Trên
Văn Uyển tập
Nguyên (Xuân Giáp Ngọ), trang 177-178, bài “Tản Mạn Kinh Nghiệm Học Chữ Hán
Cổ”, nhà nghiên cứu Trần Văn Chánh viết: “Thế hệ
bây giờ vẫn tiếp nối có những dịch giả với nhiều công trình nghiên cứu, dịch
thuật khá giá trị (…) đều do tự học mà đạt được những thành tích rất đáng
trân trọng.”
Trong đoạn văn ấy, tác giả có nhắc tới phương danh Nguyễn Duy Chính – dịch giả
truyện Kim Dung, nhà nghiên cứu văn hóa Trung Hoa, nhà sử học uy tín chuyên
trị về thời Tây Sơn.
Quý bạn đọc Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo mới
đây có dịp đọc văn Nguyễn quân qua bài “Nhớ Về Một Người Thầy” trong hiệp tuyển
Tưởng Nhớ Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ (Nxb Tôn Giáo, 2014).
Đáp lại lời thỉnh mời của Văn Uyển, để tiếp tục chia sẻ kinh nghiệm tự học chữ
Hán với bạn đạo Cao Đài, Tiến Sĩ Nguyễn Duy Chính vừa viết bài này gởi về.
Xin trân trọng biết ơn tấm lòng ưu ái của Nguyễn quân.
Các chú thích trong bài do Văn Uyển thêm vào.
|
Tôi học chữ Hán thật vô chủ đích. Được mở
lòng bằng một giờ Hán Văn mỗi tuần trong chương trình Việt Văn lớp đệ Thất ở trường
Chu Văn An (Sài Gòn). Đúng lý ra chương trình này phải kéo dài bốn năm cho đến
hết bậc trung học đệ Nhất cấp nhưng sau năm thứ nhất thì không thấy tiếp tục.
Giờ Hán Văn đệ Thất của tôi do thầy Đặng Ngọc Thiềm hướng
dẫn. Theo đúng thể lệ, thầy bắt chúng tôi mua mực Tàu, giấy bản, nghiên bút
đàng hoàng. Có thể nói, những sinh hoạt ấy trở thành kỷ niệm đối với những
người khác nhưng lại trở thành “vốn quý” trong tôi. Vốn quý vì đây là bước chân mở cho tôi vào cánh cửa chữ Hán mãi đến tận hôm nay, mỗi lúc một thiết yếu
hơn chứ không suy giảm chút nào.
Thuở ấy, cái nghiên giống như
một cái bát sành nhỏ, na ná như cái đồ kê chân trạn có đổ xăm xắp nước cho kiến khỏi bò lên; còn mực là một thỏi a dao có mùi rất nặng. Thế mà chúng tôi
cũng hý hoáy viết được những trang giấy chép theo cuốn Hán Học Nhập Môn (Sài Gòn: Nxb Yên Sơn, 1959). Hai tác giả là Đinh
Đình Hòe và Thích Giải Minh, Huyền Mặc Đạo Nhân hiệu đính,[1] Nguyễn Đăng Thục đề tựa.[2] Bộ Hán Học Nhập Môn này về sau tôi có mua thêm được cuốn thứ hai nhưng
không phải để dùng trong lớp mà để tự học ở nhà.
Nhờ cuốn Hán Học Nhập Môn, chúng tôi biết qua phép Lục
Thư (tượng hình, chỉ sự, hội ý,
chuyển chú, giả tá, hài thanh) và theo chỉ dẫn của thầy
Thiềm chúng tôi biết cầm bút viết theo lối trái trước, phải sau, trên trước dưới sau, ngoài trước,
trong sau; ngoại trừ một vài
biệt lệ như bộ xước 辶 phải viết sau cùng.
Cuốn sách này rất đơn giản nhưng lại dễ nhớ cho trẻ con.
Đến bây giờ tôi vẫn còn thuộc một số bài trong đó, cổ văn cũng như kim văn,
không dài và nặng như các cuốn sách tự học khác vừa bắt nhớ mặt chữ lại cả văn
phạm (ngữ pháp).
Từ khi tiếp xúc với chữ Nho qua giờ Hán Văn ở trường, tôi
trở thành hiếu kỳ. Chữ Tàu ở nước ta thì không hiếm, có điều ít ai quan tâm
thôi. Nếu chỉ đảo qua một vòng trong Chợ Lớn, chúng ta sẽ thấy cơ man là chữ
Hoa trên các bảng hiệu, phần lớn viết theo lối chân phương dễ đọc, bên cạnh cái
tên được dịch âm ra tiếng Việt. Phúc Sinh
Đường thì bên dưới sẽ có ba chữ 福生堂 cùng những
hàng chữ nhỏ hơn ghi tên các mặt hàng thuốc bắc như sâm nhung, cao đơn hoàn
tán… Nếu ai chịu khó so sánh đối chiếu bảng hiệu tiệm này sang bảng hiệu tiệm
khác sẽ thấy có nhiều chữ giống nhau và trừ qua sớt lại có thể đoán được những
chữ mình chưa biết.
Cái lối nhìn ngang nhìn ngửa để học
lóm đó tôi gọi là “học chữ Nho ngoài đường” và lâu dần
cũng có thể hiểu được ý nghĩa cái bảng hiệu nhiều hơn người không biết chữ Hán,
vì phần lớn không phải chỉ là dịch từ chữ Hán sang tiếng Việt mà còn có thêm những
chi tiết khác.
Ngoài ra thỉnh thoảng tôi cũng phát
giác có bảng hiệu dịch sai, sai âm hay sai chính tả; chẳng hạn Dân Ký 民記 nhưng tiếng Việt lại viết thành Minh
Ký.[3] Những cái bảng hiệu ấy cũng cho tôi biết thêm
một chút về văn minh Trung Hoa, chẳng hạn có chữ Đường 堂 thì biết là tiệm thuốc bắc, chữ
Ký 記 thì thường là tiệm tạp hóa hay tiệm ăn và dù không lấy gì làm khang
trang lắm nhưng vẫn quảng cáo thành đại tửu
lâu.
Cũng giờ Việt Văn, chúng tôi dùng một
cuốn sách giáo khoa có tên là Quốc Văn Độc
Bản – mà tôi đã quên tên tác giả. Bộ sách này về sau tôi cũng mua thêm được
các tập sau mặc dù chúng tôi chỉ dùng năm đệ Thất mà thôi.
Về phương diện quy mô, tôi cho rằng
ít có bộ sách quốc văn nào phong phú như bộ này vì có đủ cả văn xuôi lẫn văn vần,
từ những bài thơ của các tác giả xưa đến ca dao, văn chương cổ. Bài văn xuôi
tôi nhớ nhất là lá thư của cụ Phan Bội Châu (1867-1940) gửi cho con nói về cụ
bà:
Này con! Chúng con ơi!
Cha e chết ở rầy mai, có lẽ mẹ mày
không được một phen gặp nhau nữa!
Nhưng nếu Trời thương ta, cho hai ta
đồng chết thì gặp nhau dưới suối vàng, cũng vui thú biết
chừng nào!
Nhưng đau đớn quá! Mẹ mày e chết trước ta. Ta hiện bây giờ nếu không chép sơ những việc đời mẹ mày cho chúng con nghe, thời chúng con rồi đây không biết rõ mẹ mày là người thế nào, có lẽ bảo mẹ ta cũng như người thường thảy cả.
Than ôi! Ta với mẹ mày, vợ chồng “thật”
gần năm mươi năm mà quan quả “giả” gần bốn mươi năm.[4] Khi sống, chẳng mấy hồi tương tụ, mà tới chết lại chỉ tin tức nghe hơi! ...
Mẹ mày có gì đâu! Chỉ dựa vào một
triêng [5] hai thúng, từ mai tới hôm mà cũng nghe chồng
đòi gì có nấy. Bổng [6] dậy học của ta tuy khá nhiều nhưng chưa đồng xu nào mà tay
mẹ mày được xài phí. Khổ cực mấy nhưng không sắc buồn, khó nhọc mấy nhưng không tiếng giận. Từ đã ba mươi sáu tuổi cho tới ngày xuất dương, những công việc kinh
dinh việc nước, mẹ mày ngầm biết thảy nhưng chưa từng hé răng một lời. Duy có một ngày kia, ta tình cờ ngồi một mình,
mẹ mày đứng dựa cột kề một bên ta mà nói:
- Thầy toan bắt cọp đó mà. Cọp chưa thấy bắt mà người ta đã biết nhiều, sao
thế?
Mẹ mày tuy có nói câu ấy, mà lúc đó
ta làm ngơ, ta thiệt dở quá! Bây giờ nhắc lại trước khi ta xuất dương, khoảng hơn mười năm nghèo đói mà bạn bè nhiều, khốn cùng mà chí vững thiệt một phần nữa là nhờ ơn mẹ mày.
Tới ngày ta bị bắt về nước, mẹ mày được gặp ta một lần ở thành tỉnh Nghệ, hơn nửa tiếng đồng
hồ, chỉ có một câu nói với ta rằng:
- Vợ chồng ly biệt nhau hơn hai mươi năm, nay được một lần gặp mặt thầy, trong lòng tôi
đã mãn túc rồi. Từ đây trở về sau, chỉ trông mong cho thầy giữ được lòng xưa, thầy làm những việc gì mặc thầy, chớ
có nghĩ tới vợ con.
Hỡi ôi! Câu nói ấy bây giờ còn phảng
phất ở bên tai ta, mà ta té ra chầy chà năm tháng, chẳng một việc gì làm, chốc
đã chẵn mười năm. Phỏng khiến mẹ mày chết trước ta, thì trách nhiệm của ta e còn nặng thêm mãi.
Suối vàng quạnh cách, biết lối nào
thăm. Ðầu bạc trăm năm, còn lời thề cũ.
Mẹ mày thật chẳng phụ ta, ta phụ mẹ
mày!
Cũng qua những bài văn xuôi, chúng
tôi được đọc lối văn kiên định mà trang nhã, trọng lý mà không quên tình như trong thư của Hoàng Cao Khải gửi Phan Đình Phùng và thư Phan Đình Nguyên [8] phúc đáp. Tuy ở hai chiến tuyến khác nhau [9] nhưng các nhà Nho không vì thế mà dùng lời lẽ thiếu lịch sự. Vì ý nghĩa lịch sử, tôi
cũng trích lại đây vài đoạn tiêu biểu trong bài học tôi học năm đầu tiên ở bậc
trung học (tức lớp 6):
* Bức thư của Hoàng Cao Khải:
Tôi với ngài xa cách nhau, xuân thu đắp
đổi trải đã mười bảy năm nay rồi. Dâu bể cuộc đời, bắc nam đường bụi, tuy là mỗi người đi một ngả khác nhau, nhưng mà trong giấc mộng hồn vẫn thường thấy nhau không phải xa xôi gì. Ngồi nghĩ lại ngày trước chúng ta còn ở chốn
quê hương giao du với nhau, cái tình ấy đằm thắm biết là dường nào?
Từ lúc ngài khởi nghĩa đến giờ, nghĩa
khí trung can, đều rõ rệt ở tai mắt người ta. Tôi thường nghe các quý quan [là
các quan Pháp] nói chuyện đến ngài, ông nào cũng phải thở than khen ngợi và tỏ
ý kính trọng ngài lắm. Xem như thế thì tấm lòng huyết khí tôn nhân, tuy là người khác nước cũng chung một tâm tình ấy thôi,
không phải là người cùng thanh khí với nhau mới có vậy.
(…)
Nay nhân quan Toàn Quyền trở lại, đem
việc ở tỉnh ta bàn bạc với tôi, có khuyên tôi sai người đến ngỏ ý cùng ngài biết
rằng ngài là bậc người hiểu biết nghĩa lớn, dầu không bận lòng tưởng nghĩ gì đến thân mình, nhà mình đi nữa, thì cũng nên tưởng nghĩ cứu vớt lấy dân ở trong một địa phương mới phải. Lời nói đó, quan Toàn Quyền không nói với ai, mà nói với tôi, là vì cho rằng tôi
với ngài có cái tình xóm làng cố cựu với nhau, chắc hẳn tôi nói ngài nghe được,
vậy có lẽ nào tôi làm thinh không nói?
(…)
Tôi suy nghĩ đắn đo mãi, vụt lấy làm
mừng rỡ mà nói riêng với mình: Được rồi, lời nói đó tôi có thể đem ra nói cho
ngài nghe lọt tai, để xin ngài chỉ bảo cho biết như vậy có phải hay không?
Tuy nhiên, sự thế của ngài như cỡi trên lưng cọp đã lỡ rồi, bây giờ
muốn bước xuống, nghĩ lại khó khăn biết bao!
Nếu như tôi không có chỗ tự tin chắc chắn nơi mình, thì quyết
không khi nào dám mở lời nói liều lĩnh để mang lụy cho cố nhân về sau. (…)
Bây giờ, nếu ngài không cho lời tôi
nói là dông dài, thì xin ngài đừng ngần ngại một điều gì khác hết tôi không khi
nào dám để cho cố nhân mang tiếng là người bất trí đâu.
Hoàng Cao Khải đốn thư.
* Bức thư Phan Đình Phùng trả lời:
Hoàng quý đài các hạ,[12]
Gần đây, tôi vì việc quân, ở mãi
trong chốn rừng rú, lại thêm lúc này tiết trời mùa đông, khí hậu rét quá, nông
nỗi thiệt là buồn tênh. Chợt có người báo có thư của cố nhân gửi lại. Nghe tin ấy, không ngờ bao nhiêu nỗi buồn rầu lạnh lẽo, tan đi đâu mất cả. Tiếp thư liền mở ra đọc. Trong thư cố nhân chỉ bảo cho điều họa phước, bày tỏ hết chỗ lợi hại, đủ biết tấm lòng của cố nhân, chẳng những muốn mưu sự an toàn cho tôi thôi, chính là muốn mưu sự yên ổn cho toàn hạt ta nữa. Những lời nói gan ruột của cố nhân, tôi đã hiểu hết, cách
nhau muôn dặm tuy xa, nhưng chẳng khác gì chúng ta được ngồi cùng nhà nói chuyện với nhau vậy.
Song le tâm sự và cảnh ngộ của tôi có
chỗ muôn vàn khó nói hết sức. Xem sự thế thiên hạ như thế kia, mà tài lực tôi như thế này, y như lời cổ nhân đã nói “thân con bọ
ngựa là bao mà dám giơ cánh tay lên muốn cản trở cỗ xe” sao nổi không biết; việc tôi làm ngày nay, sánh lại còn quá hơn nữa, chẳng phải như chuyện con bọ ngựa đưa tay ra cản xe mà thôi.
(…)
Từ lúc tôi khởi nghĩa đến nay, đã trải
mười năm trời, những người đem thân theo việc nghĩa, hoặc đã bị trách phạt, hoặc đã bị chém giết, vậy mà lòng người trước sau chẳng hề lấy thế làm chán nản ngã lòng bao giờ;
trái lại, họ vẫn ra tài, ra sức giúp đỡ tôi, và lại số người mạnh bạo ra theo tôi càng ngày càng nhiều thêm mãi. Nào có phải
người ta lấy điều tai vạ hiểm nguy làm cho sự sung sướng thèm thuồng mà bỏ nhà dấn thân ra theo tôi như vậy đâu. Chỉ vì họ tin cậy lòng tôi, lượng xét chí tôi, cho nên hâm hở vậy đó thôi. Ấy, lòng người như thế đó, nếu như cố nhân đặt mình vào cảnh của tôi liệu chừng cố nhân có nỡ lòng nào
bỏ mà đi cho đành hay không?
Thưa cố nhân, chỉ vì nhân tâm đối
với tôi như thế, cho nên cảnh nhà tôi đến nỗi hương khói vắng tanh, bà con xiêu
dạt, tôi cũng chẳng dám đoái hoài. (…)
Cố nhân với tôi, đều là người sinh đẻ tại châu Hoan,[13] mà ở cách xa ngoài muôn ngàn dặm, cố nhân còn có lòng đoái tưởng quê hương thay, huống chi là tôi đây đã từng lấy thân
chịu đựng và lấy mắt trông thấy thì sao? Khốn nỗi cảnh ngộ bó buộc, vả lại sức
mình chẳng làm được theo lòng mình muốn, thành ra phải đành, chứ không biết làm
sao cho được. Cố nhân đã biết đoái hoài thương xót dân này, thì cố nhân
nên lấy tâm sự tôi và cảnh ngộ tôi thử đặt mình vào mà suy nghĩ xem, tự nhiên
thấy rõ ràng, có cần gì đến tôi phải nói dông dài nữa ư?
Phan Đình Phùng phúc thư.
Tuy tuổi thơ chẳng ai trong chúng tôi hiểu rành rọt ý nghĩa và từ
ngữ trong các bức thư này nhưng lời văn trịnh trọng và mượt mà qua bản dịch của Đào Trinh Nhất đã gieo vào đầu óc sự kính trọng chữ nghĩa văn chương. Cuốn Quốc
Văn ấy có cái hay là đều chú thích rất kỹ các chữ khó, chữ Hán Việt đều kèm
theo chữ Hán nên tôi cũng tiện học theo – hay ít nhất cũng quen mắt với chữ gốc.
Nói tóm lại, việc học chữ Hán của tôi khởi đầu bằng văn chương Việt Nam vì quả
thực các từ Hán Việt hầu như xuất hiện đến quá nửa trong tiếng nước mình nên học chữ Nho cũng chỉ là vì muốn học tiếng của dân tộc
mình.
Cái vốn chữ Hán của tôi chựng lại khá
lâu – vì không có cơ hội nào để tiến thêm ngoài việc học “ngoài đường” và thỉnh thoảng ngâm nga vài câu thơ cổ. Thế nhưng người ta có thể ngâm thơ mà không biết mặt chữ, lại cũng không cần hiểu cho tường tận nên không hiếm người thuộc rất nhiều thơ nhưng lại không biết chữ Hán.
Như hầu hết thanh niên, chưa tập đi đã muốn chạy, tôi
cũng mua mấy cuốn thơ Đường về đọc và tập viết. Viết thì cũng không chịu viết chân phương cho rành rọt mà lại muốn đi thẳng sang hành thư, thảo thư. Thơ Đường vốn dĩ rất khó vì rất hàm súc,
chỉ trong năm mươi sáu chữ mà gói ghém
biết bao nhiêu ý, bao nhiêu tình, cú pháp nhiều khi không theo mực thường, xem ra còn
khó hơn văn ngôn gấp bội. Ấy thế mà thuở đó tôi lại đi theo con đường ngược đời đó nên không đi đến đâu. Giá cứ như ngày xưa học từ Tam Tự Kinh sang Ấu Học Ngũ Ngôn Thi lại còn có cơ sở vì trẻ con học
nhớ nhiều hơn học nghĩa, mưa dầm thấm đất, học mãi rồi cũng nhập tâm.
Khi đi làm ở một tỉnh miền Trung, tôi
đem theo một bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa
mua ở Chợ Lớn để đọc và để học, theo cách của cụ Nguyễn Hiến Lê chỉ. Thế nhưng vì chữ nghĩa
ít ỏi, đọc và tra lâu quá nên chỉ được vài trang rồi phải bỏ.
Sau năm 1975, tôi có một cơ hội khác.
Trong khi thất nghiệp nằm nhà, một người bạn đem đến cho mấy cuốn sách coi tướng bằng chữ Tàu. Những sách tướng số, tử vi là loại xen lẫn văn ngôn và bạch thoại đọc cũng thú vị và tương đối không khó lắm. Nhờ có mấy cuốn sách, lại thêm thì giờ rảnh rỗi cùng với bạn bè bàn luận ngược xuôi nên tôi cũng mày mò đọc cho bằng
hết. Ấy cũng là nhu cầu nảy sinh phương tiện nên vừa đọc vừa đoán rồi cũng xong. Điểm mạnh của trò chơi này là giúp tôi làm quen với văn pháp Trung Hoa và học ngoại ngữ nào thì cũng phải làm quen với ngữ pháp – mà ngữ pháp là gì nếu chẳng
phải là lối sắp xếp chữ của thứ ngôn ngữ đó. Cho nên nếu tiếng Anh, tính từ phải
đi trước danh từ thì khi đọc sang tiếng Pháp chúng ta lại phải quen ngay với lối
sắp xếp hầu hết ngược lại, danh từ trước, tính từ sau.
Sau đó tôi mua được một bộ sách có
tên là Thần Tướng Toàn Biên, bao gồm đầy đủ các loại cổ văn của bộ môn này, có nhiều điều hàm tàng một ý nghĩa triết học, tâm lý học… của Đông phương mà các cổ thư khác không nhắc tới. Đáng kể nhất có lẽ là hai phần trong Ma Y Thần Tướng, một phần là Khóa Vàng [Kim Tỏa], một phần là Chìa Khóa Bạc
[Ngân Thi], Viên Thiên Trang Nhân Thức Ca,
Viên Liễu Trang Nhân Tượng Phú… Tuy nhiên, phần lớn đều thuộc loại bàng môn, đi vào chi li vụn vặt không đáng nhớ nên tôi chỉ đặt
trọng tâm vào một bài phú có tên là Nhân
Luân Đại Thống Phú của Trương Hành Giản mở đầu bằng hai câu:
Quý tiện định ư cốt pháp, ưu hỷ kiến
ư hình dung
Hối lận sinh ư động tác chi thủy, thành bại tại hồ quyết đoán chi trung…
(Kẻ quý người tiện là do ở cốt cách, đời buồn hay vui cũng do vẻ dáng bề ngoài
Sai lầm cũng do động tác khởi nên,
thành bại cũng nằm ở trong quyết đoán…)
Bài phú đó rất uyên áo, lãnh hội tùy
theo mỗi người nên đọc lâu cũng có chỗ thú vị. Tuy nhiên, đây chỉ là trò chơi trí óc, tìm hiểu thiên cơ không phải là chủ đích của nhà Nho nên tôi không vướng vào lâu. May mắn nhất, những động lực thúc đẩy khiến cho tôi phải học để đọc những bộ sách này và nói cho cùng, đó chính là cái cánh cửa bước chân vào Hán Văn của tôi.
Sau khi đã ngốn xong mấy cuốn sách tử
vi tướng số, tôi quay trở lại đọc bộ Tam Quốc thì thấy dễ hơn nhiều. Truyện này tôi đã đọc nhiều lần,
khó nhất là tên người thì hầu hết mình đã biết, đoán già đoán non cũng được 90%. Phải
nói rằng nếu đọc thông bộ Tam Quốc thì đã đi được quá nửa đường trong việc làm
quen với Hán Văn, ít nhiều cũng có cơ sở.
Sang đến Mỹ, tôi lang thang mấy tiệm
sách Tàu trên Chinatown ở Los Angeles ,
mua được toàn bộ truyện Kim Dung, ba mươi sáu cuốn. Thời gian ấy, nhu cầu đọc lại
sách vở cũ còn nhiều nên nhiều nhà xuất bản in sách một cách đơn giản là chụp lại
các sách vở cũ của miền Nam
để chìu theo thị hiếu. Truyện chưởng là món hàng ăn khách nên vì thế cũng nở rộ.
Có điều đọc lại thì tôi mới thấy lối dịch trước đây cẩu thả, cú pháp văn chương cũng bình thường vì vốn dĩ là lối
văn nhật báo dành cho đại chúng trong đó không hiếm những sai lầm về âm cũng
như về nghĩa, chỉ thích thú khi mình chưa biết còn nay đã đọc thẳng vào nguyên tác thì lại thấy ngang
phè.
Chính vì thế nằm đọc một cách say mê
bộ Kim Dung nguyên bản thì quả là cái thú mà không mấy ai có trong sinh hoạt của
người Việt tha hương. Mà học ngoại ngữ nào đến một lúc cũng nhập tâm, khi cầm đến cuốn sách Tàu thì lập tức giở
từ cuối lên, đọc từ phải sang trái, từ trên xuống dưới, đọc đâu hiểu đó chẳng mấy khi phải “bước đi một bước lâu lâu lại dừng” để tra tự điển. Con người trở nên
có nhiều nhân cách khi đã tạo cho mình một mẫu số đa văn hóa, cái nọ bù đắp cho
cái kia, nên việc chuyển từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác không còn là vấn đề.
Đó cũng là việc thường làm trong một ngày, chuyển đổi tần số từ tiếng Anh sang tiếng Việt, từ chữ Hán phồn thể sang chữ Hán giản thể chỉ là thói quen.
Sau khi đọc đi đọc lại bộ Kim Dung –
thực ra thì tôi chỉ tập trung vào mấy bộ thích nhất như Tiếu Ngạo Giang Hồ, Lộc Đỉnh Ký, Ỷ
Thiên Đồ Long, Thiên Long Bát Bộ – cái vốn tiếng
Hán của tôi cũng thêm dần. Quay đầu nhìn lại, tôi mới thấy rằng muốn tinh thông
cái gì người ta phải đam mê không chán vì nếu do nhu cầu thì giữ được nỗ lực lúc ban đầu nhưng rồi sẽ mỏi
mệt. Thế nhưng khi tạo được đam mê, dù đam mê ấy đối với người xung quanh kỳ quặc
chăng nữa, thì vẫn là một động lực liên tục bắt người ta phải cố gắng để đến một lúc nào đó khi phải tự trách mình thì cũng
chép miệng âu cũng là một cái “nghiệp”.
Cũng từ đó, tôi nảy ra ý định viết một
số chuyên đề có liên quan đến các tình tiết trong mấy bộ truyện Kim Dung. Những
bài viết về trà, đông y, ngựa và cánh cung, về hoạn quan, về hoa trà, cờ vây, bảo
kiếm, Thanh binh nhập quan, hay cuộc khởi nghĩa lật đổ triều Nguyên… chính là
những kiến thức mở rộng về các chi tiết mà Kim Dung đã nhắc tới. Những biên khảo
nho nhỏ này thực ra không phải là một công việc thường xuyên mà là một việc làm tài tử – nói theo ngôn ngữ trong nước ngày nay gọi là nghiệp dư – vì tôi thực hiện
chủ yếu là trong khoảng thời gian được nghỉ học giữa mùa (term) vì từ khi cha mẹ và các em tôi sang đoàn tụ, tôi đã có đôi
chút thời gian để trở lại nhà trường. Việc làm ấy vừa giúp tôi có sự tiếp cận liên tục với tiếng Việt và chữ Hán cho khỏi quên, lại là một cách tạm lánh ra khỏi khung cảnh học đường cho thư giãn. Nhờ nhảy qua nhảy lại, tôi vẫn không bị rơi rụng cái vốn chữ Hán có sẵn, lại giúp mình có thêm một
số kiến thức mới mà trước đây chỉ biết qua loa.
Những bài viết tôi gửi lên một
web-site kiếm hiệp (vietkiem.com) mà
từ đó hai anh Trần Văn Chánh và Lê Đình Thuyên ở Việt Nam đã tải xuống và giúp
tôi ấn hành tác phẩm đầu tiên, Đọc Kim Dung Tìm Hiểu Văn Hóa Trung Quốc (Nxb
Trẻ), khi tôi có dịp gặp hai anh ở Việt Nam cuối năm 2001. Chính cái nhan đề
này cũng do anh Chánh đặt giùm chứ không phải tôi nghĩ ra. Âu cũng là duyên văn
tự mà từ đó tôi quen biết được khá đông các nhà văn hóa trong nước như Trần Văn
Chánh, Lê Anh Dũng, Lê Đình Thuyên, Đỗ Hồng Ngọc, Nguyễn Hạnh, Phạm Hoàng Quân…
ở Sài Gòn và rồi lan truyền ra đến Hà Nội như Nguyễn Bá Dzũng, Trần Trọng Dương… Huế như Nguyễn Văn Tiến, Nguyễn Anh Huy, Nguyễn Hữu Châu Phan, Trần Đình Hằng… Đây chỉ
là một số nhỏ những người tôi may mắn quen biết vì thực ra danh sách còn dài gấp bội, thân cũng nhiều mà chỉ mới
giao thiệp qua Internet cũng không ít.
Cũng khoảng cuối thập niên 1990, em
trai tôi gửi truyện ngắn đầu tiên của Kim Dung tôi dịch đã lâu nhưng còn bỏ xó. Đó
là truyện Việt Nữ Kiếm. Khi không còn
nặng nợ đèn sách, tôi dịch lại bộ truyện Ỷ
Thiên Đồ Long Ký (bốn mươi chương), Bạch
Mã Khiếu Tây Phong, Uyên Ương Đao và sau cùng là Thiên Long Bát Bộ (năm mươi chương). Tất cả đều gửi lên vietkiem.com (nay đã không còn hoạt
động) cho mọi người cùng đọc.
Khi tôi bắt đầu dịch Lộc
Đỉnh Ký là một trong hai bộ tôi ưa thích nhất thì trong nước có phong trào dịch lại Kim Dung do một nhà xuất bản mua được bản quyền và ồ ạt tung ra những bản dịch mới. Khi đó tôi chỉ mới dịch được năm chương trong bộ Lộc Đỉnh Ký thì ngừng lại vì tự nghĩ
mình dịch theo lối nhàn tản vui chơi, không nên làm phương hại đến một số dịch giả trong nước cần một phương tiện sinh nhai.
Việc ngưng lại – tuy có làm thất vọng một số người – nhưng cũng chẳng ai thiệt thòi, có thể lại
là cái may cho tôi. Về phương diện chữ nghĩa, việc dịch Kim Dung tuy có thêm một số kiến thức và trau giồi văn chương nhưng cũng chỉ đến một giới hạn, không thể đi xa hơn. Lẽ dĩ nhiên đó là một công việc mất nhiều thì giờ và công phu đẽo gọt nhưng thành quả thì không hơn việc mài đá thành gương. Cùng lúc đó,
người bạn của tôi ở Việt Nam là anh Lê Anh Dũng đã gợi ý cho tôi là quay về
nghiên cứu những vấn đề liên quan đến Việt Nam mà vốn dĩ các nguồn sách báo,
tài liệu ở bên ngoài rất phong phú.
Gợi ý đó mở cho tôi một con đường “về
nguồn” – con đường mà sau này con trai tôi đã khai triển chính kinh nghiệm của
tôi để thành một luận văn về việc giới đọc sách có thể đóng góp cho quê hương từ xa mà không cần phải về sống trong nước, một đề tài cần được nghiên cứu sâu rộng hơn nếu muốn xóa mờ ranh giới trong ngoài.
Muốn đi được lâu bền, tôi không thể
mon men bước chân vào những khu vực mình còn xa lạ. Chỉ có một đam mê từ nhỏ là
lịch sử thì ở bên ngoài tài liệu thiếu thốn, nếu có viết cũng chỉ sao chép lại
những người đi trước và cũng thiếu điều kiện để biết cho tinh tường hay kiểm chứng những điều còn nghi vấn. Cho nên hướng đi thì có nhưng khoanh vùng một điểm đến không phải dễ mà viết lan man theo lối “thập cẩm” thì thường chỉ bắt được con tôm con tép chứ làm sao bắt được cá to. Vả lại chiều dài lịch sử nước ta đến mấy thiên niên kỷ, không khéo sẽ lại rơi vào vòng vu khoát
viết về những chuyện huyền hoặc đời xa xưa, lấy chữ lòe người, tài liệu một tưởng tượng mười, dù có thành tựu cũng không giá trị gì cả.
Lại một điều may khác, cũng đang lúc
phân vân, tôi được anh Phạm Xuân Hy ở bên Pháp gửi tặng cho cuốn Thanh Cao Tông Thập Toàn Võ Công Nghiên Cứu
là cuốn sách nghiên cứu về mười chiến dịch đời Càn Long trong đó có lần đưa
binh sang An Nam. Chiến dịch này vốn dĩ đã được khai thác rộng rãi, theo tài liệu
cũng có mà thêm thắt bằng dật sự, dã sử cũng có. Hầu như tất cả các sách vở nước ta đều đi đến kết luận sau khi bị vua Quang Trung đánh bại, Thanh triều sợ hãi nên rơi vào rất nhiều trò trá ngụy của
bên ta mà chỉ đành nhắm mắt làm ngơ. Việc đó đã thành một “lý sở đương nhiên” không ai dị nghị.
Thế nhưng khi đọc lại chiến dịch đánh An Nam theo tài liệu của nhà Thanh tôi tìm ra một sai
lệch quan trọng. Đó là hình thức lễ sử triều Nguyễn gọi là “ôm gối” mà vua Càn
Long dùng để đón vua Quang Trung (mà sử ta cho rằng là một người giả) kia thực ra là một đại lễ rất trịnh trọng của người du mục có tên là “bão kiến thỉnh an”. Việc ngụy tạo một lễ nghi với
nội dung hoàn toàn khác nhau trên trời dưới đất khiến tôi nổi mối nghi ngờ và khi đi tìm xa hơn mới biết rằng triều Nguyễn quả có một thứ lễ đặt tên là “ôm gối” do chính vua Minh Mạng đặt ra và
chắc hẳn đã có một dụng ý nào đó khi tìm cách nhập nhằng hai bên là một – dù rằng
hoàn toàn khác nhau về mục đích và nguyên ủy.
Cũng như một thám tử tìm ra một điểm
bất thường trong khi tìm đầu dây mối nhợ, tôi bèn bỏ thời gian và công sức để
soi sáng vấn đề, kêu gọi bạn bè và thân nhân xa gần cùng tiếp tay tìm cho ra
manh mối. Viết sử không phải là việc ngày một ngày hai mà phải có nhiều tài liệu
gốc. Cũng may Trời cũng chìu người, mỗi bạn bè giúp cho một ít nhưng đều tận tâm tận lực. Nguyễn Hoàng Triệu, Lê Anh Dũng là những người đi tiên phong tìm cho tôi sách cũ trước 1975; các em tôi cũng mua giùm một số sách mới. Tiếp theo đó, một người bạn quý là Nguyễn Bá Dzũng cũng không ngại tốn hao tiền bạc, thời gian cùng với một thân hữu làm việc trong Viện Hán Nôm ra sức chụp cho tôi những tài liệu quý hiếm để tôi đối chiếu.
Việc tìm kiếm tài liệu còn được sự tiếp
tay của nhiều bằng hữu ở bên ngoài. Tiến Sĩ Trần Huy Bích, khi đó đang trông
coi một bộ phận sách vở Á Đông trong Viện Đại Học USC giúp tôi tìm những sách
Trung Hoa, Xiêm La, Việt Nam …
vốn đã tuyệt bản. Anh bạn thân ở gần hơn là anh Hương Hồ Nguyễn Vinh Quang thì tìm các loại sách vở nay do các trường đại học đưa lên mạng. Quan trọng hơn cả, cậu con trai của tôi là cháu Nguyễn Thiên Kỳ luôn luôn chịu khó đi mượn cho bố những cuốn sách khó kiếm nhất xuyên qua các thư viện toàn nước Mỹ nên hầu như đến nay tôi đã đủ sách vở cần
dùng, có dịp so sánh và đối chiếu những tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau để
tìm ra đáp số cho một nghi án lịch sử mà lâu nay không ai quan tâm đến.
Trở lại với việc học chữ Hán, trong
khoảng mươi năm nay, chính vì phải “đánh vật” với cái dự án to lớn
này, việc đọc chữ Hán, hiểu chữ Hán không còn là một việc rong chơi như khi dịch truyện chưởng mà là một nỗ lực bắt buộc. Tuy khả năng trí nhớ đã giảm sút nhiều, nhờ có chút vốn cũ, cái cỗ xe ấy tuy đôi khi
trái nắng trở trời nhưng cũng vẫn hoạt động một cách đều hòa. Điều hao tổn tâm
trí nhiều hơn cả hiện nay là việc làm sao hoàn thành những phần bộ chính rồi
sau đó ráp lại cho thành một đề tài chuyên nhất mà trước đây khi riêng rẽ có nhiều trùng lặp.
Một điều cũng đáng quan tâm tôi còn dự tính dịch lại những đoạn trước đây vì chưa có bản gốc nên phải dựa theo bản dịch của các tác giả đi trước, nay nếu có thì giờ sẽ tự mình thêm phần chính văn và bản dịch cho thống nhất.
Thành thử, trước đây tôi hay dịch từng phần, nay muốn cho đỡ khó khăn khi phải lục lại những đoạn cũ, tôi cất công một lần dịch luôn cho xong – nhất lao vĩnh dật – như cổ nhân thường nói.
Trong công tác phụ đó, ba năm gần đây,
tôi đã hoàn tất được bản dịch Khâm Định
An Nam
Kỷ Lược (khoảng 700 trang), Đại Việt
Quốc Thư (300 trang), Bắc Hành Lược Ký (200 trang) và một số văn kiện khác. Tốc độ dịch sử liệu không thể
nhanh, hiểu biết cũng chưa chắc chắn vì là việc vừa làm vừa học, biết đến đâu
làm đến đó.
Chữ Hán đã thành một dụng cụ làm việc, một phương tiện để đưa tôi vào kho tài liệu của cổ nhân, là cỗ xe để di chuyển hàng ngày chứ không phải là một món đồ trang sức.
Nhiều người bạn tôi mài giũa những hàng châu ngọc thành những bài thơ thật công phu; tôi thực không có cái khả năng và kiên nhẫn làm chuyện đó nên đành đi vào nghiên cứu như một việc “ngậm ngải tìm trầm”.
NGUYỄN DUY CHÍNH
[1] Huyền
Mặc Đạo Nhân tức là Dương Mạnh Huy, dịch Thuyết
Đường, Minh Tâm Bửu Giám, v.v… Ông có hợp soạn một ít sách với nhà Phật học
kiêm Nho học Đoàn Trung Còn. Khi dịch và chú giải Đường Thi Hợp Tuyển (Quyển I. Sài Gòn: Liễu Viên Thư Xá xuất bản,
1931), ông ghi tên là Huyền Mặc Đạo Nhân Dương Mạnh Huy.