Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2016

ĐĐVU 06 / HỌC LẠI Ý NGHĨA NGŨ NGUYỆN / Trần Văn Quang

Image result for flower delivery
Mở đầu bài nói chuyện hôm nay, Ban Cai Quản chúng tôi xin nhấn mạnh hai chữ học lại.[1]
Nói học lại, vì phần đông chúng ta đều có hiểu biết ít nhiều về Ngũ Nguyện. Tuy nhiên, do lâu ngày không ôn luyện mà chúng ta không nhớ được trọn vẹn ý nghĩa Ngũ Nguyện. Bởi vậy, mặc dù chúng ta vẫn đọc Ngũ Nguyện ra rả bốn lần một ngày mà phần đông lại không làm đúng theo nội dung năm lời đại nguyện của mình trước Thiên Bàn.
Chúng ta đã quỳ trước Thiên Bàn và chính miệng mình đọc to lên năm lời đại nguyện trước Thầy Mẹ và các Đấng bốn lần một ngày, nhưng sau đó chúng ta không làm đúng theo đại nguyện. Vậy là chúng ta đắc tội trước luật Thiên điều rồi!
Ban Cai Quản chúng tôi nghĩ tới điều này mà sợ. Sợ cho bản thân mình và sợ giùm bổn đạo trong thánh thất Bàu Sen đang thuộc trách nhiệm của Ban Cai Quản là chăm sóc về mặt tu hành.
Thật ra, Ban Cai Quản chúng tôi cũng đang tu đang học như quý huynh tỷ, đệ muội. Chúng tôi cũng rất cố gắng vượt lên chính mình, ráng học hỏi để nâng cao trình độ bản thân, đồng thời đem ra chia sẻ với quý huynh tỷ, đệ muội.
Do đó, bài nói chuyện này đúng nghĩa là một cơ hội để chúng ta ôn học, chia sẻ với nhau lời Tiên tiếng Phật, ngõ hầu cùng nương tựa nhau đồng lòng tu tiến trong tinh thần đồng Thầy, đồng Đạo, đồng thánh thất.
Ban Cai Quản chúng tôi mạnh dạn nói với quý huynh tỷ, đệ muội như vậy bởi vì chúng tôi luôn luôn ghi nhớ lời Đức Vạn Hạnh Thiền Sư từ bi khuyến khích:
Hiểu một việc, làm một việc. Hiểu một đoạn đường nên dìu dẫn kẻ khác đi trên đoạn đường ấy. Hiểu một lời chơn lý, nên phổ truyền lời chơn lý ấy cho kẻ khác. Hiểu một quyển kinh, nên đem quyển kinh ấy phổ biến cho kẻ khác cùng hiểu.
Việc làm với tâm thành chí chánh chí chơn, vô tư kỷ tư lợi, đó là đã làm được việc đạo trong đời của mình rồi. Đừng bao giờ có mặc cảm rằng đợi học hỏi nghiên cứu cho cùng tận rồi mới đem phổ truyền cho kẻ khác.
Đạo pháp trường lưu, bao la lớn rộng, nào ai dám nói rằng mình đã hiểu rốt ráo, biết tận cùng, dầu đó là hàng Phật Tiên Thánh Thần, và các bậc ấy vẫn còn đang học đạo kia mà, nhưng vẫn hành đạo luôn luôn.” [2]
Sau đây chúng ta sẽ lần lượt ôn học với nhau sáu đề mục, là hai chữ Nam mô và năm câu nguyện.
1. NAM
Khi tụng Ngũ Nguyện, chúng ta bắt đầu bằng cách niệm nam mô.
Nam là gì?
 Chúng ta niệm nam mô để khởi đầu cho lời cầu nguyện. Thí dụ: Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Vì thế, sau này nhiều vị cao tăng Việt Nam đã dịch nam môkính lạy.
Nam còn được giảng là quy y.
Quy là trở về. Y là nương theo, dựa theo.
Vậy quy y nghĩa là trở về với chánh đạo, nương dựa vào chánh pháp để tu hành.
ƒ Nam còn được giảng là quy mạng hay quy mệnh.
Quy, như đã nói trên, nghĩa là trở về. Mạng (mệnh) là mạng sống của mình; còn có nghĩa là mạng lịnh của bề trên truyền xuống.
Tổng hợp ba ý nghĩa trên đây, chúng ta hiểu như sau:
Khi tụng Ngũ Nguyện, chúng ta khởi đầu bằng cách niệm nam mô, có nghĩa là:
 Chúng ta kính lạy Thầy Mẹ và các Đấng thiêng liêng chứng giám cho chúng ta đọc lời phát nguyện.
Chúng ta hứa xin nương theo chánh pháp để đọc Ngũ Nguyện.
ƒ Chúng ta hứa xin đem đời mình hướng về chánh pháp và vâng theo lời truyền dạy của Thầy Mẹ và các Đấng thiêng liêng để thực hành Ngũ Nguyện trong đời mình.
Nếu chúng ta hiểu sâu xa hai chữ Namnhư vậy, chúng ta đâu dám khinh lờn dể ngươi, đâu dám xem việc đọc Ngũ Nguyện như một “thủ tục” kết thúc thời cúng. Chúng ta càng không thể đọc Ngũ Nguyện như lời nói suông ở đầu môi chót lưỡi.
Vì vậy, để thực hành thật đúng Ngũ Nguyện, chúng ta nên hiểu rõ và ghi nhớ trong lòng ý nghĩa từng lời nguyện một.
2. NHỨT NGUYỆN ĐẠI ĐẠO HOẰNG KHAI
Hai chữ Đại Đạo trong lời nguyện này tức là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, mà nói gọn là đạo Cao Đài. Chúng ta nhớ rằng Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Lý Thái Bạch dạy như sau: “… đạo Cao Đài nói tắt, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ nói nguyên văn”.[3]
Vậy lời nguyện thứ nhứt là cầu xin cho đạo Cao Đài được mở mang rộng khắp, phát triển ra nhiều địa phương, ra khắp đất nước, ra cả bốn biển năm châu.
Khi nguyện như vậy chúng ta có ảo tưởng chăng?
Thưa không. Bởi vì hồi mới khai Đạo, Đức Chí Tôn đã tiên tri:
Một nước nhỏ nhen trong vạn quốc,
Ngày sau làm chủ mới là kỳ!
Nhưng nguyện lớn như vậy mà chúng ta có tạo điều kiện để bản thân mình đủ khả năng góp phần vào việc lớn là hoằng khai Đại Đạo không?
Nếu chúng ta không siêng lo tu học, không chăm chỉ trau giồi giáo lý cho thông suốt thì chúng ta đâu có thể hoằng khai Đại Đạo!
Chúng ta đừng nghĩ lầm rằng hoằng khai Đại Đạo là việc quá lớn, xin để dành phần cho các Đấng thiêng liêng trên Bạch Ngọc Kinh và phó thác hết cho các Hội Thánh, các vị đại Thiên ân chức sắc gánh vác.
Để thức tỉnh cho những ai còn có suy nghĩ không đúng ấy, Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy như sau:
“Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai, nhưng cứ ngồi khoanh tay chờ đợi quyền năng vô hình nào để đến hoằng khai cho mình.
(…) Thế Thiên hành đạo không phải chỉ ở hàng chức sắc, chức vụ phẩm vị cao, mà bất cứ ai có tâm thành vì Đạo, có nhận thức đạt được lý Đạo, đều có thể hoằng khai với bất cứ hình thức nào.” [4]
Đức Quan Âm Bồ Tát giảng dạy cho chúng ta hiểu thêm về câu Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai như sau:
“Thử hỏi hoằng khai là gì? Có phải phát triển, khai phóng, mở rộng từ cơ sở đến giáo lý cho quảng đại quần chúng hiểu biết và làm theo hay chăng? Chớ không có nghĩa là đóng khung trong hình thức nhỏ hẹp như một Hội Thánh, một thánh thất hoặc tịnh thất để cho một thiểu số người mà dám gọi là Đại Đạo hoằng khai.” [5]
Qua lời dạy của Đức Quan Âm Bồ Tát, chúng ta hiểu rằng hoằng khai Đại Đạo có một yếu tố rất quan trọng là đem giáo lý Cao Đài truyền rộng ra cho đại chúng, vượt ra ngoài khuôn khổ giới hạn của một Tòa Thánh, một Hội Thánh, một thánh thất hay thánh tịnh.
Dĩ nhiên, hoằng khai Đại Đạo được tới tầm mức như thế thật sự không dễ dàng, luôn gặp rất nhiều khó khăn trở ngại, nhiều chông gai, thậm chí là nguy hiểm nữa.
Do đó, chúng ta thấy Đức Khổng Tử, Đức Thích Ca, Đức Chúa… khi xưa truyền đạo đều bị kẻ dữ tìm cách hãm hại.
Thế nên, ngày nay chúng ta muốn hoằng khai Đại Đạo thì phải can đảm, giữ vững đức tin vào ơn soi dẫn, bảo bọc, che chở, hộ trì của Thầy Mẹ và các Đấng thiêng liêng. Chúng ta ghi nhớ lời dạy của Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn như sau:
Nhứt nguyện Đại Đạo hoằng khai
Vì đời nào ngại chông gai dữ lành.[6]
3. NHÌ NGUYỆN PHỔ ĐỘ CHÚNG SANH
 Hai chữ Phổ độ có ý nghĩa rất sâu xa.
Phổ là rộng khắp, tức là nói tới quy mô to tát, số lượng đông đảo. Độ là chở qua sông. Kinh sách dạy đời này là sông mê bể khổ. Đức Chí Tôn đem Đạo cứu đời, tức là đem chánh pháp làm con thuyền bát nhã chở chúng sanh vượt khỏi sông mê biển khổ, sang qua tới bờ bên kia là giải thoát.
Để đúng ý nghĩa phổ độ, con thuyền cứu độ phải rất lớn mới mong chở được số đông chúng sanh rời khỏi bến mê mà qua tới bến bờ giải thoát.
Hai chữ Chúng sanh trong lời nguyện này là con người ở chung quanh chúng ta. Hẹp là đồng đạo của mình; rộng hơn là đồng bào của mình, không phân biệt xu thế tín ngưỡng, màu sắc tôn giáo… Rộng hơn nữa là toàn thể nhơn loại.
Khi hiểu cặn kẽ như vậy, chúng ta càng thấm thía vì sao Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
“Nhì nguyện phổ độ chúng sanh. Phổ độ có nghĩa là mở rộng cùng khắp, độ rỗi chúng sanh tu thành chánh quả, không phân biệt màu da chủng tộc và tông phái, chớ không có nghĩa là chỉ nói đi nói lại bao nhiêu đó cho người tín hữu Cao Đài mà thôi.” [7]
Từ ý nghĩa này, suy ra chúng ta muốn làm được trọn vẹn việc phổ độ thì mình phải có khả năng rất nhiều, phải thông thạo giáo lý để giảng giải, thức tỉnh người khác. Nếu mình không chịu học hỏi giáo lý, chỉ bằng lòng với việc quỳ hương, cúng bái thì làm sao trọn nghĩa hai chữ phổ độ!
Phổ độ không phải chỉ bằng lời lẽ suông, mà phải cảm hóa người khác bằng tâm đạo chơn thành của mình. Như vậy, mình phải rèn tâm sửa tánh, phải biết tu thiền để có thần lực giúp cho lời giảng giải đạo lý của mình có sức mầu nhiệm cảm hóa người nghe.
Ngoài ra, nhờ tu thiền, mình còn có thể hồi hướng điển lành về cho bá tánh, hồi hướng cho những chúng sanh khuất mặt đang vất vưởng núp ở tàn cây ngọn cỏ chung quanh nhà mình, chung quanh thánh thất mình. Nhờ sự hồi hướng đó, bá tánh được an lành, vong linh khuất mặt cũng được dự phần tu học với mình mà mau siêu thoát.
Tóm lại, khi nguyện phổ độ chúng sanh, chúng ta vừa phải lo học giáo lý, lo tu thiền, vừa phải lo trau dồi tánh hạnh cho thành người hiền đức. Quả thật là khó khăn biết bao! Thế nên Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn khuyên chúng ta:
Nhì nguyện phổ độ chúng sanh,
Quyết đem hoằng hóa Đạo lành giáo dân.[8]
Quyết là quyết tâm vượt qua thói biếng lười, quyết tâm vượt qua khó khăn trở ngại. Có quyết tâm như vậy chúng ta mới siêng học giáo lý, siêng công phu thiền định, siêng rèn tâm sửa tánh theo Ngũ Giới Cấm và Tứ Đại Điều Quy.
Ơn Trên thấy chúng ta miệng đọc Nhì nguyện phổ độ chúng sanh mà làm không đúng nên nhiều lần từ bi khuyên dạy. Chẳng hạn, Đức Đông Phương Chưởng Quản nhắc nhở:
“Nhì nguyện phổ độ chúng sanh, nhưng cứ thu hình trong cái vỏ ốc ích kỷ ngàn đời và chờ đến phép mầu vô lượng nào đó để đến cứu rỗi mình.” [9]
Tức là chúng ta nguyện phổ độ, nhưng thờ ơ thụ động, và cứ “khoán trắng” chuyện phổ độ cho Ơn Trên! Thầy dạy chúng ta Thiên nhơn hiệp nhứt; vì vậy ta phải ý thức và chủ động cộng tác với Trời Phật Tiên Thánh để phổ độ chúng sanh.
Trong sự phổ độ có bao gồm ý nghĩa phổ thông, phổ truyền giáo lý để giác ngộ cho người khác. Thế nhưng chúng ta không cố gắng chăm chỉ học giáo lý thì làm sao phổ thông giáo lý!
Có người lại vin vào lý do mình chỉ là một tín đồ nhỏ bé nên không có quyền gì tham gia vào việc phổ thông giáo lý. Suy nghĩ này không đúng, bởi lẽ Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh khuyên dạy:
“Còn sự phổ thông giáo lý Đại Đạo cũng không dành riêng cho lớp người nào. Ai cũng có thể làm được, miễn là hiểu được đường lối, mục đích và chủ trương cao cả của nó. Việc làm này không luận là lớn tuổi, nhỏ tuổi, không luận là Hội Thánh hay Tòa Thánh, cũng không luận là có đạo nhiều năm hay người mới vào, ít tuổi đạo. Nó đã đến, đang đến và sẽ đến với những ai am tường Thiên ý, học hỏi đạo lý, tận tụy phổ thông, say sưa truyền bá.” [10]
Nếu chúng ta tuân theo lời dạy của Đức Giáo Tông, mỗi tín đồ đều cố gắng học cho thông giáo lý, thì một thánh thất có vài trăm tín đồ tương đương với vài trăm người nhiệt thành lo phổ thông giáo lý. Nếu tất cả mọi thánh thất, thánh tịnh ở đâu cũng đều làm được như thế, chắc chắn câu Nhì nguyện phổ độ chúng sanh sẽ mau kết quả.
4. TAM NGUYỆN XÁ TỘI ĐỆ TỬ
Đệ tử là học trò. Chúng ta tự xưng mình là đệ tử trước Thầy Mẹ và các Đấng thiêng liêng. Do đó lời nguyện thứ ba nhắm vào bản thân mình.
Mình xin Ơn Trên xá tội cho mình, tức là đã thú nhận mình có tội. Vậy mình đã gây nên những tội gì mà cầu xin được tha tội?
Thông thường chúng ta quen đọc câu nguyện thứ ba như máy, tức là đọc mà không thèm suy nghĩ, không thèm ý thức tự hỏi lương tâm xem mình đã phạm những tội gì.
Nếu mình không nhận ra mình đã phạm tội gì thì làm sao Ơn Trên xá tội cho mình được!
Cho nên mỗi ngày có bốn lần cúng thời là bốn lần mình xin xá tội, nhưng cụ thể là những tội gì thì mình… mơ hồ! Rốt cuộc ngày nào mình cũng xin xá tội mà tội vẫn không hết, và cứ lặp đi lặp lại tội lỗi của mình hoài.
Muốn biết trong ngày mình đã phạm lỗi gì thật ra không khó. Chúng ta cứ thành tâm kiểm điểm bản thân, lấy Ngũ Giới Cấm và Tứ Đại Điều Quy ra làm chuẩn thì sẽ thấy ngay tội lỗi của mình.
Bản thân mình có tội nhưng mình rất dễ rộng lượng tự tha thứ, tự khoan dung cho mình. Bằng cớ là mình đâu có thèm nhớ xem mình đã phạm tội gì. Vì vậy mình không hề thấy lương tâm cắn rứt, xấu hổ, ăn năn.
Ngược lại, mình rất nghiêm khắc với lỗi lầm của người khác. Mình ghim sâu vào lòng dạ những gì mà người khác đã làm cho mình buồn khổ, giận hờn…
Cho nên câu nguyện thứ ba còn có ý nghĩa sâu xa là mình biết xin xá tội cho bản thân thì đồng thời cũng phải biết hỷ xả, tha thứ cho người khác.
Kinh Thánh chép lời Chúa Giêsu dạy như sau:
“Thật vậy, nếu anh em tha lỗi cho người ta, thì Cha anh em trên trời cũng sẽ tha thứ cho anh em. Nhưng nếu anh em không tha thứ cho người ta, thì Cha anh em cũng sẽ không tha lỗi cho anh em.” (Matthêu 6:14-15)
Ngày nay, Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy chúng ta không khác hơn lời Chúa:
“Tam nguyện xá tội đệ tử, nhưng cứ cố chấp những lỗi lầm sơ suất của kẻ dưới, bề trên và đồng đạo chung quanh…” [11]
“Câu thứ ba [Tam nguyện xá tội đệ tử] là đối với tất cả mọi người chung quanh mình, từ trên tới dưới, từ lớn tới nhỏ, đều sẵn sàng khoan dung tha thứ, dù ai gây lỗi với mình cũng vậy.
Một khi biết cầu khẩn Đấng Chí Tôn tha thứ lỗi lầm của mình, thì mình hãy thể theo lòng từ ái của Ngài để tha thứ anh em, chị em của mình tại thế gian. Vì thế gian không phải là một cõi hoàn toàn thánh thiện, nên lắm điều còn ô trược, tránh sao những vấp phải lỗi lầm hoặc nhiều hay ít cũng vậy.” [12]
Tương tự như thế, Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
“Tam nguyện xá tội đệ tử. (…) Trải qua nhiều kiếp, con người đã gây nhiều nghiệp xấu, mà nghiệp xấu tức là tội lỗi. Do đó, trước Thiên Bàn, gần mãn giờ cúng, cầu xin Thượng Đế giải trừ tội lỗi nghiệp chướng tiền khiên, và người tín hữu cũng phải có đức độ khoan dung tha thứ mọi lỗi lầm của kẻ khác đối với mình để thể hiện lòng bác ái vô biên của Thượng Đế. Mình có tha thứ kẻ khác lầm lỗi với mình để thân thiện, giác ngộ, dìu dẫn họ lại đường chánh giáo thì Thượng Đế mới xá lỗi tiền khiên của mình.” [13]
Tất cả những ý nghĩa sâu xa trong lời nguyện thứ ba được Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn tóm tắt như sau:
Tam nguyện xá tội bản thân,
Khoan dung phá chấp cõi trần vô minh.[14]
Thời gian đã qua, trong họ đạo chúng ta, giữa anh chị em chúng ta và Ban Cai Quản chắc chắn đã vì lý do này hay lý do khác, hoặc cố ý hay vô tình, chúng ta đã từng gây phiền não, buồn bực, hờn giận cho nhau, và trách cứ lẫn nhau. Chúng ta phải tự thấy xấu hổ vì tánh tình phàm tục này.
Thôi thì hôm nay, nhân dịp ôn học Ngũ Nguyện, thực hành lời dạy của các Đấng thiêng liêng, Ban Cai Quản chúng tôi chân thành cầu xin quý huynh tỷ, đệ muội cũng rộng lòng hỷ xả, chúng ta hãy cùng tha thứ lỗi lầm cho nhau để làm đẹp lòng Thầy Mẹ và các Đấng.
5. TỨ NGUYỆN THIÊN HẠ THÁI BÌNH
Hai chữ thiên hạ có nghĩa là con người đang sống chung quanh ta, đang sống trong xã hội, đang sống trên cõi đời này.
Ngày hôm nay, thế giới đang nóng lên vì khủng bố, vì tranh giành quyền lợi tài nguyên thiên nhiên, tranh giành lãnh thổ…
Ngoài cái đau khổ vì nạn đói nghèo, ô nhiễm môi trường toàn cầu, dịch bệnh lây lan, khủng hoảng kinh tế, thế giới ngày nay còn đang bị đe dọa vì nguy cơ xảy ra một cuộc chiến tranh thế giới thứ ba với mức độ tàn khốc đủ sức tiêu diệt toàn nhân loại.
Cho nên câu nguyện thứ tư thể hiện lòng từ bi bác ái của người tu. Miễn là chúng ta phải dâng hết tâm thành cầu nguyện, chớ không đọc suông như cái máy vô hồn, vô cảm.
Thiên hạ không thể tự dưng mà thái bình được nếu lòng người vẫn còn đầy ắp tham lam giành giật, mạnh được yếu thua. Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:
“Hỏi vậy con người nhiều dục vọng tham lam như thế, nội tâm có được thái bình chăng? Dĩ nhiên là không vậy!”.[15]
Cho nên muốn câu nguyện thứ tư thành tựu, lại phải nhờ đến chức năng giáo hóa của chánh pháp, của tôn giáo. Tức là phải nhờ vào Nhì nguyện phổ độ chúng sanh để hoán cải lòng tham dục của con người.
Đức Quan Âm Bồ Tát dạy về sự tương quan giữa câu nguyện thứ nhì và thứ tư như sau:
“Muốn được thái bình, trước nhất mọi người phải lương thiện, có đức tánh công bằng của Nho Giáo – những gì mình không muốn thì không làm việc ấy cho người khác;[16] có đức tánh bác ái của đạo Lão là lòng thương đời vô biên, không điều kiện, mong dìu dẫn họ lại đường chánh lẽ chơn, thương mọi người như thương gia đình quyến thuộc mình, dầu kẻ ấy là thù địch với mình; có đức từ bi của đạo Phật, luôn luôn khởi lòng trắc ẩn trước nỗi đau khổ của người khác mà tìm phương ban vui cứu khổ cho họ. (...)
Những giáo lý do Chí Tôn đã vạch sẵn thì người đạo Cao Đài hãy đem phổ truyền cùng khắp, tìm cách cảm hóa, phổ độ người đời biết được (...). Đó là điều kiện đem lại thiên hạ thái bình. Chớ trong lúc nhân sanh chưa hiểu đạo, chưa có công bằng, chưa có lòng thương kẻ khác, một xã hội toàn đa số là người bất lương, giàu hiếp nghèo, mạnh lấn yếu, ỷ chúng hiếp cô, khôn hiếp dại, điêu ngoa xảo trá, xây dựng vinh hoa phú quý trên cảnh đau khổ cùng đinh và xương máu của kẻ khác, thử hỏi xã hội như vậy có đem lại được cảnh thái bình cho thiên hạ không? Đó là câu nguyện thứ tư, nhắc đến nhiệm vụ nặng nề căn bản của người tín hữu Cao Đài.” [17]
Tóm tắt ý nghĩa sâu xa của lời nguyện thứ tư, Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:
Tứ nguyện thiên hạ thái bình,
Tịnh tâm chế động muôn nghìn trái oan.[18]
6. NGŨ NGUYỆN THÁNH THẤT AN NINH
Có nơi là thánh tịnh, bổn đạo ở đó sửa câu nguyện thứ năm là Ngũ nguyện thánh tịnh an ninh!
Chúng ta đừng nghĩ thánh thất theo nghĩa hẹp. Nếu hiểu đúng nghĩa sâu xa của hai chữ thánh thất thì không ai dám sửa lời nguyện chót cả.
Đức Quan Âm Bồ Tát dạy:
“... Ngũ nguyện thánh thất an ninh. Thánh thất nơi đây không có nghĩa nhỏ hẹp riêng của ngôi thánh thể thờ Đức Chí Tôn, gồm Bát Quái Đài, Cửu Trùng Đài và Hiệp Thiên Đài. Ngoài cái nghĩa nhỏ hẹp ấy lại còn có nghĩa rộng hơn nữa.
Thánh thất là nhà Thánh. Hễ nhà Thánh là nhà của chư Thánh hội họp, thảo luận mọi việc theo thánh ý để hành thánh sự đúng theo tôn chỉ Đại Đạo.
Đừng tưởng rằng mình còn phàm trần nhục thể không khi nào dám nghĩ đến nghĩa ấy. Vì người tín hữu mà hằng ngày thảo luận, âu lo việc làm theo thánh ý, mở mang được thánh tâm để thực hành được thánh sự, đó là Thánh ti phàm rồi còn gì nữa.
(...) Chỉ e rằng mình ở trong nhà Thánh, nhưng ý còn phàm phu tục tử, hờn giận ghen ghét đố kỵ, ố nhơn thắng kỷ,[19] nói việc chẳng lành, làm việc chẳng lành, như vậy mới không xứng đáng là chớ.” [20]
Tóm lại, khi nguyện thánh thất an ninh, chúng ta đừng làm cho thánh sở của mình trở thành chợ đời, cũng lăng xăng điên đảo như thế gian. Vào thánh thất thì ráng kềm tánh phàm và sửa đổi cho nên đức hạnh.
Giả sử chúng ta phổ độ được một người mới vào đạo, nhưng vị tân đạo hữu đó bước vào thánh thất của mình lại thất vọng vì thấy thánh thất cứ xào xáo, người đạo cũng cư xử lôi thôi y như người đời chưa biết tu, chắc chắn vị tân đạo hữu sẽ chán nản, xa rời thánh thất, lần hồi bỏ đạo… Như thế chúng ta có tội biết bao!
Chúng ta thấy câu nguyện thứ năm và thứ tư có quan hệ với nhau.
Thiên hạ thái bình là quy mô lớn. Phạm vi nhỏ hơn là thánh thất an ninh. Muốn thiên hạ thái bình mà mình lại không kềm giữ tánh phàm tục, cứ làm cho thánh thất mất an ninh thì còn mong thiên hạ thái bình sao được!
Chúng ta thấy, chỉ vì thiếu hiểu biết giáo lý mà người đạo tu hành không đúng đạo lý, rồi còn tùy tiện canh cải sửa đổi câu nguyện thứ năm theo ý riêng.
Do đó, căn bản phải là thường xuyên học tập giáo lý. Điều này trong Tân Luật đã buộc mỗi họ đạo, tức là mỗi thánh thất, thánh tịnh phải thi hành cho bổn đạo. Làm được như vậy tức là góp phần thực hiện Ngũ Nguyện.
Suốt thời gian câu chuyện sáng nay, chúng ta đều hiểu rằng Ngũ Nguyện liên quan tới việc học hỏi giáo lý và phổ thông giáo lý. Thế nên, chúng ta không ngạc nhiên khi nghe Đức Như Ý Đạo Thoàn Chơn Nhơn dạy:
Ngũ nguyện thánh thất bằng an,
Hai ngày sóc vọng đăng đàn thuyết minh,
Trấn an tâm đạo nhân sinh,
Vai trò un đúc đức tin đạo đồng.[21]
Thánh thất chúng ta nhỏ bé, nhưng nhiều năm qua chúng ta vẫn liên tục duy trì mỗi tháng hai buổi thuyết minh giáo lý vào hai ngày sóc vọng. Đó là chúng ta đang thực hành đúng Ngũ Nguyện.
Năm năm qua thánh thất chúng ta là một điểm phát hành kinh sách ấn tống trợ giúp đồng đạo thuộc các Hội Thánh, Tòa Thánh, thánh thất, thánh tịnh khác trong cả nước cùng có điều kiện trau dồi giáo lý, phổ thông phổ truyền giáo lý. Đó là chúng ta cũng đang thực hành đúng Ngũ Nguyện.
Thánh thất chúng ta nhỏ bé, nhưng từ ngày có Chương Trình Ấn Tống, chúng ta liên giao hành đạo với các tôn giáo bạn. Đặc biệt hơn cả, mỗi khi các vị bên Công Giáo muốn tìm hiểu đạo Cao Đài, các vị ấy thường đến thăm thánh thất chúng ta. Nhờ vậy, chúng ta càng thắt chặt thêm tình thân ái liên tôn, tức là chúng ta đang làm đúng theo lời dạy của Đức Giáo Tông Lý Thái Bạch:
Chỉ có Đạo tơ vương cột mối,
Cùng đó đây bắc nối nhịp cầu,
Đừng phân chi phái sắc màu,
Hãy nhìn vạn giáo cùng nhau một đường.[22]
Vì thế Ban Cai Quản xin quý huynh tỷ, đệ muội, tất cả anh chị em chúng ta hãy ráng tập thương nhau, ráng hàn gắn tình cảm với nhau, để cùng nhau chung tay chung lòng chung sức phát huy những điểm son của thánh thất.Nhận định như vậy không phải để họ đạo chúng ta tự mãn hay tự phụ rồi mắc sai lầm. Nhưng cần nhận định như thế để chúng ta vui, vì biết thánh thất chúng ta tuy chưa được hoàn hảo nhưng ít ra cũng không quá tệ, và tất cả chúng ta hãy xiết chặt tay nhau cùng ra sức cố gắng hơn nữa, cố gắng không ngừng.
Chúng ta hãy khoan dung, hỷ xả với nhau để làm một lễ phẩm xứng đáng nhứt kính dâng lên Thầy Mẹ và các Đấng thiêng liêng. Ban Cai Quản xin chân thành cảm ơn tất cả quý huynh tỷ, đệ muội.
TRẦN VĂN QUANG
Phó Hội Trưởng thánh thất Bàu Sen



[1] Bài nói chuyện ngày 01-3 Quý Tỵ (10-4-2013) tại thánh thất Bàu Sen.
[2] Minh Lý Thánh Hội, 01-8 Kỷ Dậu (12-9-1969).
[3] Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 15-01 Tân Hợi (10-02-1971).
[4] Trúc Lâm Thiền Điện, 17 rạng 18-7 Canh Tuất (18-8-1970).
[5] Thánh thất Tây Thành (Cần Thơ), 12-3 Kỷ Dậu (28-4-1969).
[6] Vĩnh Nguyên Tự, 15-3 Bính Thìn.
[7] Thánh thất Tây Thành (Cần Thơ), 12-3 Kỷ Dậu (28-4-1969).
[8] Vĩnh Nguyên Tự, 15-3 Bính Thìn.
[9] Trúc Lâm Thiền Điện, 17-7 Canh Tuất (18-8-1970).
[10] Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-7 Bính Ngọ (20-8-1967).
[11] Trúc Lâm Thiền Điện, 17 rạng 18-7 Canh Tuất (18-8-1970).
[12] Trúc Lâm Thiền Điện, 17 rạng 18-7 Canh Tuất (18-8-1970).
[13] Thánh thất Tây Thành (Cần Thơ), 12-3 Kỷ Dậu (28-4-1969).
[14] Vĩnh Nguyên Tự, Ngọ thời, 15-3 Bính Thìn.
[15] Trúc Lâm Thiền Điện, 17 rạng 18-7 Canh Tuất (18-8-1970).
[16] Đức Khổng Tử dạy: “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân.”
[17] Thánh thất Tây Thành (Cần Thơ), 12-3 Kỷ Dậu (28-4-1969).
[18] Vĩnh Nguyên Tự, 15-3 Bính Thìn.
[19] Ố nhơn thắng kỷ: Ghét người khác giỏi hơn mình.
[20] Thánh thất Tây Thành (Cần Thơ), 12-3 Kỷ Dậu (28-4-1969).
[21] Vĩnh Nguyên Tự, 15-3 Bính Thìn.
[22] Thiên Lý Đàn, 30-02 Ất Tỵ (01-4-1965).