Thánh thất Minh Trung, ngày 17-11 Mậu Tuất (26-12-1958)
QUAN ÂM BỒ TÁT
. . .
Bần Nữ chào chư Thiên ân. Chào chư đạo hữu, đạo muội. Chư
môn tọa thiền nghe dạy tiếp bài.
Buổi đời mạt pháp, nhơn loại tập nhiễm thói hư nết xấu của đời, tự vô thỉ
dĩ lai ([1]) chồng chất ngập đầy trong khuôn trời đất. Cảnh sống
phàm phu nhích chơn hả miệng đều là tội lỗi.
Loài người gây tạo dẫy đầy ác họa, nào biết nào hay, phải chịu quẩn quanh trong
sáu đường ([2]) ba nghiệp.([3]) Làm
sao thức tỉnh thế gian quày chơn trở lại?
Nói đến thế gian là một sự lầm lỗi to
tát, không còn tồn tại lâu dài. Đời hạ nguơn đã mạt tận, thì người hạ nguơn
cũng tiêu vong. Tất cả theo cõi đời này mà tiêu diệt, không còn một cái gì sót
lại ngày mai, vì người hạ nguơn là người ác, đời hạ nguơn là đời cùng. Đã ác và
cùng thì làm sao làm được con người ngày mai!
Con
người ngày mai là con người bởi sứ mạng được chọn. Người ấy đã
sống dậy ở cõi lòng, lòng họ dính liền cùng Tạo Hóa với vạn vật bình đẳng nhất
thể. Họ không thấy ai là
người thân kẻ thù. Vì họ biết xấu hổ, nên họ được tinh tiến trên đường đạo đức,
buông xả mối hại danh sắc ái ân, giải thoát tất cả cái gì ràng buộc nhỏ nhen tà
vọng. Nhờ biết xấu hổ mà chừa được lòng thèm muốn, tánh tham sân, đoạn ba
nghiệp lấp sáu đường, diệt vô minh, bản giác trở nên sáng tỏ. Đó là người ngày
mai.
Muốn có người ngày mai ở trong đời thượng nguơn thánh đức, gọi là nguơn
tái tạo thanh bình, bắt đầu từ đây lo xây dựng đào tạo con người mới, con người chất phác đạo hạnh.
Con người mới ở trong nguơn mạt tận này dù cho họa hại đến đâu cũng không
tuyệt diệt. Vì người đó sống bất diệt, không chạy theo cái chết của quỷ ma, vô
minh [4] nghiệp chướng. Đời này làm sao có
được con người ấy? Vì cõi phàm phu ma quỷ này không một vọng niệm [5] nào là trong sạch, thì đời sống họ
làm gì có được trong sạch mà làm người ngày mai. Bởi biết xấu hổ, họ làm được
người ngày mai.
Đã nói hạ nguơn là nguơn đen tối, tội ác; loài người cũng như đám cây bị hạn
hán đốt thiêu, sinh khí khô cạn nơi thân cây. Nhưng khi có được dịp hồng ân mưa
móc, cây nào còn nhựa sống thì đâm chồi nứt lộc. Cũng như người còn đôi chút
lương tâm, nghe đến đạo đức sanh lòng ngưỡng mộ. Vì người đã ngưỡng mộ, biết
điều lành nên theo, điều dữ nên tránh. Nếu thân bị lầm lỡ, bị thối hóa thấp
hèn, mà biết xấu hổ, biết lập chí buông xả, là lòng người sống lại.
Vậy nói đến người mới là nói đến người nào? Đám người được chọn, đám
người vì sứ mạng đến đây, đám người sớm đã được giác ngộ đạo đức. Người đó là
ai? Có phải chư Thiên ân chức sắc, chức việc và đạo hữu không?
Nếu nói người đó là người Thiên ân hướng đạo, thì đã có khi nào biết xấu
hổ không? Hay đã được cái danh Thiên ân, cái chức hướng đạo rồi đem lòng cao
ngạo, không biết xấu hổ?
Đã là Thiên ân, mà không xứng đức hạnh, sao không xấu hổ? Đã là chức sắc,
chức việc mà chưa đủ ân oai quyền pháp để trị đạo giáo dân sao không xấu hổ?
Người hướng đạo dẫn đạo nhơn sanh, mà chính mình mờ mịt tối tăm thì hướng
dẫn ai? Một người mù dắt một bầy đui sao không xấu hổ?
Biết xấu hổ với thân phận, có ngôi phẩm chức vụ mà không tròn không xứng,
lấy làm ăn năn lấy làm lo sợ. Nhờ biết xấu hổ mà cố gắng lòng mình, xa điều
quấy thói hư, buông bỏ ý tham mê ưa muốn, để được nhẹ nhàng, để nên trong
trắng, để được tự do chung cùng Tiên Phật. Đó là phương chỉnh tu, trảy sạch [6] phàm phu tội lỗi, cũng như trảy gai
tề nhánh cho cây được suôn sắn, thẳng ngay.
. . .
Bần Nữ chào chư quý liệt vị.
Trích
Thánh Truyền Trung Hưng
(Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài)
[1] Tự vô thỉ (thủy) dĩ lai 自無始以來: Từ khi chưa có khởi đầu tới nay (from
non-beginning to the present).
[2] Sáu đường (lục đạo) 六道: Sáu nẻo tái sinh (the six paths of
rebirth). <1> Địa ngục 地 獄. <2> Ngạ quỷ 餓鬼 là quỷ đói. <3> Súc sinh 畜生. <4> A tu la 阿修羅 là thần ác (asura). <5> Nhân 人 là
người. <6> Thiên 天 là thần cõi trời, thiên thần (deva).
[3] Ba nghiệp (tam nghiệp) 三業: <1> Thân
nghiệp (身業): Nghiệp
do hành vi gây ra. Thí dụ, giết hại, cướp bóc người khác là nghiệp ác; giúp đỡ
người hoạn nạn là nghiệp lành. <2> Khẩu
nghiệp (口業): Nghiệp
do lời nói gây ra. Thí dụ, nói xấu, gièm pha người khác là nghiệp ác; thuyết
pháp, giảng đạo là nghiệp lành. <3> Ý
nghiệp (意業): Nghiệp
do ý nghĩ, tư tưởng gây ra. Thí dụ, thấy sắc đẹp, tài sản người khác mà nổi
lòng tham, bụng muốn chiếm đoạt là nghiệp ác; sau giờ tọa thiền đem tư tưởng
lành hồi hướng, cầu nguyện cho bá tánh là nghiệp lành. (The three types of
karmic deeds: the karma of body, words, and mind.)
[5] Vọng
niệm 望念: Những điều mong mỏi và nhớ nghĩ (expectations and thoughts). Phân
biệt với vọng niệm 妄念: Những nhớ nghĩ sái quấy (wrong thoughts).
[6] Trảy sạch: Róc bỏ sạch. Trảy lá: Tước
trụi lá.
[7] Nên Thánh: Trờ thành bậc Thánh.
Huệ Khải chú thích
(14-3-2014)