộng,
Đưa
mắt nhìn thèm khát cảnh yên vui.
Có
chăng ai, chỉ một phút ngậm ngùi,
Cho
thân phận con người xấu số.
XUÂN CHÍNH
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 3-1959)
Hoặc:
Hai đứa trẻ
Trên
vỉa hè,
Dòng
đời đã bước lê thê,
Chúng
đi, đi mãi biết về nơi đâu?
Chúng
đã cùng chung một nỗi sầu,
Khi
mùa ly loạn rắc thương đau.
Gặp
nhau trong buổi chiều đông giá,
Mỗi
dải khăn tang, mỗi mái đầu.
Hôm
nay mưa gió lắm,
Chúng
sát lại gần nhau,
Hòng
san hơi thở ấm,
Cho
đỡ lạnh lòng đau.
Dật
dờ trong bóng tối,
Hai
trẻ dắt nhau đi.
Đêm
nay chúng sẽ về đâu nhỉ?
Hay
vẫn bơ vơ kiếp lạc loài!
H.H.
(Hà Mai Anh, Tiểu Học Quốc Văn Lớp Nhất)
Ngoài mấy nội dung liên
quan đến việc mô tả các thành phần dân dã trong xã hội, gần một phần ba số bài
thơ dùng làm bài học thuộc lòng đã được nhắm vào chủ đề bồi dưỡng cho thế hệ
trẻ những tình cảm lành mạnh đối với đất nước mến yêu. Đó là những bài thơ ca
ngợi quê hương xứ sở giàu đẹp, qua hình ảnh của con trâu trên đồng lúa, mái
tranh vách đất trong xóm nghèo, rồi những con kênh, giếng nước, lũy tre..., các
hoạt động xã hội trong làng xã, gợi nên ước mơ về một cuộc sống an cư lạc
nghiệp trong cảnh hòa hợp, thanh bình, hạnh phúc:
Quê em nhà cửa liền nhau,
Mái tranh, mái ngói chen màu xinh xinh.
Quê em có miễu, có đình,
Có
con sông nhỏ uốn mình trong tre.
Có
đồng có ruộng bao la,
Nông
dân làm lụng hát ca bên đồng.
Lúa
xanh đang trổ đòng đòng,
Một
mùa mơn mởn đẹp lòng dân quê.
Nương
dâu xanh ngắt bốn bề,
Bắp,
mì, khoai, đỗ, lang, mè tốt xanh.
Sớm
hồng trời đẹp trong lành,
Sương
mai rung động trên cành chim ca.
Vàng
son lơ lửng chiều tà,
Đồng
quê thơ mộng bao la xanh rờn.
THANH GIANG
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 10-1958)
Hoặc:
Quê tôi có một con sông,
Có
nương khoai thắm, có đồng lúa xanh.
Bốn
mùa gió mát, trăng thanh,
Bốn
mùa lúa tốt, dân lành vui tươi.
Đó
đây vang tiếng nói cười,
Câu
hò, giọng hát của người nông dân.
Ngày
đêm chẳng quản tấm thân,
Nắng
mưa dầu dãi bao lần nào than.
Mồ
hôi đem tưới mùa màng,
Chân
tay xới mảnh đất vàng thân yêu.
Quê
tôi trong ánh nắng chiều,
Vi
vu thoáng tiếng sáo diều nhặt khoan.
HÀN GIANG
(Nhóm Lửa Việt, Việt Ngữ Lớp Bốn)
Hoặc:
Tôi đã đi,
Từ
Cà Mau ra Bến Hải.
Tôi
đã dừng lại,
Khắp
các nẻo đường.
Nước
xanh màu bát ngát đại dương,
Hay
trùng điệp núi rừng cao nguyên đất đỏ.
Tôi
đã qua,
Khắp
các đô thành nguy nga, to nhỏ,
Bãi
biển, đồi thông.
Lúa
Hậu Giang bát ngát ngập đồng,
Dừa
Bình Định tô xanh miền cát trắng.
(Tiểu Học Nguyệt San)
(Nhóm Lửa Việt, Việt Ngữ Lớp Bốn)
Thành phố Huế cổ kính
50-60 năm về trước đã được mô tả sinh động bằng mấy nét chấm phá tiêu biểu, với
chùa Thiên Mụ, với sông Hương và núi Ngự Bình, vẽ nên một bức tranh nên thơ, êm
đềm tuyệt đẹp:
Huế
Dưới cảnh sắc chiều vàng bóng ngả,
Thành
Huế như bức họa muôn màu.
Xa
xa ngọn chuối, tàu cau,
Ngàn
thông vi vút, bóng dâu chập chờn.
Cảnh
cung điện vàng son chói lọi,
Dải
tường thành vòi vọi quanh co.
Nguy
nga tòa sở nhỏ to,
Nếp
xưa bộ viện dư đồ còn nguyên.
Thiên
Mụ cố lánh miền trần tục,
Tẩm
lăng còn y thức ngựa voi.
Sông
Hương đáy hiện khuôn trời,
Ngự
Bình lồng bóng giữa vời chon von.
VŨ HUY CHÂN
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 8-1960)
Một trong những nội
dung quan trọng xuyên suốt của những bài học thuộc lòng thời kỳ này là bồi
dưỡng lòng yêu nước cho thế hệ tiểu học. Yêu nước phải luôn gắn liền với thương
dân, còn được thể hiện bằng tinh thần đấu tranh kiên cường bất khuất mỗi khi
đất nước bị đe dọa trước hiểm họa xâm lăng từ bên ngoài. Vì thế không ít bài
học thuộc lòng đã được dành riêng cho chủ đề lịch sử, nhắc lại những chiến công
oanh liệt mà các thế hệ cha ông đã làm nên để bảo vệ Tổ Quốc. Một số bài như
thế có lời lẽ kích động hùng hồn không khác gì những hồi trống trận giục giã.
Bài thơ ngắn sau đây đã tóm thuật được cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của Bình Định
Vương Lê Lợi, đánh đuổi quân Minh xâm lược:
Bao năm sắm sửa, đợi chờ,
Lam
Sơn gióng trống, mở cờ ra binh.
Quyết
lòng tận diệt quân Minh,
Giữa
hàng tướng tá xưng Bình Định Vương.
Mười
năm lận đận bốn phương,
Gian
nan rồi mới lên đường vinh quang.
Trận
cuối cùng, ải Chi Lăng,
Vương
Thông nộp giáo, Liễu Thăng rơi đầu.
Hồ
Gươm xanh ngắt một màu,
Tưởng
chừng kiếm quý còn đâu chốn này!
BẢO VÂN
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 3-1958)
Trận cuối cùng ở Chi
Lăng năm 1427 kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh mười năm giành độc lập dân
tộc, đã được một tác giả khác diễn lại như một khúc hùng ca:
Mưu thần một trận ra oai,
Kinh
hồn Tống tướng, khiếp tài Nam binh,
Trời
Nam yên hưởng thái bình,
Nghìn
thu công đức Đại Hành chớ quên.
Ỷ
nước mạnh, hiếp dân hèn,
Bắc
Nam
còn lại lắm phen tranh hùng.
Chi
Lăng sau vẫn một vùng,
Là
nơi giặc Liễu bước cùng bỏ thân.
Kìa
ai mật nếm, gai nằm,
Một
thân gánh vác, mười năm dãi dầu.
Tấm
gương ái quốc còn lâu,
Ngàn
năm để cháu con sau học đời.
Có
thân phải biết giống nòi,
Rồng
Tiên quyết chẳng kém người năm châu.
DƯƠNG ĐÌNH TẨY
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 4-1957)
Và hào khí đó đã luôn
được lặp đi lặp lại suốt theo tiến trình lịch sử các cuộc đấu tranh giành độc
lập, như một cách để un đúc niềm tự hào dân tộc và ý chí bảo vệ Tổ Quốc chống
xâm lăng cho thế hệ tương lai đất nước. Chủ đề này đã được thể hiện sinh động
trong rất nhiều bài thơ học thuộc lòng khác, nhắc lại những chiến công oanh
liệt về sau nữa, như bài Xuân Kỷ Dậu:
Băng băng đuốc lửa, rừng gươm giáo,
Khí
thế quân Nam
nước lũ tràn.
Khuya
tối mồng năm, liên tiếp sáng,
Hà
Hồi thất thủ, Ngọc Hồi tan.
Đoàn
quân giải phóng tràn xô đến,
Ngựa
thét lừng mây, súng đổ thành.
Sĩ
Nghị, nửa đêm quăng ấn tín,
Mình
không gươm, giáp, chạy về Thanh.
Một
lũ tàn quân theo chủ tướng,
Tranh
nhau, cầu đổ, vỡ cường chinh.
Sông
Hồng ngập ngụa thây quân Mãn,
Máu
đỏ trôi về tận Bắc Kinh.
Cờ
Việt thượng lên tầng soái phủ,
Quang
Trung dừng ngựa giữa Thăng Long.
Áo
bào khói súng pha đen xạm,
Chiến
thắng dân, quân: nức một lòng.
TỪ TRẨM LỆ
(Bùi Văn Bảo, Quốc Văn Toàn Tập Lớp Nhất)
Nhưng trước hết là đời
sống, tâm tư, nguyện vọng đẹp đẽ của lứa tuổi học trò khi còn ngồi dưới mái học
đường, được lặp đi lặp lại trong suốt đoạn đường tiểu học. Ngoài nội dung
khuyến học vốn chiếm một tỷ phần quan trọng, các đức tính, bổn phận mà người
học sinh cần có trong tương quan với thầy, bạn cũng luôn luôn được nhắc nhở,
như trách nhiệm học tập, lòng biết ơn thầy, thái độ xử sự với bạn bè cùng lớp,
cùng trường... Và gần gũi nữa là những kỷ niệm tươi vui, êm đềm của tuổi ấu thơ
trong “thời cắp sách”:
Ôi! êm ái là thời đang cắp sách!
Ôi
vui tươi là lúc hãy còn thơ!
Đời
đẹp đẽ như trong một giấc mơ,
Và
thắm đậm như một mùa xuân mới.
Có
những lúc hồn nhẹ nhàng phơi phới,
Cũng
đôi khi nặng trĩu bởi lo âu.
Nhưng
một khi bài đã thuộc làu làu,
Lo
lắng biến, nhường phần cho vui vẻ.
Rồi
những phút đời vô cùng đẹp đẽ,
Hưởng
tình trong của bạn hữu thân yêu.
Những
truyện vui, rồi những truyện vui theo,
Cứ
mau chóng chạy qua cùng ngày tháng.
Những
tình cảm nơi học đường xán lạn,
Quên
làm sao, tuy dĩ vãng xa xôi?
Vì
đó là những kỷ niệm của thời,
Thời
cắp sách, thời vô ngần trong sạch.
LÂM NGỌC SĨ
(Hà Mai Anh, Tiểu Học Quốc Văn Lớp Nhất)
Những cảm xúc tươi vui,
hăm hở của Ngày Tựu Trường:
Nô nức hôm nay, buổi tựu trường,
Như
chim ríu rít sáng tinh sương.
Các em tấp nập ra trường học,
Lê guốc giày vang khắp phố phường.
Nét mặt ngây thơ miệng mỉm cười,
Áo quần mới mẻ dáng vui tươi.
Tay cầm cặp sách đi chân sáo,
Lòng vẫn lâng lâng, mặt sáng ngời.
Giữa đám mây xanh hiện mái trường,
Một hồi trống giục đã ngân vang.
Cổng trường mở rộng như chào đón,
Những đám trò em bước vội vàng.
Bạn cũ gặp nhau lại nghịch tinh,
Vui đùa, cười nói, chuyện tâm tình.
Trời thu mây kéo như thông cảm,
Với nỗi niềm vui của học sinh.
VŨ TIẾN THU
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 9
và 10-1959)
Cũng
như nỗi sung sướng khi buổi học cuối cùng chấm dứt, sắp được bước vào trọn ba
tháng nghỉ hè đầy thơ mộng, thời gian để lấy lại sức khỏe và tinh thần chuẩn bị
cho năm học mới kế tiếp (chứ không như ngày nay, cứ học suốt!):
Sung sướng quá, giờ cuối cùng đã hết,
Đoàn
trai non hớn hở rủ nhau về.
Chín
mươi ngày nhảy nhót ở miền quê,
Ôi
tất cả mùa xuân trong mùa hạ!
Một
nét mặt, trăm tiếng cười rộn rã,
Lời
trên môi chen chúc nối nghìn câu.
Chờ
đêm nay: sáng sớm bước lên tàu,
Ăn
chẳng được, lòng nôn nao khó ngủ.
Trong
khoảnh khắc, sách bài là giấy cũ,
Nhớ làm chi. Thầy mẹ đợi, em trông.
Trên đường làng, huyết phượng nở thành bông,
Và vườn rộng nhiều trái cây ngon ngọt.
Kiểm soát kỹ, có khi còn thiếu sót,
Rương chật rồi, khó nhốt cả niềm vui.
Tay bắt tay, hồn không chút bùi ngùi,
Các bạn hỡi, trời mai đầy ánh sáng.
XUÂN TÂM (Lời Tim Non)
(Tiểu Học Nguyệt San, tháng 5-1958)
Sự
thật, vẫn còn một số nội dung phụ khác có lẽ cũng cần được đánh giá lại cho
được khách quan hơn. (...)
Ngoài ra, do nhận thức, tầm nhìn chung của xã hội
lúc bấy giờ còn rất hạn chế về vấn đề bảo vệ môi trường, không tránh được vài
sách Quốc Văn tiểu học đã “vô tư” đưa vào một số bài học thuộc lòng có nội dung
liên quan đến những thú vui (như đá gà, săn bắn...) mà nếu đứng trên quan điểm
bảo vệ môi sinh hiện đại thì là không lành mạnh, có thể sẽ mang đến những tác
dụng, hiệu quả tiêu cực. Xét riêng về phương diện này, sách giáo khoa môn Văn
tiểu học thời kỳ này đã có một bước lùi so với giai đoạn 1940: trong khi ở Quốc Văn Giáo Khoa Thư (lớp Sơ Đẳng) của
nhóm Trần Trọng Kim có bài “Không nên phá tổ chim” quá hay (xem Quốc Văn Giáo Khoa Thư, tuyển tập, Nxb
Trẻ, 1995, tr. 41), thì ở một sách Quốc Văn toàn thư lớp Ba nọ, có soạn giả đưa
vào chủ đề săn bắn đến hai bài tập đọc “Phát súng đầu tiên”, “Một nhà thiện
xạ”, một bài chính tả “Đuổi chim”, còn một bài học thuộc lòng thì là... “Thú đi
săn” (ghi tên tác giả Hồng Vân), trong có mấy câu nói theo bây giờ là rất “phản
cảm”:
Vui thay cái thú đi săn!
Núi, rừng lặn lội, băng ngàn vui say!
Khi nhắm thỏ, khi rình nai,
Khi theo dấu cọp, khi gài chú beo.
. . .
Khi mừng gặp gỡ heo rừng,
Khi vui bắt đặng cặp sừng con gô.
Khi mê theo dõi ông bồ,
Khi chờ tê giác, khi mơ sư vàng.
(Phạm Trường Xuân...
Quốc Văn Toàn Thư, lớp Ba, quyển II.
Sài Gòn: Nxb Việt Hương, 1961, tr. 94.)
Trong một xã hội mà còn có ông vua nêu gương xấu cho
dân như cựu hoàng Bảo Đại thời đó suốt ngày chỉ biết vui chơi săn bắn, chẳng lo
gì đến việc nước, thì việc dạy cho dân chịu từ bỏ cái “thú đi săn” quả là không
dễ dàng chút nào!
*
Ngoài một số mặt hạn chế tất nhiên do hoàn cảnh lịch
sử cụ thể quy định, sẽ không là quá đáng nếu chúng ta coi những bài học thuộc
lòng cấp tiểu học thời bấy giờ đã góp phần rất tốt vào việc hình thành một nền
văn chương giáo khoa với nội dung rất phong phú đa dạng, lành mạnh và có tác
dụng tích cực trong việc rèn luyện đức-trí cho thế hệ trẻ ở lứa tuổi học trò.
Với những giá trị khách quan nêu trên, thiết nghĩ
việc sưu tập, giới thiệu lại một số bài học thuộc lòng cũ rải rác ở các sách
trước đây là một việc rất đáng nên làm. Mục đích là để vừa bảo
tồn một vốn di sản quý giá đã bị lãng quên, vừa cung cấp cho thế hệ học trò
ngày nay những bài thơ hay, mà có một thời anh em thuộc thế hệ chúng tôi đã
được hưởng dụng và luôn luôn khắc sâu trong tâm khảm những nội dung đầy hứng
thú và bổ ích.
Chiến tranh đã chấm dứt gần bốn mươi năm, thời
gian có lẽ khá đủ cho sự lắng dịu của mọi con người ở cả hai bên đối đầu, và vì
thế cũng đủ chỗ cho lòng khoan dung có cơ hội nảy nở để vượt qua những rào cản
của ý thức hệ, từ đó chịu nhìn lại mọi vấn đề một cách trầm tĩnh và nghiêm túc
hơn, trong đó có vấn đề cần xem xét lại sâu hơn, khách quan hơn khía cạnh thuần
túy văn hóa, học thuật của những công trình giáo dục có giá trị nhân bản đích
thực mà tất cả đều do những con người Việt Nam thiện chí, yêu nước sáng tạo
nên...
Trong tình trạng sa sút
chung của xã hội về văn hóa, đạo đức như bây giờ, đặc biệt trong giới trẻ học
sinh có khá nhiều biểu hiện tiêu cực như chửi thề, đánh đấm hoặc thậm chí đâm
giết nhau, không thế thì cũng là những thói đua đòi chạy theo cuộc sống vật
chất xa hoa..., việc trở lại một cách có nghiên cứu và chọn lọc với những bài
học thuộc lòng có nội dung khích lệ cuộc sống lành mạnh có lẽ là một đề tài
quan trọng đáng để cho các nhà giáo dục và phụ huynh suy nghĩ. Trong chiều
hướng tích cực đó, không loại trừ khả năng những bài thơ học thuộc lòng nằm
trong đống sách cũ còn có thể cung cấp thêm phương pháp cũng như tài liệu tham
khảo cụ thể hữu ích cho việc biên soạn, cải tiến, tái cấu trúc nội dung các
sách giáo khoa tiếng Việt bậc tiểu học mà chúng ta đang nỗ lực tiến hành được
một phần khá rõ, cần được phát huy thêm theo chiều hướng “chú trọng giáo dục đạo đức và các giá trị truyền thống” khẳng định
trong Chiến Lược Phát Triển Giáo Dục 2011-2020
đã được Chính Phủ phê duyệt hồi giữa tháng 6-2012 vừa rồi.
TRẦN VĂN CHÁNH (21-6-2012)
Nguồn: Tạp chí Nghiên Cứu Và Phát Triển. Sở Khoa Học Và
Công Nghệ Thừa Thiên - Huế: số 6(95), 2012.
* Giáo dục không phải để chuẩn bị cho cuộc sống;
bản thân cuộc sống là giáo dục. Education
is not preparation for life; education is life itself. JOHN DEWEY (Mỹ, 1859-1952)