Tạp chí Nghiên
Cứu Và Phát Triển (Huế:
Sở Khoa Học và Công Nghệ Thừa Thiên - Huế, số 6-7 [104-105] năm 2013, tr. 108-142)
có bài TẢN MẠN NHÂN
VẬT LỊCH SỬ TRẦN TRỌNG KIM QUA NHỮNG TRANG HỒI KÝ của nhà nghiên cứu Trần Văn Chánh. Văn Uyển đã
xin phép tác giả và tạp chí để trích đăng lại đây phần viết về tiền bối Trần
Trọng Kim ở cương vị là một học giả đầy uy tín, rất đáng kính trọng và rất có
công với văn hóa dân tộc.
|
Thuộc thế hệ tuổi trên dưới sáu
mươi như chúng tôi, ở miền Nam, hễ có quan tâm ít nhiều tới chuyện sách vở thì
hầu như không ai không biết đến nhân vật Trần Trọng Kim (1883-1953), một học
giả tên tuổi, có thời gian ngắn tham gia chính trị với tư cách Thủ Tướng của Đế
Quốc Việt Nam (1945), và là người tiên phong cho một số công trình biên khảo có
giá trị lâu dài thuộc nhiều lĩnh vực học thuật khác nhau, như Việt Nam Sử Lược, Nho Giáo, Truyện Thúy Kiều...
Khởi đầu sự nghiệp trứ tác từ năm 1914
khi phụ trách mục “Học Khoa” trên Đông
Dương Tạp Chí, với loạt bài viết có tính giáo khoa về luân lý và về khoa sư
phạm học, nếu tính đúng và đủ, Trần Trọng Kim là tác giả của tất cả những công
trình đã in thành sách, liệt kê theo thứ tự thời gian như sau:
- Sơ Học Luân Lý (Nhà in Trung Bắc Tân Văn,
Hà Nội, 1914),
- Sư Phạm Khoa Yếu Lược (Trung Bắc Tân Văn, 1916),
- Việt Nam Sử Lược (hai quyển Thượng và Hạ,
Trung Bắc Tân Văn, 1919),
- Truyện Thúy Kiều Chú Giải (1925, soạn chung với Bùi
Kỷ),
- Quốc Văn Giáo Khoa Thư (ba tập: lớp Đồng Ấu, lớp
Dự Bị, và lớp Sơ Đẳng), Luân Lý Giáo Khoa
Thư, Sử Ký Giáo Khoa Thư (cả ba loại giáo khoa thư này xuất bản năm 1926,
và đều soạn chung với Nguyễn Văn Ngọc, Đặng Đình Phúc, Đỗ Thận, do Nam Sơn
Nguyễn Văn Thọ vẽ minh họa),
- Bốn Mươi Bảy Điều Giáo Hóa Của Nhà Lê (Trung Bắc Tân Văn, 1928, dịch Lê Triều
Giáo Hóa Điều Luật Tứ Thập Thất Điều ra tiếng Pháp: Les 47 articles du
Catéchisme moral de l’Annam d’autrefois),
- Nho Giáo (Trung Bắc Tân Văn, 1930, ba quyển; sau in gộp
lại thành hai quyển, 1932-1933),
- Việt Thi (sao lục và chú
giải),
- Phật Lục (Nxb Lê Thăng, Hà Nội, 1940),
- Phật Giáo (Tân Việt xuất bản),
- Vương Dương Minh (1940),
- Việt Nam Văn Phạm (Lê Thăng, Hà Nội, 1941, soạn chung với Phạm Duy
Khiêm, Bùi Kỷ),
- Tiểu Học Việt Nam Văn Phạm
(Tân Việt xuất bản),
- Phật Giáo Thủa Xưa Và Phật
Giáo Ngày Nay (Tân Việt,
1953; “Lời Mở Đầu” của tác giả đề tháng 10-1952),
- Hạnh Thục Ca (Tân Việt xuất bản),
- Đường Thi (Tân Việt xuất bản),
- Lăng Ca Kinh (Tân Việt, 1964),
- Một Cơn Gió Bụi (hồi ký, viết từ năm 1949, xuất bản năm 1969 tại
Sài Gòn do Nxb Vĩnh Sơn).
Ngoài những
sách đã in chính thức trên đây, Trần Trọng Kim còn có:
- Loạt bài
biên khảo dài về Đạo Giáo (đạo Lão Tử) đăng nhiều kỳ trên Nam Phong Tạp
Chí (từ số 67 năm 1923), chưa xuất bản thành sách.
- Vũ Trụ Đại Quan và Thiên Văn Học là hai công trình biên
khảo khác nữa nhưng dường như chỉ ở dạng bản thảo đã bị thất lạc trong thời kỳ
chiến tranh Việt-Pháp (1946-1954). Quyển đầu thấy tác giả có nhắc qua
trong một bức thư gởi Giáo Sư Hoàng Xuân Hãn mới được công bố gần đây; còn
quyển sau, chỉ được biết qua sự ghi nhận của nhà văn, nhà báo Lãng Nhân Phùng
Tất Đắc trong tập hồi ký Nhớ Nơi Kỳ Ngộ (do Ziên Hồng xuất bản ở Hoa Kỳ
năm 1997).
- Riêng cuốn
Pháp Bảo Đàn Kinh nói là do ông dịch, chúng tôi chỉ thấy giới thiệu sau bìa
lưng một quyển sách khác do Nxb Tân Việt in năm 1964, nên chưa thể xác định.
Nếu xét trên
phương diện đề tài thì tác phẩm của Trần Trọng Kim bao quát một phạm vi rất
rộng, từ giáo khoa nhiều môn học sang các lĩnh vực văn, triết, sử, tôn giáo, và
đều có tính cách tiên phong đi đầu trên mỗi lĩnh vực học thuật trong giai đoạn
chuyển giao từ nền cựu học sang tân học, trong số đó riêng bộ Việt Nam Sử
Lược từ khi ra đời đã được đánh giá là một trong những bộ sử quy mô đầu
tiên của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, vừa có phong cách ngắn gọn, súc tích,
vừa đầy đủ dễ hiểu, đọc rất hấp dẫn, và được tái bản cho đến nay có đến chục
lần.
Điều khá đặc
biệt là những cuốn giáo khoa tiểu học nêu trên do ông chủ trì biên soạn đều là
những sách viết rất hay, mà một số bài trong đó đến nay lớp người từng học tiểu
học khoảng nửa trước thế kỷ Hai Mươi vẫn còn thuộc nằm lòng. Một
số câu, đề bài đã trở thành những câu khẩu ngữ rất quen thuộc: Ai bảo chăn
trâu là khổ… Xuân đi học con người hớn hở… Cách biên soạn đơn giản,
dễ nhớ như thế của nhóm soạn giả Trần Trọng Kim rất có giá trị thuyết phục, mà
ngày nay có lẽ còn phải phấn đấu học hỏi nhiều nữa giới sư phạm mới có thể vượt
lên hơn được.
Trong Việt Nam Văn Học Sử
Yếu, Giáo Sư Dương Quảng Hàm (1898-1946) xếp Trần Trọng Kim vào chương Các Văn Gia Hiện Đại cuối sách, ở tiểu
mục Khuynh Hướng Về Học Thuật, chỉ
với ba dòng nhận xét rất ngắn gọn nhưng đủ khái quát hết sự nghiệp học thuật
của ông: “Trần Trọng Kim (hiệu Lệ Thần)
là một nhà sư phạm đã soạn nhiều sách giáo khoa có giá trị và một học giả đã có
công khảo cứu về Nam sử và các học thuyết cổ của Á Đông.” [1]
Đến Nhà Văn Hiện Đại (bốn
tập, Tân Dân, Hà Nội, 1942-1945), nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan (1902-1987)
xếp Trần Trọng Kim vào “Các nhà văn lớp
đầu”, nhóm biên khảo (cùng với Bùi Kỷ, Lê Dư, Phan Khôi, Nguyễn Quang Oánh,
Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Tố, Đào Duy Anh), đã giới thiệu khá tỉ mỉ văn
nghiệp của ông (chiếm đến ba mươi trang giấy), đặc biệt giới thiệu, phân tích,
phê bình một cách tập trung, chi tiết vào ba quyển Việt Nam Sử Lược, Nho Giáo
và Việt Nam Văn Phạm.
Riêng Việt Nam Sử Lược,
Vũ Ngọc Phan cho rằng “tuy gọi là ‘lược’
nhưng cũng đủ được mọi việc trong thời kỳ đã qua của nước nhà và đáng coi là
một bộ sách giá trị.” [2] Rồi đi tới một kết luận
chung cho toàn bộ sự nghiệp biên khảo của Trần Trọng Kim:
“Đọc tất cả các văn phẩm
của Trần Trọng Kim, người ta thấy tuy không nhiều, nhưng quyển nào cũng vững
vàng chắc chắn, không bao giờ có sự cẩu thả.
“Ông có cái khuynh hướng
rõ rệt về loại biên khảo; chỉ đọc qua nhan đề các sách của ông, người ta cũng
có thể thấy ngay: hết lịch sử, đến đạo Nho, đến đạo Phật, rồi lại đến mẹo luật
tiếng Việt Nam. Ông là một nhà giáo dục, nên những sách của ông toàn là sách
học cả.
“Văn ông là một thứ văn
rất hay, tuy rất giản dị mà không bao giờ xuống cái mực tầm thường; lời lời
sáng suốt, giọng lại thiết tha như người đang giảng dạy. Lối văn ấy là lối văn
của một nhà văn có nhiệt tâm, có lòng thành thật.” [3]
Lại đến Việt Nam Văn Học Sử
Giản Ước Tân Biên của Phạm Thế Ngũ (1921-2000), tập III, phần Văn Học Hiện Đại 1862-1945 (Sài Gòn:
Quốc Học Tùng Thư, 1965), nhà nghiên cứu văn học rất tài hoa uy tín này tiếp
tục xếp Trần Trọng Kim vào hàng ngũ các nhà biên khảo tiêu biểu của giai đoạn
1907-1932, chung với Phan Kế Bính (1875-1921), Nguyễn Hữu Tiến (1874-1941) – hai
tác giả đã được Vũ Ngọc Phan xếp vào nhóm Đông Dương Tạp Chí và nhóm Nam Phong Tạp
Chí – và Phan Khôi (1887-1959). Phạm Thế Ngũ gọi Trần Trọng Kim là nhà giáo dục
mới, lần lượt điểm qua các tác phẩm tiêu biểu, trước khi đi đến nhận định tổng
quát có thể bổ sung được cho sự đánh giá của Dương Quảng Hàm và Vũ Ngọc Phan
vừa nêu trên:
“Ở Trần Trọng Kim ta thấy
một đặc điểm là mặc dù sớm theo Tây học, lại sang cả Pháp du học, song ông đã
có với văn hóa Đông phương một mối kính cẩn sâu xa. Có thể nói ông chủ trương bảo tồn, thủ cựu hơn cả Phạm Quỳnh. Về đường trước tác thì
có thể nói ông đã thực hiện đúng cái đường lối... là đem tất cả cái gia tài văn
hóa của ông cha mà bàn giao lại cho thế hệ mới... Tuy có Tây học song ông tự
đặt mình vào phái cũ, đem cái phương pháp mới học được của Tây học mà làm những
công trình bàn giao ấy cho được rõ ràng hơn hoàn bị hơn. Sự phối hợp giữa một phương
pháp biên khảo mới mẻ và một kho kiến thức phong phú cộng thêm vào một thiện
chí theo đuổi ‘cúc cung tận tụy’ đã khiến cho những công trình của ông có một
giá trị vững bền và đặt ông vào hàng đầu các nhà biên khảo ở giai đoạn này.
“Về hành văn thì ông có
một lối văn đặc biệt bình dị... Không ưa những hình ảnh cao kỳ, lối sắp đặt đối
ngẫu, sự bay bổng hay hào hoa, chỉ muốn dùng cách thông thường nhất dễ hiểu
nhất, để dẫn giải ôn tồn cho người ta hiểu. Văn bình đạm song có khí có lực,
cũng như con người vậy.” [4]
Trần Trọng Kim, còn có bút hiệu Lệ Thần, sinh năm 1883 (Quý Mùi)
tại làng Kiều Lĩnh, xã Đan Phổ (nay là Xuân Phổ, trước thuộc tổng Đan Hải),
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
Theo Vũ Ngọc Khánh, họ Trần của Trần Trọng Kim là một họ lớn ở Đan
Phổ (lúc đầu gọi Đan Phố, sau theo cách phát âm mới đọc là Phổ), cụ thân sinh
ra Trần Trọng Kim là Trần Bá Huân, có tham gia phong trào Cần Vương. Em gái ông
tên Trần Thị Liên là một cán bộ Xô Viết, hoạt động năm 1930 (mất năm 1964).
Ngoài ra, ông còn có người con gái hiện đang ở Pháp.[5] Riêng vợ ông là em gái
của nhà nghiên cứu văn học Bùi Kỷ (1888-1960).
Xuất thân trong một gia đình Nho Giáo, ông học chữ Hán từ nhỏ. Năm
1897, học chương trình Pháp ở trường Pháp-Việt Nam Định. Năm 1900, thi đỗ vào trường
Thông Ngôn, tốt nghiệp năm 1903. Năm 1904, làm Thông Sự ở Ninh Bình.
Ít ai biết rõ thuở hàn vi của Trần Trọng Kim ra sao, vì ngay trong
tập hồi ký viết cuối đời, cuốn Một Cơn
Gió Bụi (tên phụ Kiến Văn Lục,
Sài Gòn: Nxb Vĩnh Sơn, 1969), cũng không thấy kể. Chỉ biết ông nhà nghèo, nên
năm 1906 mới nhờ bạn học cũ là Nguyễn Văn Vĩnh (1882-1936) giúp, khi ông Vĩnh
được nhà nước bảo hộ Pháp giao trách nhiệm tổ chức đi dự Hội Chợ Marseille ở
Pháp (hồi đó gọi là “đấu xảo”), sắp xếp cho ông đi theo với tư cách thợ khảm,
mà thật ra mục đích chính chỉ để tranh thủ ở lại Pháp học thêm: “Thì mục đích mình là kiếm đường du học, chứ
tôi có biết khảm khiếc gì đâu!” [6]
Từ đó ông trải qua học trường Thương Mại ở Lyon ,
rồi được học bổng vào trường Thuộc Địa Pháp. Năm 1909, vào học trường Sư Phạm
Melun, tốt nghiệp ngày 31-7-1911 rồi về nước, do học bổng của mọi sinh viên lúc
đó đột nhiên bị bãi. Sau đó, ông lần lượt dạy ở trường Trung Học Bảo Hộ (trường
Bưởi), trường Hậu Bổ và trường Nam Sư Phạm.
Ông là nhà giáo mẫu mực, có uy tín trong xã hội, từng giữ nhiều
chức vụ trong ngành giáo dục thời Pháp thuộc như: thanh tra các trường tiểu học
Pháp-Việt (1921), trưởng ban soạn thảo sách giáo khoa tiểu học (1924), giáo viên
trường Sư Phạm Thực Hành (1931), giám đốc các trường nam tiểu học tại Hà Nội
(1933). Ngoài ra ông còn là phó trưởng ban Ban Văn Học của Hội Khai Trí Tiến
Đức và nghị viên Viện Dân Biểu Bắc Kỳ. Ông về hưu năm 1942 khi vừa tròn sáu
mươi tuổi.
Theo lời kể lại của Lãng Nhân, một người được Trần Trọng Kim coi
là bạn trẻ khá thân thiết, thì ông người vóc đậm nên trông hơi thấp, nước da
ngăm ngăm, đi đứng khoan thai vững vàng, tuy gốc Nghệ Tĩnh nhưng ở Bắc lâu nên
giọng nói nhẹ nhàng. Thấy ông là nhà giáo đạo mạo, lại chuyên viết những công
trình nghiêm túc gần như giảng đạo, ít ai nghĩ Trần Trọng Kim là người có óc
trào lộng, thích kể chuyện tiếu lâm, và cũng theo Lãng Nhân cho biết, cuốn sách
nhỏ do nhà Ích Ký, phố Hàng Giấy xuất bản năm 1910, có những chuyện “xứ Nghệ”
xem vỡ bụng cười, đều do ông Trần kể lại với tác giả Thọ An, tức Phạm Duy Tốn (1883-1924),
một nhân vật trọng yếu của nhóm Nam Phong.
Có những chi tiết rất lý thú về nền nếp sinh hoạt hằng ngày của
ông. Cũng theo Lãng Nhân: “Sở dĩ ông thực
hiện được những tác phẩm có giá trị cả về phẩm lẫn lượng, là nhờ sự kê cứu tỉ
mỉ công phu cùng đức tính cần cù, nhẫn nại và cương quyết ít thấy ở ai khác.
Thật vậy, nhà ông, trên lầu, riêng một căn làm thư phòng, giữa kê một bàn giấy
lớn, sách vở bày trên từng chồng xếp đặt ngay ngắn, bên đèn bên quạt điện,
trước bàn là một ghế bành gỗ gụ không có nệm. Điều khác thường là bao nhiêu đó
được vây kín trong một khung hình lớn lúc nào cũng buông [mùng] sùm sụp để
tránh muỗi. Mỗi ngày cơm chiều xong là ông tản bộ đi chơi, đi thăm hỏi bạn bè,
khi chuyện trò trong Hội Khai Trí, nhưng nghiêm luật bất di bất dịch là đúng mười
giờ đêm, dù mưa gió bão bùng, thế nào ông cũng có mặt nơi ‘bàn mùng’ để cặm cụi
dùi mài cho đến hai giờ sáng.” [7]
Chỉ một năm sau khi về
hưu (1943), thời cuộc bắt đầu đưa đẩy chuyển ông sang một hướng rẽ đầy phong ba
bão táp mà bình sinh có lẽ ông chưa bao giờ kịp nghĩ tới. “Một cơn gió bụi” nổi lên
bao trùm hoàn hải trong bối cảnh cuộc Chiến Tranh Thế Giới thứ Hai đến hồi
quyết liệt đã làm cho cuộc đời nhà giáo, nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim không
còn được êm ả một cách tương đối như trước.
(…)
Đầu tháng 3-1948, ở tuổi sáu mươi lăm, vừa túng thiếu vừa mệt mỏi
và bất lực trước thời cuộc, lại bị đám chính khách cơ hội tối ngày bao vây
trong căn nhà ở đậu chật hẹp của người anh vợ, ông quyết định bỏ Sài Gòn qua
Nam Vang (Phnompenh, Campuchia) sống với người con gái, cũng trong cảnh nghèo
túng. Trong thời gian này, ông đã tập hợp các bản thảo nhật ký của mình viết
thành cuốn hồi ký Một Cơn Gió Bụi, mà
phần kết thúc là nêu lên một số nhận xét về những chỗ hay dở của phong trào
Việt Minh và khẳng định tấm lòng chân thành của ông đối với dân tộc. Đây là
quyển sách có nhiều sử liệu quý hiếm mà ta không thể tìm thấy bất kỳ ở đâu
trong số những tập “chính sử” hiện đại, rất cần được giới nghiên cứu sử học
quan tâm khảo định kỹ vì có thể còn một số chi tiết chưa chính xác, để viết lại
bộ thông sử sau này, nhất là về những sự kiện lịch sử Việt Nam liên quan giai
đoạn 1945-1949.
Tâm trạng ông vào khoảng thời gian tạm trú Nam Vang được ghi lại
ngay trong đầu sách qua hai câu thơ trích dẫn của Đái Thúc Luân (732-789) thời
Đường:
Liêu lạc bi tiền sự
Chi li tiếu thử thân.
(Quạnh hiu buồn nỗi trước kia
Vẩn vơ chuyện vặt, cười khì tấm thân.)
Và trong đoạn tâm sự gần cuối tập hồi ký: “Tôi nay già rồi, không còn hăng hái làm được việc gì nữa. Tôi chỉ mong
được yên ổn, để về nghỉ ngơi cho trọn tuổi già, ấy là cái sở nguyện chân thực
của tôi. Vả trong quãng đường tôi vừa đi qua, trải bao những cảnh huống đau
buồn khổ sở, may như Trời Phật cứu giúp, tôi duy trì được đến bây giờ, mà không
trụy lạc vào đâu cả, thật là cái phúc lớn vậy.” [8]
Lãng Nhân kể: “Vốn là người
nho nhã phác thực và chân thành, khi không [9] bị lôi cuốn vào trường chính trị, phải đối phó với một canh
bạc thò lò sáu mặt, không thích ứng với lòng mình, nên mỗi khi nhàn thoại ông
hay mân mê điếu thuốc lá vấn tay, chặc lưỡi một đường triết lý: Nghĩ cho cùng,
ở đời chẳng cái đếch gì ra cái đếch gì…” [10]
Ít lâu sau ông trở về Việt Nam , rồi thuê nhà định cư tại Hà
Nội.
Sau do lời mời của Quốc Trưởng Bảo Đại, ông vào Sài Gòn dự Đại Hội
Đồng Quốc Gia (còn gọi “Quốc Dân Đại Hội”) từ ngày 06-9-1953, được bầu làm Chủ Tịch
Chủ Tịch Đoàn nhưng chỉ hư vị và không thực tế làm gì, ông lên Đà Lạt định sống
an dưỡng cùng với gia đình nhưng chưa được bao lâu thì mất đột ngột tại đây vì
bị đứt mạch máu ngày 02-12-1953, thọ bảy mươi mốt tuổi, thi thể được đưa máy
bay về Hà Nội an táng, cạnh chùa Láng.[11]
(…)
Trần Trọng Kim được đánh giá là một học giả uyên thâm cả tân học
lẫn cựu học, là người tận tụy cho ngành giáo dục Việt Nam đầu thế kỷ Hai
Mươi.
(…)
Khoảng hơn chục năm gần đây, qua lớp bụi thời gian, (…) người ta
bắt đầu biết đến rồi nhận ra giá trị, cho in đi in lại nhiều lần những Việt Nam Sử Lược, rồi Nho Giáo, Phật Giáo, Phật Lục… nhất là
bộ sách Quốc Văn Giáo Khoa Thư và Luân Lý Giáo Khoa Thư do ông [Trần Trọng
Kim] chủ trì nhóm biên soạn.
Từ năm 2000, tức bốn mươi bảy năm sau khi Trần Trọng Kim qua đời,
mới thấy mục từ TRẦN TRỌNG KIM bắt đầu xuất hiện trong cuốn Từ Điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam do
Đinh Xuân Lâm và Trương Hữu Quýnh chủ biên (Nxb Giáo Dục).
Năm 2004, khi bộ sách quy mô Từ
Điển Văn Học bộ mới ra đời (Nxb Thế Giới), mục từ TRẦN TRỌNG KIM lại được
đưa vào một cách trân trọng hơn, do nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Huệ Chi trình
bày, với gần đầy ba trang giấy khổ lớn, bỏ hết mọi lời công kích.
25-11-2013
TRẦN VĂN CHÁNH
Nguồn: Tạp chí Nghiên
Cứu Và Phát Triển
(Huế: Sở Khoa Học
và Công Nghệ Thừa Thiên - Huế, số 6-7 [104-105] năm 2013.
[1] Dương Quảng Hàm, Việt Nam Văn Học Sử
Yếu. Sài Gòn: Bộ Giáo Dục, Trung Tâm Học Liệu, 1968, tr. 450.
[2] Vũ Ngọc Phan, Nhà Văn Hiện Đại. Nxb
Văn Học - Hội Nghiên Cứu Và Giảng Dạy Văn Học TpHCM, 1994. Tập I, tr. 181.
[3] Vũ Ngọc Phan, sách đã dẫn, tr.
208-209.
[4] Phạm Thế Ngũ, Việt Nam Văn Học Sử
Giản Ước Tân Biên. Sài Gòn: Quốc Học Tùng Thư, 1965. Tập III, tr. 301-302.
[5] Xem bài Bàn Thêm Về Trần Trọng Kim,
tạp chí Văn Hóa Nghệ An, 26-11-2009.
[6] Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, Nhớ Nơi Kỳ
Ngộ. Hoa Kỳ: Nxb Ziên Hồng 1997, tr. 84.
[7] Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, sách đã dẫn,
tr. 84-85.
[8] Trần Trọng Kim, Một Cơn Gió Bụi.
Sài Gòn: Nxb Vĩnh Sơn, 1969, tr. 185.
[10] Lãng Nhân Phùng Tất Đắc, sách đã dẫn,
tr. 67.
[11] Chùa Láng (Chiêu Thiền Tự 昭禪寺) ở
làng Láng, phường Láng Thượng, quận Đống Đa, Hà Nội. [Văn Uyển chú]