Con người từ khi sanh ra đã bắt đầu bị chi phối theo chu trình
sanh lão bệnh tử tương ứng với quy luật thành trụ hoại không của vũ trụ. Chu trình nầy gọi là vòng
đời, vì nó diễn tiến theo vòng tròn có hạn định, trải qua các giai đoạn
phát triển sinh lý, phát triển tri thức và phát triển tâm lý xã hội.
Thời kỳ anh nhi, ấu nhi từ mới sanh đến ba tuổi, tiền nhi đồng từ ba
đến sáu tuổi, nhi đồng từ sáu đến mười hai tuổi.
Thời kỳ thiếu niên, thanh niên từ mười hai đến hai mươi tuổi.
Thời kỳ thành niên từ hai mươi đến bốn mươi tuổi.
Thời kỳ trung niên từ bốn mươi đến sáu mươi tuổi.
Thời kỳ lão niên từ sáu mươi đổ lên tám mươi tuổi.
Từng chặng trên vòng tròn sanh lão bệnh tử ấy nằm trên
chiều ngang của không gian; khi các yếu tố sanh lão bệnh tử bắt đầu diễn tiến
theo chiều dọc của thời gian thì gọi chung là dòng đời. Dòng nước cuộc đời cứ trôi xuôi từ thượng nguồn của quá
khứ đến hạ nguồn của vị lai rồi đổ ra trùng dương của hư không luân chuyển.
Vòng luân
chuyển ấy là vòng tái sinh của con người sau một kiếp đã trải qua, tùy theo
nghiệp lực của mỗi người mà đi xuống hay đi lên kiếp đời tái sinh. Đi xuống là
vào vai một người cùng khổ tới loài kim thạch. Đi lên là một người giàu sang,
quyền quý, đến hàng chân nhân thoát tục.
Nói về vòng
đời, có chuyện kể lúc Đức Thích Ca đang trú ở giữa dân chúng Vajji, tại làng
Bhanda. Ngài gọi các tỳ kheo lại dạy:
Này các tỳ kheo, có bốn hạng người hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?
Hạng người đi thuận dòng, hạng người đi nghịch dòng, hạng người tự đứng lại, hạng
người đã vượt qua bờ bên kia, đứng trên đất liền.
Này các tỳ kheo, thế nào là hạng người đi thuận dòng? Hạng người thọ hưởng các dục (ham muốn) và làm các ác
nghiệp gọi là đi thuận dòng.
Thế nào là hạng người đi ngược
dòng? Này các tỳ kheo, có hạng người không thọ hưởng các dục, không làm ác
nghiệp, sống phạm hạnh [1] viên mãn gọi là đi ngược dòng.
Này các tỳ kheo, thế nào là hạng người tự đứng lại? Hạng người do diệt tận năm kiết sử,[2] được hóa sinh, không còn trở lại
đời này nữa gọi là tự đứng lại.
Đức Phật chỉ ra bốn hạng người
đang có mặt trên dòng đời, ở đây chúng ta chỉ đề cập đến hai hạng người đi thuận dòng và ngược dòng, vì giai đoạn đứng
lại hay vượt qua bến bờ bên kia
là để tỏ rõ chỗ rốt ráo của hành vi ngược dòng đời của người chơn tu.
Mỗi người trong chúng ta, ai
cũng đã từng trôi xuôi trên dòng sông của cuộc đời; cũng đều va phải biết bao
khúc quanh, biết bao sóng dồi gió dập; cũng đều trải nghiệm buồn khổ thì nhiều
sướng vui thì ít, và cũng đã gậm nhấm biết bao cay đắng của tình đời thay trắng
đổi đen.
Tuy nhiên, nếu cứ để con thuyền
đời của chúng ta trôi xuôi thì dễ hơn là bơi ngược dòng, vì thuyền trôi xuôi
không cần dùng sức bơi, chỉ cần cầm lái, nhưng khi qua những ghềnh thác tay lái
khó mà kềm nổi để tránh va đập mạn thuyền.
Ngày nay chúng ta may mắn gặp Đạo,
Đức Chí Tôn và các Đấng đã dạy cho chúng ta phương thức bơi ngược dòng đời để kịp
về bến bờ quê xưa vị cũ.
Trong những đoạn thánh giáo sau
đây Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy về ý nghĩa của người đi ngược dòng đời.
Cảnh báo hiệu có dông to đến
Thì con lo lìa bến mê tân
Thuyền khơi mặt bể sóng trần lao xao.
Khi khởi hành con rao cho lớn
Ai qua sông, khá xuống thuyền
đây!
Bao nhiêu thì cũng không đầy
Thầy dạy lìa bến mê tân cũng có nghĩa là đi
ngược dòng đời, và sóng to gió lớn
nói ở đây là những thiên tai địa ách, những biến động của nhơn tình. Thuyền đạo
mặc dù không đáy nhưng chở bao nhiêu người cũng không khẳm, điều cần yếu là phải
có đức tin dũng mãnh để tạo thêm nghị lực chèo chống khi bước xuống thuyền bơi
ngược về bến giác.
Thầy bảo chúng ta: Khi khởi hành phải rao cho lớn. Nhưng rao cho lớn
là thế nào? Câu nầy ám chỉ người “rao” là người đã thực sự có đầy đủ đức tin và
sáng suốt, quyết tâm lột xác đi ngược dòng đời, đứng ngoài vòng những tranh chấp
hơn thua bởi thế quyền địa vị; trải rộng cõi lòng thực hành từ bi, hỷ xả theo Thánh hạnh, làm gương
tốt cho người khác cùng hăng hái bước lên thuyền ngược về bến đạo.
I. LÊN THUYỀN NGƯỢC NƯỚC
Vậy thuyền nầy kêu gọi và rước những ai qua sông? Thầy dạy tiếp:
Rước những con hy sinh vì Đạo
Rước những trẻ hiếu thảo tâm
thành
Rước người hiền đức trọn lành
Rước người chẳng mến lợi danh tục
đời.
Rước những khách ưu thời mẫn thế
Rước những con lời thệ gìn tròn
Rước người căn vị giữ còn
Chúng ta thử
tìm hiểu từng câu của hai vế thi bài trên:
1. Thế nào là hy sinh vì Đạo?
Người hy
sinh vì đạo là quên mình, không nghĩ tới tự do cá nhân, quyền lợi, danh vọng
hay sinh mạng riêng mình để lo hành đạo, làm lợi ích cho nhơn sanh. Đức Mẹ dạy:
Hy sinh con mới được tồn sinh
Muôn một tằm tơ kén dệt thành
Nếu chẳng đem thân vì đại nghĩa
2. Thế nào là hiếu thảo tâm thành?
Là thật lòng hiếu thảo. Người có lòng thành hiếu thảo với cha mẹ hữu
hình thì cũng có lòng hiếu thảo với Cha Mẹ thiêng liêng là Đấng Cha Trời Thượng
Đế và Đức Mẹ Diêu Trì. Lòng hiếu thảo được thể hiện qua sự vâng hành thánh ý,
không làm điều chi trái đạo, trái với thánh ngôn về sự thương yêu, thánh huấn về
tu thân luyện kỷ.
3. Thế nào là hiền đức trọn lành?
Là người sống đạo theo gương bậc hiền nhân quân tử, tu nhân tích đức,
mong cầu tiến bộ đến chỗ chí thiện tức trọn lành, như lời Phật dạy trong Kinh
Pháp Cú: Chư ác mạc tác, chúng thiện phụng hành, tự tịnh kỳ ý,[10] nghĩa là mọi
điều xấu điều ác dù lớn dù
nhỏ cũng đừng làm; mọi điều lành dù nhỏ dù lớn đều phải trân trọng làm theo,
thường sống trong các pháp thiện thì tâm ý của mình tự nhiên thanh tịnh.
4. Thế nào là chẳng mến lợi danh tục đời?
Đối với phần
đông người đời thì ai cũng mến chuộng lợi danh, nhưng người chơn tu thì luôn giữ
lòng không cho ham danh mến lợi. Đã đành lợi cũng cần phải có để nuôi sống thân
mệnh và làm phương tiện thực thi công đức bằng khả năng lao động của mình,
nhưng không vì quá cầu lợi mà trở thành tham muốn vượt ngoài đạo nghĩa. Danh
thì không cầu cũng sẽ có, bởi lẽ một khi tam công (công quả, công trình, công
phu) dồi dào ắt hữu xạ tự nhiên hương, đâu cần phải bon chen tạo lấy danh vọng
hão huyền.
5. Thế nào là ưu thời mẫn thế?
Là biết thương cảm cho thế nhân
còn đang triền miên chìm đắm trong khổ đau bởi tham vọng tương tranh; biết lo lắng
cho thời buổi thế đạo suy vi, nhơn tâm ly tán mà đem chút sức mình làm hạt nhân
gieo mầm thánh đức.
6. Thế nào là lời thệ gìn
tròn?
Lúc mới nhập môn, chúng ta ai ai
cũng quỳ trước Thiên Bàn lập minh thệ: Từ đây biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế, chẳng đổi
dạ đổi lòng, hiệp đồng chư môn đệ, gìn luật lệ Cao Đài, như sau có lòng hai thì
thiên tru địa lục. Trong lời minh thệ có ba lời hứa nguyện quan trọng:
Biết một Đạo Cao Đài Ngọc Đế: Là trọn lòng trung tín với đạo Cao Đài của Đức Chí Tôn, không đặng
phân tâm cải đạo, hoặc chia phe lập đảng, tác động tâm lý gây mất đoàn kết, mất
đức tin trong đồng đạo.
Hiệp đồng chư môn đệ gìn luật lệ Cao
Đài: Chung tâm hợp sức cùng đồng đạo từ trên xuống dưới gìn giữ và
thực thi Tân Luật, Pháp Chánh Truyền và thi hành các quy điều giáo huấn của Hội
Thánh để làm tròn vai trò và quyền hạn nhiệm vụ người đạo của mình.
Như sau có lòng hai thì thiên tru địa
lục: Ăn ở hai lòng là bất trung bất chính, dối Thầy lừa bạn, đầu cơ tôn
giáo, mượn đạo tạo đời và làm những việc trái với quy điều giới luật, bội
nghịch cùng Hội Thánh, sẽ chịu luật hình trời tru đất diệt.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư khuyên dạy:
Dù tu Phật, tu Trời, tu Thánh
Hoặc tu Tiên, Khổng Mạnh, Gia Tô
7. Thế nào là căn vị giữ còn?
Căn vị chính
là bổn linh chơn tánh, là giọt ngọc Kim Bàn mà Phật gọi là bổn lai diện mục. Nếu
giọt ngọc Kim Bàn còn thì tám món báu (Hiếu, Đễ, Trung, Tín, Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ)
không bị mất. Làm sao chúng ta biết
tám báu này còn hay mất?
Tôn kính bậc
trưởng thượng; không làm điều gì sai trái với thánh ý của Thầy Mẹ là Hiếu còn.
Trên hòa dưới
thuận; cư xử có tình có nghĩa với anh chị em trong họ hàng, với đồng đạo và với
xã hội nhân quần là Đễ còn.
Giữ lòng một
mực chí thành vì đạo, vì nhơn sanh, không tư tâm thiên lệch mà làm mất lẽ công
bình là Trung còn.
Tin Thầy,
tin Đạo, thành thật tin tưởng lẫn nhau là Tín
còn.
Khiêm cung,
độ lượng, phận nào theo phận nấy là Lễ
còn.
Hy sinh, vị
tha, cứu khó trợ nguy, giúp người cô quả là Nghĩa
còn.
Nghèo cho sạch,
rách cho thơm là Liêm còn.
Biết hổ thẹn
mà sửa sai chừa lỗi là Sỉ còn.
Thế mới hay:
Còn trời, còn nước, còn non
Ai còn tám báu là còn nguyên căn.
Nguyên căn
còn thì không sợ lạc lối về quê xưa vị cũ:
Đừng e sợ lạc đường cựu vị
Lo là không khắc kỷ vô minh
Miệng thì tụng đọc câu kinh
8. Thế nào là đầy đủ công bòn?
Ngọc Lịch Minh Kinh viết:
Ba ngàn công quả đặng viên
thành,
Đơn thơ chiếu hiển danh Thiên tước.
Ơn Trên thường khuyên chúng ta mót
bòn công quả, có ý dạy cho ta thấy rằng tòa nhà cao tầng kia được kết cấu bằng
hằng vạn viên gạch nhỏ bé, thì cái tòa nhà công đức của người tu cũng thế, liên
tục làm nhiều công quả nhỏ lâu năm chầy tháng sẽ thành một tòa công quả tức là tòa
thiên nhiên như bài kinh Đệ Lục Cửu mô tả:
Vào Cung Vạn Pháp xem qua
Cho tường cựu nghiệp mấy
tòa thiên nhiên.
Và trong Kinh Sám Hối cũng xác định điều nầy:
Lâu ngày dồn, tính đếm
có dư
II. XUÔI NGƯỢC DÒNG ĐỜI
Trên là nói về điều kiện cần có của người
được rước lên thuyền bát nhã, sau đây là sự phân biệt lẽ ngược xuôi của dòng đời
bằng cách nêu lên tính cách của hai mặt đạo và đời theo lời Đức Lý Đại Tiên dạy:
Đời thì lo kinh dinh sự nghiệp
Đạo thì lo hội hiệp cất chùa
Đời thì vật chất tranh đua
Đời chia rẽ đồng bào huynh đệ
Đạo kết đoàn bốn bể năm châu
Đời tạo oan nghiệp khổ sầu
Khách trần tục nhiều đường tội ác
Bực tu hiền tạo tác phước lành
Thần Tiên tại thế đắc thành
Thiết tưởng chúng ta cũng nên tìm hiểu ý nghĩa
đoạn thánh giáo trên:
1. Đời thì lo kinh dinh(doanh) sự nghiệp
Đời sống con người xuôi thuận dòng đời,
sau khi rời mái nhà trường, bước vào đời là bước vào vòng xoáy của chợ đời với
“bá nghệ hảo tùy thân”, và không ít người đã chọn nghề thương mãi vì quan niệm
rằng “phi thương bất phú”, dù làm nghề gì nếu không kèm theo kinh doanh mua bán
thì không thể giàu có được. Bởi vì, như Đức Chơn Thường Đạo Sĩ dạy:
Ở đời ai cũng muốn cho thân
Phú túc vinh hoa tại cõi trần
Để lại vợ con bao sự nghiệp
Đời nầy đời kế hưởng muôn phần.
Nhưng xét cho cùng việc thế gian
Dẫu cho sự nghiệp có muôn vàn
Thì nhiều ẩm thực cùng y phục
2. Đạo thì lo hội hiệp cất chùa
Người đạo ngoài việc tu thân hành đạo theo
nhiệm vụ của mình, còn phải chung tay góp sức cùng nhau xây cất hay tu bổ chùa
chiền, tịnh thất để làm cơ sở tín ngưỡng cho bổn đạo và bá tánh thập phương
chiêm bái, công phu, công quả và học tập giáo lý, đáp ứng nhu cầu thăng tiến
tâm linh. Ấy là đi ngược dòng đời.
3. Đời thì vật chất tranh đua
Một khi đã thuận dòng nhập cuộc với thị
trường danh lợi, tất nhiên phải đua tài đua trí cạnh tranh. Cạnh tranh dù lành
mạnh hay không lành mạnh cũng đều lao tâm khổ tứ tìm chước kiếm mưu để mong
giành thắng lợi về mình. Đôi khi vì sự cạnh tranh đó, người ta dùng tới dã tâm
để quật đổ đối thủ cho mình vươn lên đỉnh cao của tham vọng. Nhưng, Đức Chơn
Thường Đạo Sĩ dạy:
Trong sự đua tranh kiếp sống còn
Ai ai cũng tính việc thua hơn
Gây điều oan trái vì danh lợi
4. Đạo thì tương trợ giúp vùa lẫn nhau
Đạo đây không chỉ là người có tôn giáo mà
cả những người có lương tri, có đạo đức trong xã hội, nhận thức được mối tương
quan giữa đồng bào đồng chủng, cùng chia sẻ cho nhau về bao nỗi đau thương, bù đắp
và bổ khuyết cho nhau bao điều mất mát. Đối với người đạo hữu chúng ta, ngoài
việc giúp đỡ lẫn nhau trong đời sống vật chất, còn phải tương trợ nhau về tinh
thần, an ủi động viên nhau trong cơn khảo thí, cùng vượt qua chướng ngại tâm
tình để củng cố đức tin, và để mong cho không một ai trong chúng ta bị rơi lại
phía sau dòng đời đầy bão táp.
Đức Mẹ từng thiết tha nhắn nhủ:
Trước hết phải ngọt ngon lời nói
Hành động đừng xoi bói một
ai
Tình thương ban rải đó
đây
Khoan dung phá chấp ngày
ngày nghe con!
Tình đạo hữu giữ tròn chữ tín
Cộng tình thương chí kỉnh
chí thành
Thay vì hơn thiệt đua
tranh
Kết đoàn hội hợp bạn
lành dìu nhau.
Mẹ không quy đứa nào phải quấy
Phải quấy đều cả thảy
như nhau
Khéo khôn là đứa cầm đầu
Dây dùn khó dứt, ngỏ hầu
mới nên.
Con hỡi con, tiến lên hành đạo
Con hỡi con, dạy bảo
thương yêu
Có thương mới có dắt dìu
Đức Mẹ cũng khuyên chúng ta giữ lòng một mực,
không chỉ những lúc gió lặng trời êm mới tỏ niềm tương thân tương ái, mà cả những
khi gió dạt sóng đùa cũng nắm chặt tay chèo mà thương yêu khoan thứ lẫn nhau,
chớ không nên:
Vui thì nói những câu non nỉ
Rằng đó đây chị chị em
em
Những khi gió tạt ướt rèm
Chở che không quản, ngày
đêm chẳng sờn.
Nhưng đến lúc giận hờn thì chấp
Rằng đó đây tu thấp tu cao
Rằng là kẻ trước người sau
Buông lời chua chát tao tao
mày mày.
Trong cửa đạo sớm rầy chiều trách
Giữa thánh đường hạch sách
nặng ngôn
Quên rằng trước mặt Chí Tôn
Quên rằng Diêu Điện Từ Tôn
trên đầu.
Hỏi có tốt gì đâu hỡi trẻ?
Đụng chạm nhau chia rẽ đó
đây
Tưởng là đi Bắc đi Tây
5. Đời chia rẽ đồng bào huynh đệ
Tâm địa người đời thường hay chực chờ những
thời khắc “trai cò tranh nhau, ngư ông đắc lợi”, hoặc chủ động gieo rắc tư tưởng
hoài nghi, thêu dệt điểm xấu giữa nhau để chia bè kết cánh, thỏa mãn lòng tự
tôn tự thị, mưu cầu danh lợi cho mình. Bởi thói đời như vậy, Đức Di Lạc Thiên
Tôn có lần giáng cơ than thở:
Dân một nước không hòa dân tộc
Người một nhà không dốc làm nên
Chia nhau vì tuổi vì tên
Xa nhau vì nặng cái nền tảng riêng.
Ôi!
Nhìn công cuộc đảo huyền thiên hạ
Nghĩ xót thương chí cả tài cao
Lỡ giam vào bức tường rào
6. Đạo kết đoàn bốn bể năm châu
Nói đến sự đoàn kết bốn bể năm châu thì
bao la quá đối với thường dân như chúng ta vì việc giao tiếp với các cộng đồng
dân tộc trên thế giới, thường dành cho các nhà lãnh đạo của một đất nước.
Ở đây, Đức Lý gợi nhắc chúng ta điều nầy
nhằm ngụ ý rằng, muốn kết đoàn cùng các sắc dân trên năm châu bốn bể thì trước
hết phải kết đoàn cùng đồng bào dân tộc mình và trước nữa phải kết đoàn trong tổ
chức tôn giáo và láng giềng, gia tộc mình.
7. Đời tạo oan
nghiệp khổ sầu
Người đời thì hay
xuôi theo dòng trái oan, thù hận từ trước, trả vay vay trả để phải gây thêm ác
nghiệp sầu khổ triền miên. Người xưa vì thế cảnh tỉnh:
Sanh sự sự sanh hà nhựt liễu,
Hại nhân nhân hại kỷ thời hưu.[26]
(Gây việc nầy sanh
việc khác ngày nào dứt,
Hại người thì người
hại lúc nào thôi?)
8. Đạo dạy thoát khổ tránh câu
tứ tường
Sách Minh Tâm Bửu Giám,
thiên Tĩnh Tâm có bài thi về tứ đổ tường:
Tửu sắc tài khí, tứ đổ
tường
Đa thiểu hiền ngu tại nội
sương
Nhược hữu thế nhân khiêu đắc xuất
Có người dịch:
Tửu sắc khí tài, bốn vách tường
Nhiều ít hiền ngu nhốt bụng rương
Nếu có thế nhân tung thoát khỏi
Chính bởi Thần Tiên bí diệu phương.
Thuận theo dòng đời sẽ
đẩy người ta vào vòng xoáy của bốn vách tường tửu, sắc, tài, khí – là nơi mà
người hiền kẻ ngu cũng đều bị nhốt ở trong đó, như nằm chung trong cái rương chật
chội.
Chỉ có bước
lên thuyền đạo bơi ngược dòng mới nhảy qua khỏi bốn vách giam hãm đó, và đó
cũng là phương thuốc Thần Tiên giúp người trường sinh bất tử (nghĩa bóng là
không còn trở vào vòng luân hồi sanh tử nữa).
9. Khách trần tục nhiều đường tội
ác
Do mãi mê đắm mình trôi lăn theo dòng chảy cuộc đời nên con người
dễ sa vào nhiều đường tội ác chung quanh bốn vách vừa nêu trên, như:
* Hành hung, thóa mạ, chém giết lẫn nhau cũng từ việc “tửu nhập
tâm như hổ nhập lâm” (rượu vào lòng cũng [tung hoành] như cọp vào rừng).
* Gia đình đổ vỡ, hạnh phúc ly tan, bơ vơ con cái, thậm chí sát hại
nhau vì ghen tuông, tranh giành sắc đẹp mà quên câu: Sắc bất ba đào dị nịch nhân (sắc đẹp không phải là sóng nhưng dễ nhận
chìm người), hay đa tình đa cảm đa oan
trái (càng nhiều tình cảm lăng nhăng càng nhiều oan trái).
* Con bất hiếu, anh em bất nghĩa, đồng sự bất hòa đến nỗi ra tay
tàn độc hãm hại lẫn nhau vì tranh quyền đoạt lợi. Người đời không nghĩ đến những
bản án chung thân hay tử hình, chỉ vì ham nhanh chóng làm giàu nên đi buôn ma
túy, buôn lậu, cướp của giết người, v.v… Vì vậy người xưa khuyên bảo:
Người vì tham của chết oan
Quả như lời Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế dạy:
Đời đấu tranh giựt giành non nước
Chữ lợi quyền, quyền tước sang giàu
Hại nhau mà chẳng biết đau
Tóm lại, hầu như không thể kể hết những nẻo đường tội ác xuất phát từ bốn
vách tường tửu, sắc, tài, khí.
10. Bực tu hiền tạo tác phước
lành
Người trần tục hay làm nhiều điều tội ác, còn người tu hiền hay
làm nhiều việc phước lành. Đã mang tiếng là người tu, tất nhiên là hiền lương
nhân hậu, chớ không phải dữ dằn như người trần tục chưa tu. Tu hiền ở đây là gồm
cả tu thân để thân hiền (không có
hành vi tội lỗi), tu khẩu để khẩu hiền
(không có lời nói tội lỗi) và tu ý để ý
hiền (không có tư tưởng tội lỗi). Thí dụ:
Thân hiền: Không sát sanh, không dùng bạo lực để bồi bổ lòng nhân từ, thương
người mến vật. Không đạo tặc để bồi bổ tính hạnh thanh liêm. Không tà dâm,
không gieo tình cảm bất chính để để giữ gìn phong hóa và hạnh phúc gia đình.
Khẩu hiền: Không vọng ngữ (lộng giả thành chơn); không dùng lời như đao kiếm
làm thương tổn lòng người. Đức Mẹ dạy:
Trước hết phải ngọt ngon lời
nói
Hành động đừng xoi bói một ai
Tình thương ban rải đó đây
Khoan dung phá chấp ngày ngày
nghe con!
Tình đạo hữu giữ tròn chữ tín
Cộng tình thương chí kỉnh chí
thành
Thay vì hơn thiệt đua tranh
Ý hiền: Không có ý niệm xấu ác với mọi người; luôn bồi dưỡng tư tưởng
lành, ý nghĩ lành; gieo rắc tư tưởng lành khắp nơi không phân biệt thân sơ. Tư
tưởng lành được truyền đi đến từng người sẽ là hạt giống lành giúp họ nhận được
sự chuyển hóa tốt.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Còn ở thế vai tuồng thế sự
Tùy cơ duyên cư xử cho xong
Dùng phèn nước đục lóng trong
Thân Khẩu Ý một khi được hiền từ thì phước
lành tự nhiên sẽ được thành toàn.
11-12. Thần Tiên tại thế đắc
thành
Là chư hiền đệ hiện hành đạo
đây
Đức Diêu Trì Kim Mẫu dạy:
Tiên Phật trước bởi người nhân
thế
Biết tu hành dành để nhiều đời
Tuy rằng trong kiếp luân hồi
Chư Phật Tiên Thánh Thần cũng là con người tại thế gian, nhờ tu
hành nhiều kiếp mà chứng đắc quả vị. Chúng ta là những người đệ tử Cao Đài đang
tu học và hành đạo theo thánh hạnh của Phật Thánh Tiên Thánh Thần bằng năm
phương thức tùng khổ, thắng khổ, thọ khổ,
thoát khổ và giải khổ.[33] Thần Tiên tại thế là người đầy lòng từ bi, bác
ái, công bình; tam nghiệp thanh tịnh, không bị trói buộc bởi sợi dây não phiền
dục vọng, chấp ngã chấp nhơn.
Dòng đời ngược xuôi đã bày ra trước mắt, chúng ta đã lên thuyền, đồng
lòng cùng nhau bơi ngược nước để mau về bến đỗ. Hy vọng mọi người không vì nản
lòng thối chí mà thả thuyền trôi xuôi theo dòng đời đầy phong ba bão táp.
Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
Thuyền từ đưa khách tục sang sông
Lèo lái hỡi ai gắng hiệp
đồng
Nước ngược sóng dồi tâm
giữ vững
Truyền Trạng THANH CĂN
01-9 Quý Tỵ (2013)
[2] Năm kiết (kết) sử 五结使: Năm thứ ràng buộc: Tham kết (lòng tham muốn trói buộc), sân kết (lòng sân hận trói buộc), mạn kết (lòng kiêu căng trói buộc), tật kết (lòng ganh ghét trói buộc), khan kết (lòng keo kiệt trói buộc).
[3] Lậu hoặc: Lậu hoặc hay ô nhiễm gồm ba loại:
dục lậu (trói buộc con người vào
khoái lạc giác quan), hữu lậu (trói
buộc con người vào tư tưởng quan niệm), và vô
minh lậu (trói buộc con người vào sinh tử luân hồi).
[4] Vô lậu: Không còn khổ đau, phiền não, lo lắng,
sợ hãi, tức giận, sầu bi, v.v..
[5] Đại Tạng Kinh Việt Nam, Tăng Chi Bộ I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng. Viện
Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam ấn hành 1996, tr. 557.
[6] Giác ngạn: Bờ giác.
[7] Huỳnh Long Phủ Tự, 09-3 Đinh Dậu
(08-4-1957).
[8] Huỳnh Long Phủ Tự, 09-3 Đinh Dậu (08-4-1957).
[9] Thánh thất Bình Hòa, 15 rạng 16-8 Canh Tuất (15-9-1970).
[11] Chung quy một nẻo thù đồ: Do câu Đồng quy nhi thù đồ 同歸而殊途 (Đường
tuy khác nẻo nhưng cùng về một chỗ.)
[13] Minh Lý Thánh Hội, 08-4 Canh Tuất (12-5-1970).
[15] Nhựt (nhật) nhu ngoạt (nguyệt) nhiễm 日濡月染: Ngày ngày
thấm ướt thì tới tháng sẽ nhuốm sâu vào; Lâu ngày chầy tháng sẽ ngấm sâu vào. Ý
tương tự như mưa lâu thấm đất.
[18] Vùa: (Tiếng Việt cổ) giúp đỡ.
[19] Tứ tường: Bốn vách, là tửu khí sắc tài giam
hãm con người.
[20] Cửu Khúc Tòa, 01-3 Đinh Dậu (31-3-1957).
[21] Minh Lý Thánh Hội, 22-7 Tân Hợi (11-9-1971).
[22] Minh Lý Thánh Hội, 22-7 Tân Hợi (11-9-1971).
[23] Thánh thất Tân Định, 15-8 Canh Tuất
(15-9-1970).
[24] Thánh thất Tân Định, 15-8 Canh Tuất
(15-9-1970).
[25] Trúc Lâm Thiền Điện, 17 rạng 18-7 Canh Tuất
(18-8-1970).
[29] Thanh Liên Đàn, 08-6 Tân Sửu (20-7-1961).
[30] Thánh thất Tân Định, 15-8 Canh Tuất
(15-9-1970).
[31] Minh Lý Thánh Hội, 08-4 Canh Tuất
(12-5-1970).
[32] Thánh thất Tân Định, 15-8 Canh Tuất
(15-9-1970).
[33] Xem: Thanh Căn, Tìm Hiểu Ngũ Chi Đại Đạo. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2014. Quyển 82-1
trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
[34] Thánh thất Nam Thành, 14-10 Canh Tuất (12-11-1970).