Một số đạo hữu hỏi lý do vì sao trong
kinh sách có những thuật ngữ như 般若 thay vì đọc ban nhược lại
đọc là bát nhã, và 淨土 thay vì đọc tịnh thổ lại đọc là tịnh độ. Để có câu trả lời chân xác về
học thuật, Văn Uyển trân trọng mời
quý đạo hữu đọc bài viết của nhà nghiên cứu TRẦN VĂN CHÁNH – soạn giả nhiều
từ điển chữ Hán, sách tự học chữ Hán và ngữ pháp chữ Hán…
|
GIỚI THIỆU VẤN ĐỀ
Người Việt Nam ta tuy theo
đòi học tập chữ Hán đã có thâm niên, nhưng với phương pháp phiên thiết 反切 thông dụng để đọc chữ
Hán, trước nay dường như người ta cũng ít khi để ý biết tới. Phiên thiết là cách hướng dẫn đọc chữ Hán truyền thống của
các từ thư [1] cổ Trung Quốc,
đại khái lấy hai chữ đã biết đọc láy lại sẽ cho ra âm của chữ thứ ba, như ĐÔNG
= ĐỨC + HỒNG thiết (lấy phụ âm đầu Đ của chữ ĐỨC đọc nối với vần ÔNG của chữ
HỒNG ở sau).
Nguyên nhân sâu xa có
lẽ là do các nhà Nho Việt Nam
thời trước có óc thực tế, họ ít chú trọng việc nghiên cứu ngữ âm, mà chỉ quan
tâm đến ngữ nghĩa của các chữ Hán. Vả lại, trong thời phong kiến, phần lớn
những sách vở nhà Nho Việt Nam tiếp xúc đều là sách văn chương, lịch sử, sách
dạy chủ yếu có Tứ Thư, Ngũ Kinh, Nhất Thiên Tự, Tam
Thiên Tự, Ngũ Thiên Tự, Sơ Học Vấn Tân, Ấu Học Ngũ Ngôn
Thi, Tam Tự Kinh, Minh Tâm Bảo Giám, Đường Thi, Bắc Sử...;
họa hoằn lắm mới có người đọc đến các sách toán pháp, nông học…, nhưng trong
tất cả các loại dù thuộc văn chương hay khoa học, phần lớn đều chỉ chứa đựng
những chữ Hán thông dụng đã có cách đọc ổn định, theo kiểu truyền
đời / truyền thống (như các chữ nhất, nhị, tam, nhân,
giang, sơn, thủy, khổng, tử...). Chúng ta
ngày nay thật khó xác định trong các thầy dạy chữ thời trước, từ tiểu học đến
đại học, có tỷ lệ chừng bao nhiêu thầy sở hữu được một bộ Khang Hy Tự Điển
là bộ tự điển rất mạnh về mặt chú âm theo phương pháp phiên thiết?
Theo ông Nguyễn Hiến Lê (1912-1984), “Các nhà Nho thời xưa khi dạy
học, không chỉ rõ ràng cách phiên âm trong các tự điển Trung Hoa, và nhiều khi
ta thấy hai nhà phiên âm khác nhau, do đó cùng một chữ mà đọc hơi khác nhau.”
[2]
Trên đây là lý do chủ
yếu khiến nảy sinh tình trạng cùng một chữ Hán mà lại có hai ba cách đọc khác
nhau, kể cả đối với hai bộ tự điển / từ điển Hán Việt
được thông dụng lâu đời nhất của Đào Duy Anh (ĐDA, 1904-1988) xuất bản năm 1931,
và của Thiều Chửu (TC, 1902-1954) xuất bản năm 1942. Hai
bộ tự điển / từ điển này, như ta đã biết, tuy có công rất lớn
đối với việc học tập chữ Hán của hậu thế, vẫn còn một số mặt hạn chế, đặc biệt
về phương diện ngữ âm. Ưu điểm lớn của tự điển TC là vừa có chú ý đến âm Hán
Việt đọc theo phiên thiết vừa nêu ra được những âm quen dùng; còn khuyết điểm
chính của nó là do tác giả người gốc Bắc (sinh tại Hà Nội) nên không phân biệt
các phụ âm đầu ch với tr, thành ra thường đọc lẫn lộn giữa các âm
chấn và trấn, chí và trí, chiết và triết,
chu và tru..., đọc Chiết Giang thành Triết Giang…
Cùng một chữ Hán mà từ điển ĐDA đọc khác với tự điển TC, là hiện tượng khá
thường xảy ra. Trong trường hợp có mâu thuẫn thế này, theo tôi có thể rất nên
dùng phương pháp phiên thiết để quyết định một âm chuẩn duy nhất, nếu không sẽ
để xảy ra tình trạng lộn xộn về sau thêm nữa.
Theo sự hiểu biết của tôi, ở Việt Nam, mãi đến năm 1962 mới
có ông Lê Ngọc Trụ (1909-1979) viết bài “Lối
Đọc Chữ Hán”,[3] trình bày vấn đề một
cách khá rành rọt, mà sau ông Nguyễn Hiến Lê có tham khảo, tóm tắt lại để hướng
dẫn cho những người trẻ học chữ Hán, in trong phần phụ lục “Cách Đọc Chữ Hán”
đặt phía sau quyển Tự Học – Một Nhu Cầu Thời Đại của ông.
MỘT SỐ TRƯỜNG HỢP PHÁT ÂM SAI (?)
Trong tiếng Hán Việt thông thường, chúng ta thấy khá phổ biến
một số trường hợp dị biệt, không thống nhất nhau về âm đọc, hoặc có tính bất
thường trong cách phát âm (sẽ nói rõ hơn ở đoạn sau). Nguyên nhân có thể là do
những người Việt đầu tiên khi gặp những chữ Hán thuộc loại này, nhất là những
chữ đối với họ thời đó là mới, đã phát âm không theo một tiêu chuẩn nhất định
nào (như phương pháp phiên thiết chẳng hạn), mà phần nhiều chỉ dựa vào các yếu
tố hài thanh (bộ phận chỉ âm) trong chữ muốn đọc rồi đọc theo một hoặc nhiều
chữ đã biết trước đó mà có yếu tố hài thanh tương tự.
Dưới đây là một số trường hợp tương đối thường gặp, tôi nêu
lên những chữ Hán đã có âm đọc theo thói quen truyền thống, rồi so sánh với
cách đọc khác theo phiên thiết, cho từng chữ một:
- Âu đả 毆打
[ōudá] quen đọc thành ấu đả, ẩu đả.
- Bồ phục 匍匐
[púfú] quen đọc thành bồ bặc. Chữ 匐 [fú]
(PHÒNG + LỤC thiết, âm 服, NHẬP thanh, ỐC vận, PHỤNG tổ) phải đọc phục; ĐDA và TC đều thống nhất ghi âm bồ bặc (bò trên đất; gấp rút, hết sức).
- Bộc dạ 僕射
[púyè] quen đọc thành bộc xạ (một chức
quan võ thời cổ).
- Cật
吃 [chī] trước đọc [jī], (CƯ + KHẤT thiết, NHẬP
thanh, NGẬT vận, KIẾN tổ) quen đọc thành ngật
(ăn). Chữ này ĐDA ghi âm ngật, TC
ghi cật có cơ sở hơn.
- Chư
Cát Lượng 諸葛亮
[zhūgěliàng] quen đọc thành Gia Cát Lượng.
Chữ 諸 [zhū] (CHƯƠNG + NGƯ thiết, BÌNH thanh, NGƯ vận,
CHIẾU tam tổ) lẽ ra phải đọc chư. ĐDA
cũng đọc chư nhưng có thêm âm gia ở trên mục từ Gia Cát Lượng. Không ai giải thích được âm gia này do đâu mà có nhưng người Việt Nam chỉ nói Khổng Minh Gia
Cát Lượng chứ không ai nói Khổng Minh Chư Cát Lượng.
- Để
跳 [tiào] quen đọc thành khiêu. Chữ 跳 [tiào] (ĐỒ + LIỄU
thiết, THƯỢNG thanh, TIỂU vận, ĐỊNH tổ) lẽ ra phải đọc điểu hoặc điễu (nhảy).
- Hải
giáp 海峽 (eo
biển), lẽ ra phải đọc hải hiệp
[hǎixiá], vì chữ 峽 [xiá] (HẦU +
GIÁP thiết, âm 狹, NHẬP thanh, HIỆP
vận, HẠP tổ) đọc hạp hay hiệp. Chữ này TC ghi hai âm hạp và giáp, nhưng chú thêm có nơi đọc
là chữ ‘giáp’. Các nhà chú giải sách cổ thời trước thường viết Vu Sơn, Vu
Giáp thay vì Vu Sơn, Vu Hiệp...
- Hại
hậu 邂逅
(cũng viết 邂遘, 邂覯, 邂后)
[xièhòu] quen đọc thành giải cấu (tình
cờ gặp). Chữ 邂 [xiè] (HỒ + GIẢ thiết, KHỨ thanh, QUÁI vận, HẠP
tổ) lẽ ra phải đọc hại, còn chữ 逅 [hòu] (HỒ + CẤU thiết, âm 候, KHỨ thanh, HẬU vận, HẠP tổ) đọc hậu. ĐDA, TC và các từ điển tiếng Việt,
các sách chú giải văn học khác đều đọc giải
cấu. Nhóm Vương Lực trong Vương Lực Cổ Hán Ngữ Tự Điển (tr. 1460) cho đây là một từ song thanh liên miên tự (tương tự từ láy
trong tiếng Việt), nên đọc hại hậu là
có sơ sở hơn về mặt ngữ âm.
- Hồ
thương 壺觴 [húshāng] đọc thành hồ trường (chén uống rượu). Chữ 觴 [shāng] TC ghi âm thương
nhưng có nói thêm ta quen đọc là chữ ‘tràng’. Ông Nguyễn Bá Trác (1881-1945)
dịch thơ cổ Trung Quốc viết là hồ trường
nên từ đó về sau người ta cứ nói theo bài thơ dịch của Nguyễn Bá Trác.[5]
- Liễm
臉 [liǎn] quen đọc thành kiểm (gò má, mặt).[7] Chữ 臉 phải đọc liễm
[liǎn] (LỰC + GIẢM thiết, THƯỢNG thanh, LIÊM vận, LAI tổ). ĐDA ghi âm kiểm, TC ghi ba âm kiểm, liệm, và thiểm.
- Đai
呆 [dāi] (ĐÁI bình thanh), còn có âm ngai [ái] (âm 皚) quen đọc thành ngốc (ngu ngốc).
- Phũ
bại 腐敗
[fǔbài] quen đọc thành hủ bại. Chữ 腐 [fǔ] (PHÙ + VŨ thiết, THƯỢNG thanh, NGU vận,
PHỤNG tổ), phải đọc phũ, nhưng cả ĐDA
và TC đều ghi âm hủ. Đây là một tình
trạng gần như không thể sửa đổi, vì người Việt Nam đã quen nói hủ bại, hủ
nho, đậu hủ..., chứ không ai nói phũ bại, phũ nho, đậu
phũ... (mặc dù đọc phũ thì có lý do hơn để giải thích tại sao lại có
từ đậu phụ tức tàu hủ...).
- Tây Tương Ký 西廂記 [xīxiāngjì] quen đọc thành
Tây Sương Ký. Chữ 廂 [xiāng] (TỨ + LƯƠNG thiết,
âm 相, BÌNH thanh, DƯƠNG vận, TÂM tổ) lẽ ra phải đọc tương.
Chữ này ĐDA đọc đúng là tương, đến TC lại đọc thành sương. Hay là
TC bị ảnh hưởng bản dịch Tây Sương Ký [8] của Nhượng Tống (1904-1949)? Giáo sư Dương Quảng Hàm (1898-1946) trong Việt
Nam Văn Học Sử Yếu cũng đọc Tây Sương Ký.[9]
- Thủy Hổ Truyện 水滸傳 [shuǐhǔzhuàn] quen đọc thành Thủy Hử Truyện.[10] Chữ 滸 [hǔ] (HÔ + CỔ thiết, THƯỢNG thanh, MỖ vận, HIỂU tổ)
lẽ ra phải đọc hổ.
- Tri tru 蜘蛛 [zhīzhū] quen đọc
thành tri thù (con nhện), trong khi chữ 蛛 [zhū] (TRẮC + LUÂN
thiết, BÌNH thanh, NGU vận, TRI tổ) phải đọc tru. Vả lại 蜘蛛 (tri tru) là hai chữ song thanh, nên không thể đọc thù.
TC ghi cả hai âm thù và chu (vì đọc theo giọng Bắc nên không phân
biệt phụ âm đầu ch- và tr-); còn ĐDA chỉ ghi âm thù là
hoàn toàn theo thói quen (do có phần hài thanh giống với những chữ thù
khác như 侏, 殊, 洙, 茱...).
- Triệu Khuông Dấn 趙匡胤 [zhàokuāngyìn] quen đọc thành Triệu Khuông Dận hay Triệu
Khuông Dẫn,[11] trong
khi chữ 胤 [yìn] (DƯƠNG + TẤN thiết, KHỨ thanh, CHẤN vận, DỤ
tứ tổ) lẽ ra phải đọc dấn. ĐDA và TC đều đọc dận.
- Truân triên 迍邅 [zhūnzhān] quen đọc
thành truân chiên hay truân chuyên (khốn khổ, lận đận, lao đao),[12] trong
khi chữ 邅 [zhān] (TRƯƠNG + LIÊN thiết, BÌNH thanh, TIÊN vận,
TRI tổ) phải đọc triên. ĐDA và TC đều đọc chiên.
Nêu ra một số trường hợp cụ thể như trên, tôi không có ý cố chấp đề nghị
ngày nay chúng ta phải đổi đọc lại hết những âm đã không tuân theo lối đọc
phiên thiết, bỏ qua những âm xã hội đã quen dùng, mà chỉ để tham khảo, cốt để
chỉ ra một lý do quan trọng, giải thích vì sao có tình trạng bất nhất trong âm
đọc của không ít chữ Hán thông dụng, đồng thời cũng để cho thấy nếu có sự chú ý
đến vấn đề ngữ âm ngay từ đầu (trong đó có phương pháp phiên thiết) thì các nhà
Nho của ta thời xưa đã không tạo ra một tình trạng tương đối lộn xộn trong âm
đọc chữ Hán mà ngày nay các thế hệ các con cháu cũng phải đọc theo.
Về trường hợp hai từ 般若 (ban nhược)
nhưng quen đọc thành bát nhã, 淨土 (tịnh thổ)
nhưng quen đọc thành tịnh độ thì cũng
có lý do ngữ âm khá rõ ràng, chứ không phải đọc sai:
- Trong 般若 (ban nhược), chữ 般 (ban) theo Long Khám Thủ Giám
còn đọc âm 撥 (bát) [bō]; chữ 若 (nhược) theo phiên thiết còn đọc NHÂN + GIẢ thiết, THƯỢNG
thanh, tức nhả (dấu hỏi), ta quen
đọc thành nhã (dấu ngã). Bát nhã là từ dịch âm tiếng Phạn
(prajnā), theo tự điển TC nghĩa
là trí tuệ (huệ) thanh tịnh.[13]
- Trong 淨土 (tịnh thổ),
chữ 土 theo phiên thiết còn đọc ĐỒ + CỔ thiết,
THƯỢNG thanh, tức đỗ [dù] (dùng
thông với 杜), ta quen đọc thành độ. Trường hợp THƯỢNG thanh (dấu hỏi hoặc ngã) đọc ra KHỨ thanh
(dấu sắc hoặc nặng) rất thường thấy xảy ra trong âm Hán Việt, nên không có gì
lạ. Tịnh độ theo tự điển TC
nghĩa là một thế giới rất sạch sẽ
sung sướng ở Tây phương, vì thế tôn(g) phái tu cầu được vãng sinh về
bên ấy gọi là tôn(g) Tịnh Độ.
Lại còn có những trường hợp tạm gọi là đặc biệt, bởi một số
chữ Hán đọc theo âm Hán Việt hoàn toàn không theo một quy luật nào cả. Thử nêu ba
trường hợp khá tiêu biểu về ba chữ 一 (nhất), 比 (tỷ), và 幻 (ảo), vì từ ba chữ này, chúng ta có thể luận thêm ra về cách đọc Hán
Việt và thái độ xử lý của chúng ta đối với một số chữ Hán bị cho là đọc sai so
với cách hướng dẫn theo phương pháp phiên thiết:
Chữ 一 (nhất) [yī] theo phiên thiết có cách đọc
(Ư + TẤT thiết, NHẬP thanh, CHẤT vận, ẢNH tổ), hoặc (Y + TẤT thiết), lẽ ra phải
đọc ất, nhưng âm Hán Việt đã quen đọc
thành nhất và chắc chắn không ai có ý
nghĩ cần phải đổi cách đọc chữ này thành ất
cả.
Chữ 比 (tỷ) [bì, bǐ] theo phiên thiết có hai cách đọc (TÌ + CHÍ thiết, KHỨ
thanh, CHÍ vận, TỊNH tổ) và (BI + LÝ thiết, THƯỢNG thanh, CHỈ vận, BANG tổ).
Chữ 比
khứ thanh thì đọc tỵ, thượng thanh
đọc bỉ, nhưng lâu nay âm Hán Việt vẫn
quen đọc chung thành tỷ. Trường hợp
này không thể nói cách dùng quen là sai hay đúng và cũng không cần thắc mắc
nhiều.
Chữ 幻
(ảo) [huàn] (HỒ + BIỆN thiết, KHỨ
thanh, GIẢN vận, HẠP tổ). Chữ này TC đọc huyễn và nói ảo thuật là
huyễn thuật; còn ĐDA thì nói chữ
này chính đọc là ‘huyễn’, nhưng
lâu nay đọc quen là ‘ảo’ (tr. 398).
Nêu về trường hợp chữ 幻
có hai âm đọc ảo và huyễn, xin mượn lời ông Nguyễn Tài Cẩn
(1926-2011) để đưa ra một nhận định:
“Đứng trước một hiện tượng như cách đọc ảo của
chữ 幻 chẳng hạn, nếu chúng ta
căn cứ vào tự điển, căn cứ vào tài liệu ngữ âm lịch sử, thì chúng ta sẽ thấy
ngay rõ ràng đó là một cách đọc nhầm. Đọc huyễn mới đúng,
vì Khang Hy Tự Điển cho biết phiên thiết là hồ biện... Nhưng đối với chúng ta, không một cuốn sách nào, không
một nhà nghiên cứu nào là có thể bắt ta bác bỏ được cách đọc ảo.
Đối với chúng ta, trong vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ, chỉ có nhân tố xã hội mới
có tiếng nói quyết định. Nếu ta đã chấp nhận cách đọc huyễn,
vì 幻 đã nhập một với 眩 (cũng đọc là huyễn), tạo ra
từ huyễn hoặc được dùng rộng rãi, thì ta lại không
có lý gì không chấp nhận luôn cả cách đọc ảo khi toàn dân đã quen
nói ảo tưởng, huyền ảo, hư ảo, ảo thuật, ảo mộng,
ảo ảnh, v.v... Theo ý chúng tôi, đứng ở địa vị Hán Việt, nếu chỉ căn cứ
vào sách vở mà chê cách đọc này là sai, mà đề nghị cách đọc kia phải đổi lại,
v.v... thì đó là một điều vừa không tưởng, vừa sai lầm. Nói một cách khác, phải
chấp nhận bất kỳ cách đọc nào đã được tiếng Việt chấp nhận, vì đó là hiện thực.”
[14]
Về vấn đề tương tự như trên, nhà ngữ học quá cố Lê Ngọc Trụ
cũng đã từng nhận xét: “Đến như giọng đọc
Hán Việt, có nhiều chữ lại không theo phiên thiết mà chỉ đọc theo nhân tuần,
thói quen của tiền nhân.” [15] Rồi ông nêu mấy thí dụ
về chữ 一 (nhất) (Y + TẤT thiết =
ất), chữ 必 (tất) (BÍCH + CÁT thiết
= bát), chữ 轟 (oanh) (HÔ + HOÀNH thiết
= hoanh).
TRẦN VĂN
CHÁNH
12-02-2012
Vỗ tay
mà hát, nghiêng bầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta
cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu? [Văn Uyển chú]
Để khắc phục lỗi lầm chữ nghĩa đã và
đang phô bày quá nhiều trong kinh sách Cao Đài xưa nay, ngoài việc tích cực
trau giồi tiếng Việt, chúng ta còn phải chú ý tới chữ Hán, các từ Hán Việt.
Hướng tới mục đích lâu dài này, Văn
Uyển sẽ lần lượt chia sẻ với quý đạo hữu các bài viết về ngôn ngữ ứng
dụng cho nhà Đạo, do các tác giả uy tín cộng tác.
[Văn Uyển]
|