Bạn trao vào tay tôi hiệp tuyển Thơ Người Áo Trắng.[1] Tên thơ giản dị, bìa cũng
thật khiêm tốn, chỉ vài nhành cây mảnh mai điểm những đọt
non be bé đơn sơ. Thoạt trông, lòng đã có
cảm giác nhẹ nhàng.
Buổi sáng hơi se lạnh, tôi nhẩn nha nhắp ngụm cà phê nóng,
ngắm dòng kênh xa xa còn phủ chút mù sương,
nhìn những dòng xe cứ lần lượt ào tới rồi lướt đi trước mắt, âm thanh
mỗi lúc một hối hả ồn ào hơn. Chung quanh tôi là một không gian động, rất động,
nhưng tập thơ của những người áo trắng lại mang đến cho tôi cảm giác tĩnh lặng
đến lạ thường.
Có thể mỗi người có một cách riêng để thưởng thức thơ. Phần
tôi, không mong tìm những câu thơ “tân kỳ”, những cấu trúc lạ (có khi chúng chỉ
làm tôi thêm hoang mang về trình độ thưởng thức thơ của mình!), tôi chỉ đi tìm
điều ẩn chứa sau những câu những chữ của bài thơ, tôi tìm hồn thơ! Và tôi đã
gặp được những hồn thơ tưởng chừng rất quen, như đã từng nhiều lần chạm mặt
thuở còn thong thả đạp xe trên những con đường thênh thang chưa thấy mấy ai vội
vã.
Lạ sao giữa xã hội náo động hôm nay lại có những câu thơ rất
đỗi thong dong “trăng đèn, gió quạt…, trà
nhắp, thơ ngâm…”; hóa ra sự thong dong phát xuất từ một hồn thơ đã trải
nghiệm đủ để nhận ra hư thực của đời sống:
Có có không không tuồng thế
sự
Thua thua được được chuyện
trần gian.
(Chữ Nhàn – Đạt Đức)
Không chấp vào tuồng thế sự, chuyện trần gian nên có nhà thơ
xem đời nhẹ tựa cơn gió thoảng:
Tay không ta đến giữa đời
Buồn vui, mất được, khóc
cười… hư không
Một mai cánh gió phiêu bồng
Tay không ta lại thong dong
trở về.
(Thuyền Thơ Lục Bát – Kim Anh).
Nhưng không phải ai cũng có được cái tâm an ấy
ngay từ buổi đầu tiên nên người đọc vẫn tìm thấy những vần thơ đầy băn khoăn
dằn vặt trước khi tìm được đường về với đạo:
Gối tay ngủ
dưới bầu trời
Đất buồn đất
trách: Lòng người đa đoan
Trái oan
chồng chất trái oan
Đã không chịu
trả còn toan xuống đò.
(Giữa Cõi
Thực Hư – Trần Dã Sơn)
Trót vương
vào lối trần tù
Sợi thê sợi
tử rối mù quấn quanh
Tại mình, nào
trách Cao Xanh
Bình tâm ngồi
gỡ mối manh buộc ràng.
(Một Thoáng
Bụi Phàm – Huyền Chơn)
Chưa rảnh rỗi
ta vẫn về tự hỏi
Ta là ai
trong vạn kiếp phù sinh?
Đường thiên
lý loanh quanh chùn chân bước
Phút tâm an
ta chợt gặp chính mình…
(Hỏi – Nguyễn Quốc Huân)
Có ung dung tự tại, có khắc khoải giằng co, nhưng
trên hết vẫn là cái hồn đạo trong thơ, khiến cho Thơ Người Áo Trắng mang một nét đặc trưng riêng, từ ái, nhẹ nhàng
của những hồn thơ thấm đạo, như tác giả Huệ Khải đã “nghiệm
ra”, đạo
không phải là điều gì xa vời cao siêu ở ngoài ta hay trên ta, đạo thấm đẫm
trong ta để toát ra bằng hành vi cử chỉ nghĩ suy của người chơn đạo:
Từ độ người đi tôi nghiệm ra
Đạo không chi cả, chẳng gần
xa
Nhưng trong cuộc sống người
chơn đạo
Đạo hiện nên hình qua chính
ta.
(Nhớ Bác Chơn Thiện Minh – Huệ Khải)
Cái “chơn đạo” ấy,
người đọc nhìn thấy bàng bạc suốt những bài thơ trong hiệp tuyển dù không có
lời kinh tiếng kệ đi kèm.
Chơn đạo là đây, những câu thơ dịu dàng đầy lòng từ ái:
Con xin như Mẹ
Thương con chim lạc đàn
Thương con nai ngơ ngác
Thương con hổ hung tàn
Con xin như Mẹ
Yêu cành liễu thướt tha
Yêu giọt sương trên lá
Yêu dòng suối chảy qua
…
(Giọt Tình Thương – Đơn Tâm)
là
niềm mong ước thế giới đại đồng:
Chắp tay nguyện giữa thinh
không
Từ bi hoa nở kết vòng yêu
thương
Hẹn nhau chung một con đường
Đại đồng thế giới mười phương
hòa bình.
(Tâm Ca Áo Trắng
– Kim Anh)
là tâm rung cảm trước những phận người nhỏ nhoi:
Dòng
người vẫn hàng ngày ngược xuôi hối hả
Có
ai để ý bên đường
Một
dáng ngồi chơ vơ nón lá
Chị
nhuộm xanh mặt đất cho bầu trời trong hơn.
(Người
Trồng Cỏ Bên Đường – Nguyễn Quốc Huân)
là cái tâm không phân biệt của người thấu lẽ Trời:
Tôi
là cây cỏ
Người
là hướng dương
Ai
đâu thấu tỏ
Cỏ
cũng như người.
(Không Đề –
Cát Tường)
hay:
Không
tâm không cảnh đâu trần cấu
Không
ngã không nhân chẳng dị đồng.
(Chữ Không –
Đạt Đức)
là ý niệm bình đẳng trong chuyến đò đời:
Không
có vé hạng xoàng
Không
có khoang hạng nhất
Sông rộng
chung bờ xa tít
Bình đẳng
thời gian
Bình đẳng
nắng mưa.
(Qua Phà – Nguyễn Quốc Huân)
Ngay đến cả những câu thơ lãng mạn trong tuyển
tập cũng mang theo đạo vị của người làm thơ.
Dịu dàng áo
trắng chung chiêng
Em về thánh
thất tịnh nhiên cõi lòng.
(Tâm Ca Áo Trắng
– Kim Anh)
hay:
Chân mây nhuộm ánh hoàng hôn
đỏ
Ai luyện lò cừ, ngún lửa
thiêng?
(Chiều Vĩnh Nguyên – Hàn Ngọc)
Thử hỏi ngoài kẻ chơn tu, ai có thể nhìn thấy
trong ánh hoàng hôn đỏ ngọn lửa thiêng của lò cừ?
Và rồi, đạo đã trở thành cứu cánh giúp người đạt
đến tâm bằng an:
Tạ ơn Thầy âm
thầm đưa con tới
Chiếc thuyền
từ giữa bể khổ đầy vơi
Thân nghiệp
chướng nếu không Thầy soi lối
Con làm sao
thành thật biết ơn đời.
(Tạ Ơn – Huệ Khải)
Niệm đi ta
niệm nhiều lần
Nghiệp duyên giũ
sạch xa lần bến mê
Niệm đi niệm
đến ngày về
Không còn oan
trái não nề theo ta.
(Tịnh Niệm – Kim Liên)
Xuôi tay xác
hóa thi ma
Ích gì ôm lấy
cái ta muộn phiền
Chi bằng vun
vén tâm điền
Gieo mầm từ
huệ định yên thần hồn.
(Một Thoáng Bụi Phàm – Huyền
Chơn)
Qua ghềnh
thác vịn câu kinh
Qua năm tháng
vịn công trình, công phu.
(Nơi Trọn Lành – Nguyễn Văn
Sanh)
Ở về là lịnh
Từ Bi
Ở lo quét
dọn, về trì chân kinh.
(Dặn Lòng – Trần Dã Sơn)
Ngẫm lại, tâm đạo phát ra từ thơ đạo đã quý lại
càng quý hơn trong thời đại đảo điên, lòng người dậy sóng, ít kẻ bình tâm phân
biệt giác mê.
Tập thơ xếp lại, vẫn còn nghe lâng lâng thi vị
lắng đọng êm ả của những ý thơ giàu cảm xúc đạo ngay giữa lòng đời. Người đọc
như vừa được tưới gáo nước mát lành cho trôi tuột hết cái nắng bụi trần gian.
Có phải nhờ vậy, nắng của buổi sáng nay như trong trẻo hơn, dịu dàng hơn mặc
cho trên những con đường kia, nhiều người vẫn đang mướt mồ hôi bôn ba theo ảo
vọng!
CAO
KIM
30-12-2013
[1] Thơ Người Áo Trắng,
hiệp tuyển. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2013. Quyển 66-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh
Sách Đại Đạo.
Đại Đạo Văn Uyển
trân trọng giới thiệu quý đạo hữu
blog UNDERSTANDING CAODAISM gồm các bài
tiếng Anh của
HUỆ KHẢI viết về đạo Cao Đài tại
địa chỉ:
|