Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2016

ĐĐVU 05 / TUỔI THANH NIÊN LÀ MÙA XUÂN, LÀ PHÁT HUY, LÀ SÁNG TẠO / Thánh giáo

Image result for hoa mai
Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, Tuất thời, 29-12 Bính Ngọ (08-02-1967)
TIẾP ĐIỂN
THI
CAO thấp hơn thua một nước cờ
TRIỀU suy kẻ sĩ há làm ngơ
PHÁT ngôn chẳng ngại ai thương ghét
Bản tánh như nhiên [1] tự thuở giờ.
CAO TRIỀU PHÁT
Chào chư Thiên mạng.[2] Chào liệt vị đàn tiền.[3] Tệ Huynh mừng chư hiền đệ, hiền muội.
Một hãnh diện cho các hàng tiền bối Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ có dịp giúp Thầy giáo đạo lập công, và cũng là duyên nghiệp liên hệ buổi sinh thời phải xử sự cho xong. Tệ Huynh mời liệt vị và toàn thể hiền đệ, hiền muội an tọa để luận đàm đạo sự.
Tệ Huynh giáng đàn hôm nay, mừng mừng tủi tủi, lòng băn khoăn dạt dào. Tủi là nhìn lại quãng đường hành đạo năm xưa, những cố hữu [4] chung thuyền kẻ còn người mất, sự nghiệp đạo vẫn tiến nhưng còn dang dở. Mừng là mừng được thấy còn sống sót một số cộng sự năm xưa, nay vẫn còn lăn lóc với sứ mạng cao cả được Thiêng Liêng trao phó. Mặc dầu thời cuộc đổi thay, bổng trầm lắm lúc, khảo thí liên miên, từ vật chất đến tinh thần cũng như tình cảm, nhưng các bạn ấy đã cố gắng hy sinh, chịu đựng, vượt qua những nỗi khó khăn, nhờ đó mới kiên trì hiện diện đến ngày nay.
(…)
Hỡi chư liệt vị hướng đạo [5] và hiền đệ, hiền muội hữu duyên hạnh ngộ đạo Cao Đài!
Tuy rằng thời cuộc đổi thay, lắm lúc đổi chủ bao phen, sử đạo trên bốn mươi thu [6] đã đóng góp rất nhiều với đời và với các triều đại, từ vật chất đến tinh thần cũng như sinh mạng, nhưng luôn luôn giữ vai trò đạo đức cách mạng, vẫn giữ được lòng trinh trắng thuần túy đạo đức. Nhờ đó mà trải bao phen thăng trầm bĩ thới,[7] sinh mạng tài sản của đồng đạo bất cứ ở vùng nào trên đất nước Việt Nam vẫn được bảo tồn, mặc dầu có một vài địa phương vì cộng nghiệp chúng sanh đành phải trả. Ngày nay, những người còn giữ Đạo, phổ thông Đạo, hãy nhắm vào đường lối, mượn thế [8] để toan lo giác thế,[9] mà hành đạo cho trọn thỉ trọn chung.[10]
Nhớ câu thánh ngôn năm xưa:
Một nước nhỏ nhen [11] trong vạn quốc [12]
Ngày sau làm chủ mới lạ kỳ.
Nhứt định ngày ấy sẽ đến và phải đến. Đến với dân tộc Việt trên phương diện đạo lý và đạo đức. Bởi vậy, ngay từ bây giờ, những ai nặng lòng vì ơn nước nghĩa dân thì lo phần đó; còn ai nặng lòng vì Đạo hãy chuẩn bị ngay đường lối, chủ trương mạch lạc [13] để ngày ấy xương minh [14] chánh pháp, khỏi phải lọng cọng ngỡ ngàng khi thời cơ đã đến. Mà sự chuẩn bị ấy không thể không có phong trào thanh thiếu niên. Do đó, Tệ Huynh hôm nay muốn đề cao và lưu ý những người có trách nhiệm hãy quan tâm đến từng vấn đề một.
(…)
Trời có xuân hạ thu đông, cuộc thế có sanh trưởng thâu tàng,[15] mà mùa xuân là mùa vạn vật hồi sinh ấm áp, trải qua mấy lúc đông thiên.[16] Còn trong một đời người, tuổi thanh niên là mùa xuân, là phát huy, là sáng tạo. Do đó, thanh niên cần phải được vun quén, tổ chức, giáo dục, chăm sóc và thúc phát mọi mặt. Người đi trước hãy dọn đường sửa lối cho kẻ theo sau, làm thế nào khai thác những bẩm sinh,[17] những khả năng từ thuở thanh thiếu niên, vì thanh thiếu niên là những gì đang chờ đợi kết quả ở tương lai.
Thanh thiếu niên không sống cái sống của riêng mình, không làm cái làm của riêng mình, mà phải làm và phải sống cho đại chúng. Bất cứ một gia đình, quốc gia, xã hội và nhân loại nào, dầu ở quá khứ, hiện tại hoặc vị lai, phải ý thức và kỳ vọng [18] ở thanh thiếu niên; chẳng khác nào cây, đem hột đi ương lên thân cây con, tùy sự chăm sóc, kết quả của cây xấu hoặc tốt, phần lớn do chủ vườn chăm sóc.
Các em nhớ điều này: Những kết quả không phải thực kết ở ngày mai mà phải thực hành sáng tạo ngay trong hiện tại. Hãy nhìn lại tiết đông thiên mà nhận thấy mùa xuân là ấm áp, chớ đừng chôn mình trong tiết đông thiên băng giá mà chết trước, không được hưởng tiết xuân sang.
Người đi trước là bậc đàn anh, cần phải sửa soạn xây dựng cho đoàn sau những gì mình đã khai sáng. Những tánh ích kỷ độc tôn sẽ nhận chìm tiến bộ. Nếu Sĩ Đạt Ta khi xưa nhập niết bàn ngay sau khi Người thành đạo thì đâu được đời gọi là bực Thế Tôn.[19] Còn những khoa học thực nghiệm Tây phương nếu không truyền bá mãi mãi thì đâu được chói lọi như ngày nay. Lời này các em cần ghi nhớ để hành đạo trong mùa xuân đầy phấn khởi.
Hỡi các em! Các em phải nhận thức trách nhiệm của mình. Hãy nhìn thẳng vào hoàn cảnh để cương quyết bắt tay vào việc hoằng giáo [20] độ đời. Đời can qua [21] mới rõ tay bình định, lúc loạn ly mới xuất hiện nhân tài. Tu không phải chán đời ẩn dật, tu bắt buộc phải mạnh dạn đi vào đời. Chỗ nào tối, người thanh thiếu niên Phổ Thông Giáo Lý thắp ngọn đuốc sáng. Chỗ nào hầm hố chông gai, có người thanh thiếu niên Phổ Thông Giáo Lý kiêu dũng đem đạo đức đến san bằng. Chỗ nào lạnh lùng băng giá, người thanh thiếu niên Phổ Thông Giáo Lý đem tình thương Thượng Đế đến sưởi hâm ấm áp. Chỗ nào nóng bức, có người thanh thiếu niên Phổ Thông Giáo Lý đem tình nhân loại đến dập tắt dịu dàng. Cái bổn phận thiêng liêng đó người thanh thiếu niên Phổ Thông Giáo Lý không thể từ chối được.
Mục đích như thế mà phương tiện là gì? Khí giới để đạt thành là chi? Chỉ có các em và các em. Ta không bảo các em chinh phục thiên hạ, mà bảo các em tự thắng các em và phục vụ cho thiên hạ. Hãy lấy niềm vui khi làm cho kẻ khác. Hãy lấy làm hãnh diện khi xả thân cho tha nhân.[22] Không ai có thể bắt kẻ khác làm cho mình; tốt hơn hết là mình làm cho kẻ khác. Người thanh thiếu niên hãy tràn ngập hoan lạc trong sự cao thượng. Phương châm duy nhất cho các em là liên kết tự kiểm và nhận phê trong tinh thần hành động duy tiến.[23]
Mùa xuân lại đến đây, các em hãy vui vẻ lên. Vui để biết rằng mình không là thừa trong tập thể nhân loại. Vui để biết rằng tương lai phải do chính mình sắp đặt. Các bậc đàn anh của các em đã đi qua rồi trên con đường phục vụ cho sự miên viễn [24] của lịch sử, thì hiện trong cơ Đạo ngày nay, những cái ước vọng và hùng khí của thời thanh xuân nhường lại cho tất cả các em. Bất cứ trên cương lãnh [25] nào, các em cũng bắt buộc ý thức cái bổn phận cao cả của người được tiếp nối, của người được giao phó, của người được đặt niềm tin trên viễn đồ [26] thái bình cực lạc.
Tất cả những lời nói hôm nay mang đến các em hiện diện, khiếm diện [27] hay bất cứ hiện hữu chốn nào ước ao của Ta là đánh thức các em trong mùa xuân này trước khi nắng hạ mưa thu đến với các em, ngõ hầu [28] các em diễn bày tư tưởng, tình cảm và hành động của mình chân thực, làm những việc đáng làm trong năm mới.
THI
Mở cửa trần gian rước Chúa Xuân
Đem màu đạo lý vẽ canh tân [29]
Cho đời sớm thoát nơi đau khổ
Trả lại ngàn xưa đức Thánh Nhân.
THI BÀI
1. Đức Thánh Nhân cõi trần xây dựng
Nguồn lý chơn điểm nhuận khắp nơi
Thưởng xuân biết được lòng Trời
Ngày xuân đến với mọi người vui xuân.
2. Xuân vẫn đến hồng trần [30] tự thuở
Đông vừa tàn hớn hở xuân sang
Vẽ vời cảnh vật huy hoàng
Bỏ cơn nắng hạ đông tàn thiết tha.
3. Xuân đến với sơn hà [31] gấm vóc
Xuân đến cùng chủng tộc nhân sinh
Đề thơ gởi gắm chút tình
Nỗi đời nỗi Đạo nỗi mình với xuân.
4. Mảnh đất Việt nền nhân xây tạo
Mầm lý chơn Đại Đạo gieo trồng
Vận hành Nam Bắc Tây Đông
Lập đời thánh đức đại đồng âu ca.[32]
5. Cùng Tạo Hóa chan hòa mưa móc [33]
Cùng nước non một góc chí linh [34]
Xuân ôi! Xuân có riêng tình
Loạn ly ba cõi, thái bình mấy châu!
6. Ruộng nhiều lúa thân trâu nặng ách
Cảnh hoang vu mấy khách tới lui
Nếu cam [35] trong phận tôi đòi
Dầu cao lương cũng đượm mùi nô gia.[36]
7. Mây ảm đạm sông Hà vần vũ
Khói thê lương bến Cửu mịt mờ
Trông về cố quận như mơ
Tấm thân đặt trước ván cờ điêu linh.[37]
8. Tiếng trống giục trường đình [38] văng vẳng
Bóng chinh nhân [39] thấp thoáng xa xa
Quê hương đâu mấy cửa nhà
Tiếng quyên [40] khóc bạn, giọng gà túc con.
9. Thân cây ăn đã mòn lưỡi búa [41]
Xác tằm khô còn chứa nợ dâu
Mặc ai sớt mỡ chia dầu
Dạ thưa không khỏi, cúi đầu chẳng yên.
10. Vốn tiện tặn bạc tiền sản nghiệp,
Chẳng ích gì cho kiếp lưu vong [42]
Trẻ thơ tay bế tay bồng,
Lũy tre rặng lá chi mong [43] thị thành.
11. Cũng đành chịu mà tranh sự sống
Dám đem thân lăn cõng nhà vàng
Chợ đời buôn dọc bán ngang
Lâu la [44] trộm cướp lăng nhăng đua đòi.
12. Bóng nhựt nguyệt khôn [45] soi chậu úp
Màu tang thương [46] chẳng chút lạt phai
Triền miên trong kiếp đọa đày
Hạ thu đông mãn ai hoài [47] với xuân.
13. Tưới nước mắt để vầng hoa nở
Bón tâm tình cho rỡ sắc hương
Chờ xuân trong cảnh đoạn trường [48]
Rước xuân về để canh tân [49] cho đời.
14. Công tiền nhân chói ngời lịch sử
Dải non sông ngàn tứ muôn chung [50]
Hãy toan nối gót thư hùng [51]
Đừng gây chi việc não nùng ai bi.
15. Đem tuổi xuân bù chì [52] non nước
Mượn hồn xuân vun tược quén chồi
Lẽ Trời sáng tỏ khắp nơi
Đạo Trời cứu vớt mọi người thế gian.
16. Tuổi xuân ấy tạo đoan [53] vĩ nghiệp [54]
Hồn xuân là nối tiếp vạn linh [55]
Mùa xuân là ánh bình minh
Thanh niên tu sĩ hy sinh lên đường.
17. Cùng vui với tình thương trách nhiệm
Cùng tạo chung quan điểm tương lai
Vẫy vùng khỏi lưới trần ai [56]
Lập đời thánh đức, hưởng ngày Thuấn Nghiêu.[57]
18. Xuân xuân đến tỏ nhiều tâm sự
Xuân xuân sang ai giữ ngày xuân
Cho toàn khắp cả thế nhân
Thưởng xuân cho đúng tinh thần thưởng xuân.
THI
Thưởng xuân mới biết Đạo là xuân
Lại lại đi đi cuộc chuyển vần [58]
Xuân vẫn còn xuân, xuân bất tận
Là mùa thanh thiếu tạo nền nhân.
Tệ Huynh chúc các em thanh thiếu niên Phổ Thông Giáo Lý tràn ngập ân huệ trên đường hành đạo.
Tệ Huynh sống còn ở ngày mai là do các em; và các em cũng sẽ là điểm linh quang bất diệt của Thượng Đế, của Việt Nam.
Đã hết giờ. Tệ Huynh chào chư phận sự Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý. Hẹn còn gặp lại khi sau. Thăng.




[1] Như nhiên 如然: Y như thế, không khác.
[2] Thiên mạng (mệnh) 天命: Bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó là thế Thiên hành hóa 替天行化 (thay Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu hành).
[3] Đàn tiền 壇前: Ở trước đàn cầu cơ (before the spirit evoking seance).
[4] Cố hữu 故友: Bạn cũ (old friends).
[5]) Hướng đạo 向導:  Người dẫn dắt đạo hữu (those who lead their brethren). Dẫn dắt đạo hữu (to lead brethren).
[6] Trên bốn mươi thu: Hơn bốn mươi năm, tính từ 1926 tới 1967.
[7] Bĩ thới 否泰: Vận rủi, xấu () và vận may, tốt (thái). Sướng khổ, may rủi.
[8] Thế : Cuộc đời, xã hội.
[9] Giác thế 覺世: Giúp cho người đời giác ngộ, hiểu đạo (to enlighten people).
[10] Thỉ (thủy) chung 始終:  Từ đầu tới cuối (from beginning to end). Khởi đầu và chấm dứt, mở màn và kết cục (the beginning and the end).
[11] Nhỏ nhen: Cùng nghĩa như nhỏ nhoi, nhỏ nhít. Nhỏ nhen (tiếng Việt cổ) có nghĩa là nhỏ bé. Xem: Huình Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc Âm Tự Vị, Tome II. Sài Gòn: 1896.
[12] Vạn quốc 萬國: Tất cả các nước (all nations, all countries).
[13] Mạch lạc 脈絡: Sắp xếp có thứ tự, liên hệ với nhau (cohesive).
[14] Xương minh 昌明: Làm cho sáng tỏ nghĩa lý để mọi người thấu hiểu.
[15] Sanh (sinh) trưởng thâu (thu) tàng 生長收藏: Bốn giai đoạn tương ứng với bốn mùa là xuân (sinh sôi), hạ (trưởng, phát triển), thu (gom lại, co cụm lại), đông (tàng bế, cất giữ); đồng nghĩa với thành trụ hoại không, thành thịnh suy hủy.
[16] Đông thiên 冬天: Mùa đông (winter).
[17] Bẩm sinh (sanh) 稟生: Có sẵn từ lúc chào đời (innate, inborn).
[18] Kỳ vọng 祈望: Đặt nhiều tin tưởng, hy vọng vào người nào (to expect).
[19] Thế Tôn 世尊: Đấng được thế gian tôn kính (the World Honoured One).
[20] Hoằng giáo 弘教: Mở mang, phát triển một tôn giáo (to develop a religion).
[21] Can qua 干戈:  Cái mộc, cái khiên (shield) và cây mác, ngọn giáo, ngọn thương (spear). Chiến tranh (war).
[22] Tha nhân 他人: Người khác (other people).
[23] Duy tiến 唯進: Cốt yếu để được tiến bộ.
[24] Miên viễn 綿遠: Lâu dài, cũng như trường tồn.
[25] Cương lãnh (lĩnh) 綱領: Đường lối chỉ đạo hành động cho một đoàn thể, tổ chức (guiding principle).
[26] Viễn đồ 遠途: Đường xa, con đường lâu dài sau này.
[27] Khiếm diện 欠面: Vắng mặt (absent).
[28] Ngõ hầu: Để mà, để cho, nhằm mục đích là (in order to).
[29] Lấy sắc màu đạo lý vẽ nên bức tranh canh tân, tức là đem đạo lý mà đổi mới cuộc đời.
[30] Hồng trần 紅塵: Bụi hồng, ám chỉ cõi thế gian, cõi người ta (the world, human society).
[31] Sơn hà 山河: Núi và sông; ám chỉ đất nước, quốc gia (country).
[32] Âu ca 謳歌: Hát ca vui mừng đời thái bình thịnh trị.
[33] Mưa móc: Mưa và sương (rain and dew); tức là võ (vũ) lộ 雨露, ám chỉ ơn huệ Trời ban (God’s blessings).
[34] Chí linh 至靈: Rất thiêng liêng.
[35] Cam: Cam đành, cam chịu.
[36] Nô gia: Gia nô 家奴, kẻ nô bộc, tôi tớ trong nhà (servants).
[37] Điêu linh 凋零: Héo rụng (withered); suy bại, tàn tạ, xác xơ, rã rời (decayed).
[38] Trường đình 長亭: Ngày xưa bên Trung Quốc cứ mười dặm đường lại dựng một nhà nghỉ chân cho người đi đường xa. Đây cũng là nơi người ta chia tay khi tiễn chân nhau. Trường đình dùng trong thi ca ám chỉ cảnh chia ly. Thi ca hay ghép trường đình với tiếng trống, vì ngày xưa trai tráng lên đường đi lính, phải theo tiếng trống giục giã làm hiệu lệnh tập trung tại trường đình. Thánh Ngôn Hiệp Tuyển: Chia gương căn dặn buổi trường đình (Bát Nương xướng); Ình ình trống giục thảm trường đình (Quý Cao họa).
[39] Chinh nhân 征人:  Người đi xa (traveller on a long journey). Thơ Đào Uyên Minh (Đào Tiềm, bài Quy Khứ Lai Từ): Vấn chinh phu dĩ tiền lộ問征夫以前路 … (Hỏi khách đi đường về con đường phía trước…). Người đi lính xa nhà (garrison soldier).
Chinh phu 征夫: Cũng có hai nghĩa như chinh nhân. Chinh phụ 征婦 Người đàn bà có chồng đi lính xa nhà (garrison soldier’s wife).
[40] Quyên : Chim quyên, chim đỗ quyên 杜鵑,chim quốc (cuckoo).
[41] Lưỡi búa chém vào đã ăn mòn, khuyết thân cây. Sau một thời gian dài, lưỡi búa ấy dùng càng nhiều thì càng mòn khuyết đi.
[42] Lưu vong 流亡: Xa quê hương (in exile).
[43] Chi mong: Còn mong chi.
[44] Lâu la 嘍羅: Tay chân bộ hạ của quân cướp (subordinates in a gang of bandits).
[45] Khôn soi: Không chiếu xuyên qua được (unable to penetrate).
[46] Tang thương 桑滄:  Nói tắt từ thành ngữ thương hải [biến vi] tang điền 滄海[變為]桑田: Biển xanh biến thành ruộng dâu, ám chỉ biến cố (thay đổi lớn lao) ở đời; cùng nghĩa với cuộc dâu biển hay biển dâu (life’s vicissitude). Khổ sở tiều tụy, tiêu điều (miserable). Câu thơ trong bài dùng theo nghĩa thứ hai. Màu tang thương chẳng chút lạt phai: Cảnh khổ sở tiêu điều vẫn không giảm bớt.
[47] Ai hoài : Buồn nhớ não nuột.
[48] Đoạn trường 斷腸: Đứt ruột; đau thương cực điểm, tan nát cõi lòng (heartbroken).
[49] Canh tân 更新: Đổi mới (to renovate, to renew).
[50] Ngàn tứ muôn chung: Thiên tứ vạn chung 千駟萬鍾.  Tứ: Cỗ xe có bốn ngựa kéo; chung: Cái dùng để đong thóc, bằng sáu hộc và bốn đấu; ngàn, thiên, muôn, vạn đều có nghĩa là vô số, rất nhiều. Ngàn cỗ xe bốn ngựa và mười ngàn thùng thóc là cách ám chỉ sự giàu sang. Dải non sông ngàn tứ muôn chung: đất nước giàu đẹp.
[51] Thư hùng 雌雄:  Con mái (thư) và con trống (hùng). Nữ có tài hơn người gọi là anh thư; nam có tài hơn người gọi là anh hùng 英雄. Nối gót thư hùng: Noi gương và tiếp bước các bậc anh hùng và anh thư dân tộc ngày xưa (to follow the good example of the nation’s heroes and heroines).
[52] Bù chì: Giúp đỡ, giữ gìn; nói chệch từ phù trì 扶持 (to help, to assist, to support).
[53] Tạo đoan 造端: Mở đầu, khởi sự; đầu mối.
[54] Vĩ nghiệp 偉業: Sự nghiệp to tát, cao cả (a great cause).
[55] Vạn linh 萬靈: Vô số sinh linh (myriads of living beings).
[56] Trần ai 塵埃: Trần gian, cõi trần, cõi bụi bặm, hồng trần, cõi bụi hồng (the dusty world). Trầnai cùng nghĩa là bụi bặm (dust).
[57] Ngày Thuấn Nghiêu: Thuở thanh bình như đời vua Nghiêu vua Thuấn thời xưa.
[58] Chuyển vần:  Vận động xoay chuyển theo lẽ tuần hoàn. Sự đổi thay cuộc đời.
HUỆ KHẢI & LÊ ANH MINH hiệp chú