TẠI SAO GỌI LÀ NHO TÔNG CHUYỂN THẾ?
Đức
Lý Giáo Tông dạy:
Đêm hăm sáu mùa Thu Nhâm Tý
Chí Thiện Đàn, giáo lý hoằng
dương
Nho Tông chuyển thế lập trường
Tam Tông quy hợp mở đường
chân tông.
(…)
Trước Nho Tông chuyển kỳ cứu
thế
Giúp con người thoát bể tệ
đoan
Làm cho người tỉnh mộng
tràng
Luân thường đạo lý mở màn phục
hưng.([1])
Thánh Ngôn Hiệp Tuyển có câu:
Nho Tông phục thế hưởng thuần
phong.([2])
Nho
Tông chuyển thế và Nho Tông phục thế là hai giai đoạn nối tiếp nhau trong công cuộc
hoàn thiện hóa xã hội nhân sinh và bổ trợ cho con đường giải thoát của Tiên Tông và Phật Tông để thành tựu được Chân
Tông trong tiêu điểm của tôn chỉ Cao Đài.
Nho Tông 儒宗 nghĩa là tôn chỉ của Nho Giáo bao gồm Tam Cang Ngũ
Thường và Tam Tùng Tứ Đức.
Chuyển thế 轉世 là thay đổi, chuyển hóa cuộc đời.
Phục thế 復世 là trở về cuộc đời tốt đẹp hơn.
Nho Tông chuyển thế là tôn chỉ của Nho Giáo nhằm
cải tạo cuộc đời, thay đổi cuộc đời của từng cá nhân và xã hội từ xấu ra tốt, từ
kẻ tiểu nhơn thành người quân tử.
Nho Tông phục thế là tôn chỉ của Nho Giáo nhằm
khôi phục lại cuộc đời thuần lương thánh đức từ chỗ ác trược.
Cuộc
đời con người nơi thế gian đã và đang thế nào mà phải cần chuyển đổi theo đường
lối Nho Tông?
Đức
Lý Giáo Tông dạy về thực trạng thế tình:
Dứt lòng tục, ruổi dong đường
đạo
Nhìn
lại đời, áo não biết bao
Kẻ
thì tranh đoạt quyền cao
Người
thì danh lợi, đua nhau giựt giành
Kìa
là chốn thị thành náo nhiệt
Toàn
cả đều mài miệt thân sanh
Theo
mùi vật chất cạnh tranh
Vì quyền, vì lợi, vì danh,
vì tình.([3])
Đoạn
nầy cho ta thấy hình ảnh của một người chơn tu đã dứt bỏ lòng phàm, quyết chí dấn
thân vào đường đạo và quay lại nhìn đời mà chạnh lòng áo não. Nhiều người vì
quá tham quyền, tham lợi, tham danh và mê đắm dục tình nên đành để cho lương
tri ngủ vùi dưới tận đáy tâm hồn mờ mịt; để cho đạo đức tiêu mòn nhường chỗ cho
rong rêu hiểm ác phủ mờ cả gia phong quốc thể.
Danh
quyền, lợi lộc, tình cảm thật ra ở đời sống bình thường ai cũng cần có, nhưng
là có trong thực danh thực quyền; có trong lợi chơn lộc chánh; có trong tình cảm
cao thượng tùy theo đức độ và tài năng tu chí của mỗi người, chớ đâu cần phải
bán mua hay giành giật mới có.
Xem bề mặt hữu hình vẻ đẹp
Nào lầu cao liên tiếp dọc
ngang
Ngựa xe rầm rộ chật đàng
Trai tài gái sắc, điểm trang
khoe mình.
Thốt toàn lời dục tình hoa
nguyệt
Mở miệng ra chỉ biết lợi
danh
Đua nhau quyền tước đấu
tranh
Yếu thua mạnh được kết thành
đảng phe.([4])
Đoạn
nầy cũng cho thấy dân giàu nước mạnh là điều mà ai ai cũng mong muốn, nhưng
giàu trong sự làm ăn chơn chánh; không trốn sưu lậu thuế; không liên kết gian
thương; không bán hàng quốc cấm. Bằng ngược lại thì cái mã giàu sang kia chỉ
như cánh phù dung sớm nở tối tàn thì bảo nước non làm sao vững mạnh được?
Vì quá xem trọng vật chất kim tiền để thỏa mãn
lòng tham đắm kiêu sa, để cho mọi người nể phục về sự thành đạt của mình qua
nhà cao cửa rộng, qua xe cộ đắt tiền, v.v… người ta đã nuôi dã tâm và có những
hành vi phi nhân bất nghĩa với đồng bào, đồng loại để giành cuộc sống phù hoa
cho mình mà nồi da xáo thịt lẫn nhau, gây thảm họa chiến tranh từ trong gia
đình tới xã hội và thế giới nhân loài. Điều nầy được chứng minh trên các phương
tiện truyền thông mà hằng ngày chúng ta thường nghe thấy.
Thế
giới càng mở cửa thông thương, bên cạnh những ngọn gió lành thổi vào những tiện
ích cho đời sống vật chất và tinh thần, còn có những làn gió độc hại phi văn
hóa lùa vào khiến bao người vì đạo đức yếu ớt đã bị quật ngã thảm thê, tệ nạn
xã hội tăng lên, mỹ tục thuần phong giảm xuống.
Tuy
nhiên, đối diện trước thực trạng đó, chúng ta cũng không phải bi quan mà nản
lòng tiến thủ trên đường tu thân độ chúng, vì vẫn còn có nhiều trang ưu thời mẫn
thế đã và đang dựng lại nền tảng Nho Tông với hoài bão chuyển phục thế tình.([5])
Như thế, hai giai đoạn chuyển và phục là hai tác nhân tích cực để Nho Tông hoàn thành mục tiêu Đại Đạo,
mà sứ mạng của người Cao Đài rất cần được phát huy đúng hướng như bài kinh Cầu
Nguyện Long Hoa có câu:
Long Hoa chuyển phục nhơn lành
Tương công chiết tội phân
rành thiệt hư.
Công
cuộc chuyển phục “nhơn lành” trong Tam Kỳ Phổ Độ bằng sự ứng dụng Nho Tông
trong đường lối Cao Đài.
ỨNG DỤNG NHO TÔNG TRONG ĐẠO CAO ĐÀI
Nho
Giáo du nhập nước ta từ thời Hậu Hán tức khoảng đầu Công Nguyên. Trải qua những
cuộc thăng trầm của lịch sử trong hàng ngàn năm, giáo thuyết Nho Tông đã khúc xạ
vào đời sống và in sâu vào máu thịt của dân Việt chúng ta, đến độ không còn là
Hán Nho hay Tống Nho nữa, mà trở thành Việt Nho, lưu lại tinh túy Nho Tông siêu
việt, để rồi hòa quyện cùng nguyên lý Phật Tông và Tiên Tông, trở thành Tam
Tông chơn giáo trong Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ với hình thức ngoại giáo công truyền
chú trọng Nhơn Đạo gắn liền với ý nghĩa Thiên Đạo được thể hiện ở ba phần giáo
nghi, giáo luật và giáo lý.
1. Về giáo nghi
Nếu bảo trật tự là công lệ đầu
tiên của Tạo Hóa thì Lễ cũng là trật tự của xã hội, là nghệ thuật giao tiếp giữa
người với người trong khuôn khổ duy trì, bảo vệ và tôn trọng nhân phẩm và nhân
vị lẫn nhau. Đó cũng là ý nghĩa của nghi thức Quan, Hôn, Tang, Tế kèm theo Lễ
Nhạc cúng kính trong đạo Cao Đài.
Đức Khổng Tử tuyên bố rằng Ngài không lập
ra một Đạo mới, chỉ thuật lại cái Đạo của thánh xưa, miễn sao mọi người tiếp
thu đạo thánh hiền là được.([6]) Ngài chủ trương dùng thi ca để gây hứng
khởi làm điều tốt (hưng ư thi 興於詩); dùng lễ để lập thân hành đạo (lập ư lễ 立於禮); dùng âm nhạc để tu dưỡng và hoàn
thành nhân cách (thành ư nhạc 成於樂). Chủ trương của Ngài được đạo Cao Đài áp dụng trong
nghi thức tôn giáo mang đậm sắc thái văn hóa Việt Nam .
a. Hưng ư Thi là làm nổi bật lên tình cảm cao thượng của con người bằng những
câu văn có vần có điệu chan chứa trong những bài kinh về quan, hôn, tang, tế
thuộc về phần Thế Đạo.
Lễ Gia Quan 加冠 theo truyền thống xưa là lễ
đội mũ cho con trai đúng 18 tuổi, đến thời kỳ thành niên.
Con gái đến 16 tuổi thì được hành lễ Gia
Kê 加笄
hay Cập Kê 及笄 (cài trâm). Hiện
nay không thấy ai còn hành các lễ Gia Quan hay Gia Kê theo nghi thức Cao Đài
nhưng Lễ Bổn vẫn còn các bài kinh về lễ ấy, mục đích nhắc nhở người
con trai, con gái phải làm gì khi bước chân vào đời:
Tánh
lành gồm đủ lễ nghi
Tam
Cang, Ngũ Đức khắc ghi vào lòng.
Ơn
nhà nợ nước vẹn xong
Xứng
câu hồ thỉ tang bồng ([7]) rạng danh.
(Kinh Gia Quan)
Noi
gương cử án tề mi ([8])
Gái
tài Mạnh Thị vui bề gia phong
Công,
dung, ngôn, hạnh trau lòng
Làu làu tuyết giá,([9]) khuê phòng rạng gương.
(Kinh
Gia Kê)
Lễ Hôn Phối là một nghi lễ trong Lễ Bổn theo quy định của Tân Luật
(Thế Luật). Các bài kinh hôn phối nhằm nêu rõ sự hệ trọng của đạo nhơn luân bắt
đầu từ nghĩa lý “Tạo đoan hồ phu phụ”
và lời nguyền giữ đạo phu thê:
Xui cho trẻ chữ đồng đừng lạc
Ở cùng nhau đầu bạc trọn
tình
Giàu nghèo cũng chẳng bất
bình
Nhớ câu tấm mẳn phải gìn
cháo rau.
(Kinh
Làm Lễ Tơ Hồng)
Lễ Tang, Lễ Tuần là phần cầu độ siêu rỗi cho
người quá vãng và cũng là thể hiện tấm lòng hiếu nghĩa đối với ông bà, cha mẹ,
anh em hay vợ chồng khi phải gặp cảnh tử biệt.
Với
cha mẹ:
Ơn cúc dục cù lao mang nặng
Lỡ thân côi mưa nắng khôn ngừa
Âm dương cách bóng sớm trưa
Thon von phận bạc không vừa
hiếu thân…
(Kinh Cúng Cha Mẹ)
Với anh em:
Niềm
thủ túc đã đành vĩnh biệt
Càng
nhớ nhau càng tiếc tình nồng
Thân
nhau từ buổi lọt lòng
Chén
cơm dĩa muối cũng đồng chia nhau…..
(Kinh Cúng Huynh Đệ Mãn Phần)
Với
vợ chồng:
Niềm ân ái thân hòa làm một
Nghĩa sơ giao khắc cốt ghi
xương
Nhắn mưa gởi gió đưa thương
Từ đây thiếp tỏ đoạn trường
với ai.
Càng nhớ đến những ngày hội
ngộ
Càng ngổn ngang mối nợ tình
chung
Đã đành bẻ gãy chữ đồng
Hiển linh xin chứng tấm lòng
tiết trinh…
(Kinh
Vợ Cúng Chồng)
Lễ Tế Chiến Sĩ Trận Vong là một nghi thức long trọng
để bày tỏ lòng tưởng nhớ đến những anh hùng liệt sĩ đã vì nước quên mình:
Trước lễ mọn tửu trà đạm bạc
Nghĩa sanh tồn sống thác như
nhau
Hỡi nầy chiến sĩ đồng bào
Vui tươi giữa lúc tương rau
mặn nồng
Vì quốc thể trận vong chiến
sĩ
Cảnh lầm than, binh bị tử
thương
Cầu cho hồn đặng an khương
Anh linh hiển hích trên đường
cứu dân…
(Kinh
Cầu Hồn Chiến Sĩ)
b. Lập ư Lễ và Thành ư Nhạc là dựng nên hình thức lễ tiết trong các nghi cúng tế
để tạo mối giao cảm giữa người với các Đấng thiêng liêng, đồng thời tuân thủ những
quy định cần thiết để tạo ra sự đồng điệu hòa hợp giữa người với người và tiết
chế sự tự do phóng túng.
Trong
một thời cúng đại đàn, sau phần Lôi Âm Cổ khởi và Bạch Ngọc Chung minh là nhạc
tấu Quân Thiên, tiếp giá Đức Ngọc Hoàng và cung nghinh các Đấng. Khoảnh khắc nầy,
ai chưa kịp vào đàn cúng thì ở đâu đứng yên đó, im lặng nghiêm trang, không được
di chuyển khi trống nhạc Quân Thiên chưa dứt.
Hai
hàng Lễ Sĩ dâng lễ Thầy đi theo lối chữ Tâm 心
theo như thánh
ngôn dạy, có nghĩa là dâng trọn tâm hồn cho Đấng Từ Phụ thiêng liêng qua các lễ
phẩm hương, hoa, tửu, trà … đều hòa chung từng tiết nhịp của trống nhạc, từng bước
nhún của Lễ Sĩ và từng quãng thài ngân nga của đồng nhi, như:
Trầm đàn… khói kết… năm mây
Giới hương... Định Huệ… năm
cây… cung chầu.
(Bài
thài tuần hương)
Những
bài bản cổ nhạc được sử dụng trong lễ cúng đại đàn đều hàm ẩn lý đạo trong đó.
Chẳng hạn:
*
Để ám chỉ thời kỳ hồng mông của vũ trụ, chưa phân định âm dương, âm thanh đưa
qua trộn lại không đứng yên một chỗ, đó là bản Xàng Xê.
*
Để ám chỉ trên trời có Ngũ Khí, dưới đất có Ngũ Hành, con người ở giữa có Ngũ Tạng,
đó là bản Ngũ Đối Thượng và Ngũ Đối Hạ.
* Để ám chỉ cảnh thái bình lạc nghiệp
âu ca thì có bản Long Ngâm, với câu: Hổ khiếu long ngâm quang thế giới / Thái
bình nhất thống lạc như hà:([10])
Cọp hú rồng ngâm thế giới sáng / Thái bình thống nhất vui làm sao.
Nêu
vài dẫn chứng trên để chúng ta có thể nhận ra rằng, tác dụng của Lễ Nhạc nhằm
hướng đến các tiêu điểm như:
Hàm dưỡng tính tình trở nên đôn hậu, làm nền cho đạo Nhân, vì Lễ-Nhạc-Nhân
ở đây được coi là một thể thống nhất gắn kết bởi cái tâm chí thành, không phô
trương giả dối, cho nên Đức Khổng Tử mới nói: “Một người chẳng có lòng nhân,
coi chữ lễ có ra gì? Một người không có lòng nhân sao có thể tấu nhạc?” ([11])
Giữ tình cảm ở mức trung dung, trung thứ. Trung dung là không để tình cảm của hỷ, nộ, ái, ố… phát ra bừa bãi
làm cho bổn tâm thiên lệch. Trung thứ
là “điều gì mình không muốn thì đừng làm cho người khác”.([12])
Xác định phân minh lẽ phải trái, trật tự trên dưới. Để tâm hồn mình hòa điệu
trong cùng một đại sinh mệnh của vũ trụ vạn vật, do Đạo Người mà đạt đặng Đạo
Trời.
Tiết chế những thị
dục thường tình, dung tục. Đức Khổng Tử nói về việc khắc kỷ phục lễ là “Việc trái lễ chớ xem, không hợp
lễ chớ nghe, không hợp lễ chớ nói, không hợp lễ chớ làm”.([13]) Muốn duy trì sự tự do an lạc phải
hạn chế sự tự do phóng túng theo thị dục.
Tóm lại, bằng lộ trình tu dưỡng với
thực tiễn Hưng ư Thi, Lập ư Lễ và Thành ư Nhạc, chúng ta sẽ cảm
nghiệm và thông thấu được cảnh giới hòa hợp của Thiên Địa Nhơn.
2. Về
giáo luật
Bộ luật căn bản của đạo Cao Đài là Pháp Chánh Truyền, trong đó gồm có cơ cấu
tổ chức, hệ thống hành chánh đạo và quy định đạo phục cho các phẩm chức sắc, chức
việc. Liên quan đến đạo Nho, có ba đặc điểm:
Đại phục của
Nho Chưởng Pháp toàn màu hồng, đầu đội mão Vân Đằng (có hai cánh chuồn như mão
của thừa tướng ngày xưa), tay cầm bộ Xuân Thu, chân mang giày vô ưu màu hồng
trước mũi có thêu chữ Nho 儒.
Phẩm trật chức sắc Cửu Trùng Đài từ Giáo Tông xuống Giáo Hữu còn
được diễn tả như sau: Nhứt Phật (1 vị Giáo Tông); Tam Tiên (3 vị Chưởng Pháp); Tam
Thập Lục Thánh (36 vị Phối Sư); Thất Thập Nhị Hiền (72 vị
Giáo Sư); Tam Thiên Đồ Đệ (3.000 Giáo Hữu).
Thất Thập Nhị Hiền, Tam Thiên
Đồ Đệ trùng
hợp với 72 vị hiền giả và 3.000 môn đệ của Đức Khổng Tử.
Có một số điều trong Tân Luật Cao Đài (phần Thế luật) về hôn
sự và tang tế liên quan đến Nho Tông như điều thứ 8, 14, 15, 17 và 18.
3. Về giáo lý
Giáo
lý Cao Đài được tổng hợp từ tinh túy của Tam Giáo, trong đó Nho Giáo làm nền tảng
cho Nhơn Đạo.
Tam Cang là ba mối quan hệ của đạo làm người: Vua tôi (nhà nước và nhân dân). Cha mẹ và con cái. Chồng và vợ.
Ngũ Thường là năm đức thường xuyên phải có của đạo làm người
trong đối nhơn xử thế: Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín.
Tam Tùng là ba bổn phận của phụ nữ: Còn ở nhà thì trọn hiếu với
cha mẹ, nghe theo cha mẹ giáo huấn. Kết hôn, theo chồng thì cư
xử trọn tình trọn nghĩa với chồng. Nếu chồng mất sớm thì lo
nuôi dạy con cái đến tuổi thành nhân. (Tại
gia tùng phụ, xuất giá tùng phu, phu tử tùng tử.)
Tứ Đức là bốn đức của người phụ nữ: Công (có một nghề thích hợp). Dung (dung mạo đoan trang). Ngôn (lời nói dịu dàng, từ tốn). Hạnh (phẩm hạnh thanh cao).
Ngoài
ra, trong phần hình nhi thượng của Nho Tông cũng được ứng dụng để bổ sung,
tương tác, đối chiếu với Phật Tông và Tiên Tông hầu thành tựu được Chơn Tông của
Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
*
Đức
Giác Minh Thánh Đức dạy:
Lần
trang Việt sử mà xem
Lạc Hồng
văn hiến trước thềm Đông phong
Nho
Tông nén đúc cõi lòng
Thống truyền mạch cả thông
dòng cổ kim
Vì đời vật chất nhiễm tiêm
Nhân luân xiêu đổ, ngọc chìm
cát pha
Ngày nay Trời mở Đạo nhà
Cho hồn Nam Việt tinh
ba kết thành.([14])
Vậy
ai sẽ là người có sứ mạng “nén đúc” tinh ba của quốc hồn, quốc túy để xây dựng
nền tảng Nho phong cho dân tộc và nhân loại? Chính là người tín hữu Cao Đài.
Bên
cạnh việc tu bồi Thiên Đạo giải thoát, mỗi người tín hữu Cao Đài còn có trách
nhiệm vun vén phần Nhơn Đạo bằng đường lối Nho Tông với lòng chí thành chí kỉnh.
Không
ngừng học tập kinh văn, thánh ngôn thánh giáo để luôn có ý thức về bổn phận làm
người đối với bản thân, gia đình và xã hội. Đó là chúng ta đã thành toàn được
vai trò Hưng ư Thi.
Dâng
trọn tâm hồn khi hành đại lễ hay cúng kính tứ thời; bảo tồn và phát huy âm nhạc
truyền thống dân tộc trong lễ tiết tôn giáo để tạo sự thông linh giữa Trời, người
và vạn vật thành một thể thống nhất trong một trật tự ổn định, thì việc hành xử
sẽ được chỉn chu trên hòa dưới thuận. Đó là chúng ta đã thành toàn được vai trò
Lập ư Lễ và Thành ư Nhạc.
Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ dựa vào đường lối Nho Tông để chuyển thế, để cải đổi cuộc đời
của từng cá nhân và xã hội trở nên thuần lương thiện mỹ. Nếu chưa trở nên được con
người thánh đức, xã hội thánh đức thì chí ít cũng không để cho nền luân lý đạo
đức bị xói mòn bởi dòng thác kinh tế thị trường
đang ào ạt tuôn đổ trên đất nước ngàn năm văn hiến nầy.
Truyền Trạng THANH CĂN
26-8 Nhâm Thìn (11-10-2012)
([5]) Những năm gần đây, có nhiều
cuộc hội thảo về Nho Giáo: Hội nghị quốc tế về Nho Giáo ở Hàn Quốc tại Đại Học Sung
Kuyn Kwan, Seoul, ngày 25 và 27-11-2010 với chủ đề Phục Hưng Nho Giáo Và Xã Hội Hiện Đại. Hội thảo khoa học quốc tế về chủ đề Nho Giáo Việt Nam Truyền Thống Và Đổi Mới ngày
05-9-2011 tại thành phố Huế do Viện Triết Học thuộc Viện Khoa Học Xã Hội
Việt Nam phối hợp với Viện Văn Triết thuộc Viện Nghiên Cứu Trung Ương Đài
Loan tổ chức. Hội thảo quốc tế về Nho Giáo Ở Việt Nam do Viện Nghiên Cứu Hán Nôm
và Viện Harvard-Yenching Hoa Kỳ phối hợp tổ chức ngày 17-12-2011 tại Hà Nội.