Bùi Giáng (1926-1998)
CHÀO NGUYÊN XUÂN
Xin
chào nhau giữa con đường
Mùa xuân
phía trước miên trường phía sau
Tóc xanh
dù có phai màu
Thì cây
xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng
Xin
chào nhau giữa lúc này
Có ngàn
năm đứng ngó cây cối và
Có trời
mây xuống lân la
Bên bờ
nước có bóng ta bên người
Xin
chào nhau giữa bàn tay
Có năm
ngón nhỏ phơi bày ngón con
Thưa rằng
những ngón thon thon
Chào nhau
một bận sẽ còn nhớ nhau
Xin
chào nhau giữa làn môi
Có hồng
tàn lệ khóc đời chửa cam
Thưa rằng
bạc mệnh xin kham
Giờ vui
bất tuyệt xin làm cỏ cây
Xin
chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có
bóng áng mây nghiêng đầu
Hỏi rằng
người ở quê đâu
Thưa rằng
tôi ở rất lâu quê nhà
Hỏi
rằng từ bước chân ra
Vì sao
thấy gió dàn xa dặm dài
Thưa rằng
nói nữa là sai
Mùa xuân
đương đợi bước ai đi vào
Hỏi
rằng đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu
nhĩ mà chào đón nhau
Thưa rằng
ly biệt mai sau
Là trùng
ngộ giữa hương màu Nguyên Xuân.
Trích tập thơ MƯA
NGUỒN
XUÂN ALISSA
Em nằm với lá trong cây
Bữa hôm nay mộng thấy ngày hôm qua
Môi cười ở cuối sân ga
Phố nào cố quận xưa là tiễn nhau
Lệ vàng xanh mắt mai sau
Chùm bông
tuyết mỏng pha màu vĩnh ly.
Bài thơ cảm đề của Bùi Giáng
khi dịch KHUNG CỬA HẸP (1966) từ tiểu thuyết LA PORTE ETROITE (1909) của André Gide (1869-1951).
*
Đọc CHÀO NGUYÊN XUÂN
LÊ
KHANG THÌN
Chào
Nguyên Xuân, mỗi câu như một vì sao, đan kết lại cũng vừa
vặn cho thành nhị thập bát tú. Bài thơ mở ra, sảng sốt đột ngột:
Xin
chào nhau giữa con đường
Mùa xuân phía trước miên trường phía
sau.
Ai chào ai đó? Và chào chi tha thiết thế?
Xin chào nhau giữa con đường…
Xin chào nhau giữa lúc này…
Xin chào nhau giữa bàn tay…
Xin chào nhau giữa làn môi…
Xin chào nhau giữa bụi đầy…
Gặp nhau giữa con đường ngẫu nhĩ tình cờ, chào nhau chi tha tha thiết
thiết, để rồi nhận lấy lời hồi đáp lạnh tanh:
Hỏi rằng đất trích chiêm bao
Sá gì ngẫu nhĩ mà chào đón nhau.
Cuộc tương phùng vốn đã tình cờ trong cõi mộng thì biết lấy chi chắc chắn
để hẹn ước trùng lai. Dẫu thế, cớ sao vẫn cứ ân cần trân trọng: Chào nhau một bận sẽ còn nhớ nhau.
Nhớ nhau? Nhớ người, nhớ ảnh, nhớ bóng, nhớ hình hay nhớ lời, nhớ tiếng?
Hay là nhớ cái-lẽ-ra-phải-nhớ mà không ai thèm nhớ vì đang còn bận nhớ chuyện
hư ảo chiêm bao?
Những câu hỏi cứ chậm rãi đặt ra. Để linh cảm một điều gì đó, la đà đâu
đây: Tóc xanh dù có phai màu …
Cái tiên đề đã là giả tạm phù du, và trong vô thường đó sẵn hàm tàng bạc
mệnh. Bạc mệnh đến nỗi: Có hồng tàn lệ
khóc đời chửa cam …
Nhưng cớ sao đọc mãi những lời bạc mệnh vẫn không nghe bi lụy, thảm thiết
mà lại hân nhiên, khinh khoái trong chút vui thầm tìm thấy?
Câu hỏi này xin hỏi riêng ta. Suy gẫm đi. Tại sao vui thầm, khinh khoái,
hân nhiên dù đã nhận ra chốn này là đất
trích chiêm bao, bạc mệnh, có hồng tàn lệ khóc đời chửa cam?
Đọc lại thơ. Chào Nguyên Xuân,
nhưng cơ hồ chẳng nói gì xuân. Thế rồi, cũng đột ngột như đã khởi đầu đột ngột,
thơ kết lời với hai chữ Nguyên Xuân
viết hoa trân trọng.
Thưa rằng ly biệt mai sau
Là trùng ngộ giữa hương màu Nguyên
Xuân.
Nguyên Xuân? Vốn không phải xuân đời, xuân cảnh. Cũng nào phải đâu xuân
của ba tháng bốn mùa. Vì xuân nhân thế tuần hoàn theo chu kỳ nhật nguyệt, còn
Nguyên Xuân là bờ bến vĩnh hằng.
Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh; Xuân, Hạ, Thu, Đông. Nguyên là lớn, là manh mối
nguồn đầu; Xuân cũng là phát khởi của sinh sôi nảy nở. Nguyên Xuân là cái lớn
của mọi cái lớn, là nguyên khởi của mọi khởi nguyên. Nguyên Xuân cũng là Cố
Quận, là Quê Nhà, là cái người xưa gượng kêu rằng… Đạo.
Cố quận. Hai chữ trầm trầm nặng nặng, mang mễ u linh trong biết bao vần
điệu của nhà thơ.
Ở Xuân
Alissa chẳng hạn:
Môi
cười ở cuối sân ga
Phố nào cố quận xưa là tiễn nhau.
Cố quận ấy, ở Chào Nguyên Xuân
là quê nhà, là áng mây:
Xin chào nhau giữa bụi đầy
Nhìn xa có bóng áng mây nghiêng đầu
Hỏi rằng người ở quê đâu
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà.
Con xa nhà nhớ quê, hồn gởi đám mây. Trông mây viễn xứ, nghĩ đến nhà cũ
phương xa, chạnh lòng thương quê cha đất tổ. Như Địch Nhân Kiệt, và như ai đó: Hồn quê theo ngọn mây tần xa xa …
Lìa cố quận vĩnh hằng, đi vào trần gian đất trích chiêm bao, là đi vào
giữa chốn bụi đầy, con người dấn mình vào cuộc lữ. Rồi một lần khách lữ dừng
chân: Xin chào nhau giữa con đường.
Dừng lại (chỉ) mà xem xét (quán). Bỗng thấy rằng quá khứ là vô minh với
giấc ngủ dài, họa chăng chỉ còn tương lai trước mặt: Mùa xuân phía trước miên trường phía sau.
Phản tỉnh, và sực tỉnh. Cái chốn bụi đầy – cũng gọi là đất trích chiêm
bao – cớ sao chập chùng nhị nguyên đối đãi. Vì đối đãi nên mâu thuẫn. Nếu đã
biết tóc xanh phai màu thì ai mới là
kẻ có ngàn năm đứng ngó cây cối?
Câu hỏi lại đặt ra, một khi ai kia cúi xuống, chợt thấy: Bên bờ nước có bóng ta bên người. Người
soi, nước in bóng. Người đi, bóng còn không?
Lại hỏi, nếu đất trích chiêm bao này là mặt nước gương soi, khách lữ đang
cuộc chơi hồng trần bụi cát là chiếc bóng, thì đâu là chơn thân thực tướng của
chiếc bóng?
Câu hỏi này dồn thêm vào một câu hỏi khác. Và đã… lỡ hỏi quá nhiều thì cứ
hỏi luôn câu nữa: Vậy nương bóng tìm Người thực được chăng? Tìm đâu?
Tìm trong cái nhị nguyên để đi tới nhất nguyên: Chấp tình cầu tánh, chấp
nhân cầu thiên, mượn giả tìm thực. Hiểu như thế nên mặc dầu biết đời bạc mệnh
mà nào dám đâu lìa bỏ cuộc đời, đành cam nhẫn nại chấp nhận cuộc đời, tìm trong
vô thường một niềm vui tuyệt đối vĩnh hằng:
Thưa rằng bạc mệnh xin kham
Giờ vui bất tuyệt xin làm cỏ cây.
Cỏ cây nhưng không phải là cây cỏ. Ta là người, sao làm thân cây cỏ? Khi
hòa đồng trong giờ vui bất tuyệt (thế gian này đâu có gì vui bất tuyệt!) tức là
tiểu ngã đã hòa cùng đại ngã. TAT TWAM ASI – Anh là Cái Ấy. Cỏ cây là một phần vũ trụ, con người đại ngã là con
người mà vũ trụ là mình, mình là vũ trụ, không còn đối kháng phân ly, thì làm
cỏ cây nào có sái quấy chi đâu. Cũng chính khi chứng ngộ được vũ trụ là mình,
mình là vũ trụ, thiên địa vạn vật nhất thể, thì dù có đi mòn bốn bể năm châu,
dù có từ bước chân ra, dù đã thấy gió dàn xa dặm dài… thì con người
vẫn cứ là con người ở tại Cố Quận từ muôn thuở đến giờ:
Hỏi rằng người ở quê đâu
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà.
Đi khắp thiên lý dặm trường mà vẫn không hề dời chân một mảy may xa rời
Cố Quận. Đó là ý nghĩa của Như Lai.
Hình ảnh thiên lý ra đi mà không lìa Cố Quận cũng được diễn bày khi này
khi khác rất ư phiêu diêu thi sĩ:
Tóc xanh dù có phai màu
Thì cây xanh vẫn cùng nhau hẹn rằng.
Áo Xanh, bài thứ tám trong Mưa Nguồn, có thể coi như một tóm tắt
cương yếu của Cố Quận Nguyên Xuân:
Lên mù sương xuống mù sương
Bước xa bờ cỏ xa đường thương yêu
Tuổi thơ em có buồn nhiều
Cũng xin hãy để bóng chiều bay qua
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh.
Chân lý là cái gì thật giản dị. Bậc đạt lý thì nói năng như vô lý. Có lẽ
vì vậy mà thi sĩ đôi khi nói dễ hiểu nhưng người duy lý không ai chịu hiểu. Lẽ
thường, không hiểu thì hỏi, nhưng … muốn biết trà ngon hoặc dở thì xin hãy uống
trà, đừng thắc mắc hỏi nhiều. Càng hỏi là càng duy lý mà Cố Quận là siêu việt
trên luận lý. Cho nên:
Hỏi rằng người ở quê đâu
Thưa rằng tôi ở rất lâu quê nhà.
Câu đáp vẫn là khó hiểu. Bèn hỏi nữa cho tới nơi:
Hỏi rằng từ bước chân ra
Vì sao thấy gió dàn xa dặm dài.
Thi sĩ trả lời:
Thưa rằng nói nữa là sai
Mùa xuân đương đợi bước ai đi vào.
Ta đọc lại thơ. Đến đây ngừng lại. Đi vào. Đi vào. Đi vào. Con đường lữ
thứ đã trót đi ra, thì hãy biết dừng lại, đi vào. Cũng là đi về, về với Cố
Quận, về với cái chỗ mà trước mọi cuộc chia tay, trước mọi lần ta lạc loài đất
trích, ta đã ở đó. Khi ấy, hình hài bổn lai diện mục ta ra thế nào, kính thưa
chư Bồ Tát?
LÊ KHANG THÌN