Chủ Nhật, 14 tháng 2, 2016

ĐĐVU 06 / CHỮ TÂM, CHỮ MUỐN / Thánh giáo

Image result for FLOWERS

Huờn Cung Đàn, Tý thời, 14 rạng 15-5 Ất Tỵ
(13 rạng 14-6-1965)
THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ
Tiểu Thánh chào chư [1] Thiên mạng,[2] chào chư liệt vị [3] lưỡng ban.[4] Chư liệt vị thành tâm tiếp điển Đức Quan Âm Bồ Tát. Tiểu Thánh xuất ngoại ứng hầu. Thăng.
TIẾP ĐIỂN
Bần Đạo chào chư hiền sĩ,[5] chư hiền muội đẳng đẳng.
THI
QUAN trường như áo mặc rồi thay,[6]
ÂM chất [7] người ôi, kíp [8] tạo gầy,
BỒ liễu [9] nam nhân tua [10] gắng chí,
TÁT(c) nhơn tác phúc [11] chốn trần ai.[12]
Bần Đạo miễn lễ. Chư hiền sĩ, hiền muội đàn trung [13] an tọa.
Giờ nay Bần Đạo đến đây để bố điển hòa đồng toàn tất chư hiền sĩ, hiền muội.
Nhận thấy trong khoảng thời gian qua, bước đàng hành đạo trải bao phen trầm bổng, thạnh suy, tan hiệp, hiệp tan, vui buồn, thương giận. Đó là phàm tánh [14] còn ẩn trong mảnh thân tứ đại.[15] Tuy nhiên, một điểm son đáng ghi là chữ tâm của hiền sĩ, hiền muội vẫn còn thiết tha thành kỉnh với một chủ đích duy nhứt là Đại Đạo quy nguyên,[16] hóa hoằng chơn pháp,[17] phổ độ quần sanh [18] trở về con đường chánh giác. Đó là một trong những yếu tố để hội ngộ, hiện diện đàn tiền.[19]
Đàn hôm nay, Bần Đạo khoanh tròn nơi chữ tâm. Mỗi mỗi hiền sĩ, hiền muội đều có một chữ tâm, nhưng bản năng [20] thì lại khác, không biết bao giai tầng [21] và biến chuyển nơi nội tâm.[22]
Có chữ tâm đang thiết tha vì đại cuộc,[23] thương giống yêu dòng, quy hợp [24] những tinh anh kết thành một khối, xây dựng giang san cho giống dòng Hồng Lạc.
Cũng có chữ tâm nặng oằn vì đạo nghĩa, dốc đem hết sự nghiệp, thân thế đời mình phụng sự cho lý tưởng cao cả.
Cũng có chữ tâm cũng thương cũng mến, cũng gây dựng, nhưng không phải vì đại cuộc đại nghĩa, mà vì màu sắc địa phương, phái chi, nam bắc, đen trắng, xám vàng.
Cũng có chữ tâm cũng biết thương yêu, chăm sóc, lo lắng, bảo vệ, nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp – đó là đời tư, gia thê tôn tử.[25]
Cũng có chữ tâm cũng biết thương yêu, vun quén, chăm sóc nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp hơn nữa – đó chính là bản thân mình, vị kỷ vong tha.[26]
Cũng có chữ tâm, nhưng tâm lại vô định, không chủ hướng, không mục đích, không đường lối, cũng không biết hướng đời mình đi về đâu.
Hỏi vậy, trình độ này có biết tự thương [27] chăng? Trả lời rằng biết.
Biết thương cho sở thích nhứt thời, biết thương cho thị dục [28] cá tính, biết thương cho từng giai đoạn một. Chung quy lại là thương cho ma quỷ, làm nô lệ cho dục vọng, ích kỷ hại nhân.[29] Đó cũng gọi là chữ tâm.
Hỡi chư hiền sĩ, chư hiền muội!
Nhìn một khối nước chứa trong hồ. Nước yên lặng, lóng trong, nhìn vào thấy bóng, chẳng khác gương soi. Đó là tâm thanh tịnh, mà bóng đó là các Đấng nơi cõi vô hình.
Cũng nước, nước nguồn, nước suối, nước nơi sông rạch, dòng nước uốn lượn theo lối quanh co, khúc khuỷu, lôi cuốn cuồn cuộn những gì nhơ bẩn tanh hôi.
Cũng nước, nước nơi trùng dương, khi phẳng lặng như tờ giấy trải, khi gào thét khuấy động, rất đỗi tàn phá những gì làm chướng ngại vật cản trở dòng nước đang dâng.
Nhìn dòng nước, đem so lại với tâm người. Một khi tâm khuấy động, bao thất tình lục dục [30] cặn cáu nổi lên, mặt phừng phừng đỏ, chuyển động cả thân thể tứ chi, đụng đâu phá đó, có thể một giây cuồng loạn tiêu diệt quả địa cầu.
Chữ tâm, hễ buông ra bao quát cả gia đình, quốc gia, xã hội, thế giới, hoàn cầu, vũ trụ, thiên địa. Một khi tâm thu lại chỉ còn bằng sợi tóc chẻ ra ngàn mảnh.
Tâm biến hóa vô cùng vô tận. Nó là con ngựa chứng mà cũng con ngựa hay. Nếu người chủ ngựa biết sử dụng, điều khiển thì sẽ trở nên bạch mã, phi mã, vạn mã vô song.[31] Ngược lại, người chủ không biết sử dụng, điều khiển thì nó là con ngựa chứng, chạy khắp đó đây, lên núi xuống đồng, tàn phá bao nhiêu cây trái, ruộng vườn, hoa màu khắp chốn, đụng ai đá nấy.
Cũng thời chữ tâm, cách đây cũng nhiều phen, Bần Đạo hằng dặn dò môn đệ trong hàng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ráng cần lưu ý đến chữ tâm.
Chữ tâm, nếu để tự nhiên giống như thuở sơ sinh, tâm hồn chất phác, tâm như minh cảnh đài,[32] thông công [33] tam thập lục thiên, tam thiên thế giới. Nhưng thương vì khi vào đời trần cấu, gặp những ngoại cảnh cuốn lôi, làm cho tâm phai mờ dưới những lớp bụi trần – hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục, cụ.
Người tu hành trong thời đại ân xá rất dễ đắc quả vị mà than ôi cũng rất khó! Khó là tự mình chưa, hoặc không thể làm chủ, chưa mạnh dạn quét sạch những bụi trần vừa kể. Khi quét được sạch rồi tâm đạo hiện ra, dẫn dắt con người đến chỗ tận thiện tận mỹ.
Khi ở tại trần, giả thử được một người toàn vẹn dường ấy, một lời nói ra cảm hóa muôn người, mười lời nói ra, trăm lời nói ra, ngàn lời nói ra, thì lo gì nước không trị, nhà không yên, đạo không quy về một khối; lo gì nhân loại chẳng hưởng cảnh đất Thuấn trời Nghiêu.[34]
Tình thương con người xuất phát từ chữ tâm. Nếu thương thân mình, thương gia thê tôn tử, dung lượng [35] tình thương đó như dung lượng nước ở dấu chơn trâu. Còn tình thương quốc gia dân tộc, dung lượng bằng dung lượng vũng nước ao hồ. Còn tình thương nhân loại như nước chốn đại dương.
Xét lại mà coi: Nếu nước ở dấu chơn trâu thì có giới hạn. Nhiều dấu chơn trâu có nhiều giới hạn, có những khoảng cách ngăn, dấu thì nước trong, dấu thì nước đục. Vì chỗ trong đục, đục trong sanh ra quấy phải. Vì chỗ quấy phải sanh ra cạnh tranh. Chính chỗ cạnh tranh là mầm xáo trộn trong nhân loại. Ở gia đình thì vợ chồng, anh em cãi vã, đánh đập xể xài thân xác. Đến cùng chòm xóm, cạnh tranh đến chỗ hạ thủ bất nhượng.[36] Giữa tỉnh này cùng tỉnh khác, cạnh tranh đưa đến chỗ giặc chòm.[37] Giữa quốc gia này cùng quốc gia khác, thì vì cạnh tranh ắt đưa đến chỗ tàn sát không gớm tay. Đó là mầm lôi cuốn thế giới vào cuộc nguy vong.
Chính vì chỗ thiếu tình thương, hoặc tình thương nhỏ hẹp, tuy khinh thường nhưng nó là mầm non, cội rễ phát sinh ra đại cuộc. Vì lòng là tâm. Tâm người xa cách nguyên thủy, căn bản, tức là xa Thượng Đế. Xa Thượng Đế là xa tình thương. Mà hễ loài người thiếu tình thương, ôi thôi, hậu quả vô cùng vô tận!
Từ chữ tâm sanh ra chữ muốn. Muốn đủ thứ đủ điều.
Muốn là dục vọng.[38] Khi muốn mà không được thì thất vọng. Hễ thất vọng phải luân hồi để kiếp lai sanh [39] toại vọng.[40] Hễ luân hồi thì đau đớn vì:
Trần gian là chỗ đọa đày,
Luân hồi nhiều kiếp, trả vay càng nhiều.
Như vậy, nguồn gốc của luân hồi là chữ muốn.
Muốn khỏi cảnh luân hồi thì đừng thất vọng. Muốn đừng thất vọng thì chớ dục vọng. Muốn đừng dục vọng thì phải ngự trị [41] chữ tâm.
Sự luân hồi của người khác với cỏ cây cùng nước.
Nhìn xem cây cỏ: Cây sanh bông, bông tồn trái, trái có hột, hột già rụng xuống, nẩy mầm sanh cây. Cây lại sanh hoa, quả, đến hột, hột rụng xuống nẩy mầm trở lại thành cây. Nhưng ngàn năm muôn thuở, giống nào cây nấy.
Còn nhìn nước nơi ao hồ: Nước bốc hơi thành mây, mây thành mưa, rớt xuống núi non, rừng rậm, đổ vào chỗ trũng, chảy thành nguồn. Từ nguồn chảy ra sông, rạch, ao, hồ, biển cả. Cứ như thế, ngàn kiếp muôn năm, tánh chất nước không chịu đổi thay vì luật luân chuyển.
Còn trái lại, con người khi luân hồi chuyển kiếp chưa chắc gì được trọn vẹn làm người ở kiếp lai sanh. Bởi vì lòng người khó đo lường. Cũng thân xác con người mà tâm trạng đổi thay, từ thiện lương đến hung ác bạo tàn, đến nỗi còn hơn lòng dạ hổ lang [42] nơi rừng sâu núi thẳm.
Vì tâm người quá chấp, quá nê. Còn nước với cỏ cây tịnh tịnh, vô vô, không tư tâm, không bản ngã, không nê chấp.[43] Nhờ tâm không đó mới giữ được bổn chất nguyên căn.
Hỡi chư hiền sĩ, chư hiền muội!
Giữa đêm trường dẫy đầy lằn hắc khí xung thiên,[44] những lằn hồng quang điển chư hiền nơi đây xung lên, vẹt đám mây mù hắc khí nơi nầy. Nếu được, phổ độ thêm nhiều sanh linh, tạo nhiều hồng quang điển. Hễ hồng quang điển đến đâu thì nạn tai tránh xa đến đó. Vì vậy, Bần Đạo khuyên người tín đồ Đại Đạo, không luận chức sắc Thiên phong, đều có bổn phận tự giác, giác tha;[45] làm thế nào để được xứng danh nghĩa Tam Kỳ Phổ Độ.
Chư hiền muốn thành Phật ư? Muốn thành Tiên, Thánh, Thần ư? Được, tốt lắm!
Chính trong thâm tâm chư hiền, mỗi người đều có, tạm gọi là vốn liếng để thành Phật Tiên, Thánh Thần. Miễn chư hiền biết trọn lòng tư tưởng đến việc làm cùng lời nói. Loại nào của các bực Phật Tiên, Thánh Thần nên nuôi dưỡng mà tiến hành. Còn những tư tưởng, hành động, lời nói nào của ma quỷ phải chừa ngăn. Có như vậy mới sớm toại nguyện.
Thử đặt câu hỏi: Nếu mình làm đúng, nói đúng, trong lúc đó có người nói ngược lại, mình có bực tức, giận chăng? Nếu có tức là không được Phật tánh.
Nếu khi gặp cơn đói lạnh, mình chỉ còn một chén cơm cho cả gia đình, trong lúc đó gặp người hàng xóm xin chia bớt một phần, mình có chia chăng? Nếu không tức là thiếu lòng bác ái, chẳng được thành Tiên.
Nếu khi cơn ghiền rượu đang hoành hành, ở nhà còn sót một vò rượu ngon, hỏi mình có tự nhẫn kiên, không dùng rượu để sáng suốt tinh thần tiếp điển hành pháp chăng? Nếu không nhẫn được là không thành Thánh.
Nếu cần một món tiền chia hai, bên ba phần, bên năm phần, cho thân nhơn với một người láng giềng; có ưng lòng chia phần nhiều cho người hàng xóm chăng? Nếu không thì chẳng được thành Thần.
Những sự kiện nghe qua rất tầm thường nhưng xét lại thật là khó hành. Mà hễ khó hành thì không thành. Muốn thành, phải kiên nhẫn, hy sinh, đức độ. Nếu ngược lại, bắt cá hai tay làm sao đắc quả, vì câu:
Thiên Đàng thì cũng muốn lên,
Tiếc vì sự nghiệp một bên còn nhiều.
THI
Chữ tâm luyện đặng sẽ thành ngay,
Thành Phật, thành Tiên một phút giây.
Chỉ ngại chữ tâm còn tấn thoái,
Ngàn năm muôn kiếp chuyển luân hoài.
THI BÀI
1. Chuyển luân hoài trả vay, vay trả,
Kiếp luân hồi buồn bã ai ôi!
Nếu khi hiểu rõ được rồi,
Sớm lo bươn trả [46] quả nhồi nghiệp duyên.
2. Một kiếp sống ở yên trần thế,
Hỏi mấy ai bách tuế thiên niên,[47]
Sống trong cõi tạm triền miên,
Tạm ăn, tạm ở, tạm duyên nợ đời.
3. Tạm thân xác ba hơi còn thở,[48]
Tạm cha con chồng vợ chị anh,
Tạm trong cái bại cái thành,
Cái quyền cái chức, cái danh, bạc tiền.
4. Tạm kêu gọi rằng tên Y, X,
Có ai tường tên thiệt mình chăng?
Sống trong vũ trụ trần hoàn,
Kiếp người hột cát so hàng cồn to.[49]
5. Mãi lặn hụp trong lò luân chuyển,
Một kiếp người tai biến biết bao,
Hỏi coi những hạng sang giàu,
Xe hơi, tàu lớn, nhà lầu, của kho.
6. Hỏi ai được khỏi lo khỏi sợ?
Hỏi ai không mang nợ trần gian?
Hỏi ai có được thập toàn? [50]
Hay là cũng cảnh rộn ràng bối bê.
7. Cảnh ghen tức phu thê nem chả,[51]
Cảnh bạc bài gây họa gia cang,[52]
Cảnh bán chức, cảnh mua quan,
Cảnh đương nghèo túng, giàu sang tức thì.
8. Người tu niệm xét suy cho kỹ,
Một kiếp người bền bỉ bao năm,
Quả công tua sớm nên làm,
Đó là vốn liếng muôn năm cõi Trời.
(…)
Hỡi chư hiền sĩ, hiền muội!
Cơ Đạo hiện giờ tùy theo sáng kiến của đệ huynh, chung tay xây dựng cơ quan Đạo nơi nầy.
Không nên nê chấp vì danh từ. Danh từ chỉ là hình thức xưng hô, tùy thời biến chuyển, song song với nhu cầu của tinh thần chi phái Đạo. Sự thật, danh từ nào cũng là giả cả. Chỉ tạm mượn mà gọi để thi hành cho kỳ được mục phiêu Đại Đạo đó thôi.
Công quả hiền sĩ, hiền muội nơi nầy đã nhiều rồi, mặc dầu chưa toại thành sở nguyện chớ vội nản lòng, vì chư hiền chỉ biết ngày nay, mà không biết ngày mai cùng tháng tới. Nhìn gương tái ông thất mã [53] mà an phận hành đạo.
Cần nhớ điều nầy: Trời có xuân hạ thu đông, mưa gió cũng tùy theo luật bốn mùa tám tiết.[54] Người sứ mạng hành đạo hãy nương theo đó, chớ không nên hành từng giai đoạn.
Hướng đạo là tay cầm nước cờ, phải nhìn xa năm bảy nước, chớ nóng lòng chiếu bí, lỡ vận không nên. Điều căn bản là dụng đức dung hòa, để gặp thời cơ thuận buồm thẳng gió.
Hôm nay, Bần Đạo rất vui nhìn thấy tinh thần đạo đức gắn bó của chư hiền sĩ, hiền muội các nơi về đây, chung dưới mái thánh đường. Bần Đạo mong cho lòng đạo ấy mãi mãi càng gia tăng để chung lo xây dựng Đạo Trời trong thời buổi chót của nguơn hạ.
THI
Điển lành ban bố nữ cùng nam.
Công quả độ nhơn ráng ráng làm,
Chèo chống thuyền từ qua biển loạn,
Mặc dầu sóng gió phải cho kham.
THI
Cho kham mới gọi đúng nhân hiền,
Tài đức chung nhau chữ cố kiên,
Việc khó ráng làm công mới đáng,
Đêm tàn nhựt lộ [55] ở bên hiên.
NGÂM
Ban ân toàn thể chư hiền,
Chữ tâm gìn giữ cho siêng hằng ngày.
Nghĩa nhân công quả cần chuyên,
Cho qua buổi khổ nên hiền nên nhân.
Xả đàn đồng tử dưỡng thần,
Điển linh vội rút, cõi trần lui chơn.
Thăng.
Phụ Lục: Tái ông thất mã
Một ông sống gần biên giới (biên tái) có nuôi con ngựa. Một hôm con trai ông lơ đễnh để sổng ngựa chạy qua bên kia biên giới mất dạng. Xóm giềng đến chia buồn. Ông bình thản nói: “Biết đâu con ngựa chạy mất lại là điều tốt.”
Vài tháng sau, con ngựa ấy trở về, dẫn theo một con ngựa từ nước bên kia. Xóm giềng đến chúc mừng. Ông bình thản nói: “Biết đâu con ngựa mới nầy lại là điều rủi.”
Con trai ông thử cỡi con ngựa mới. Nó chưa thuần nết, nhảy loạn lên. Con ông bị hất xuống, gãy xương đùi, bị què. Xóm giềng đến chia buồn. Ông bình thản nói: “Biết đâu tai nạn nầy lại là phúc.”
Năm sau có ngoại xâm, trai tráng đều phải tòng quân. Con ông bị què nên được miễn dịch.
(Sách Hoài Nam Tử)
Đạo Đức Kinh (chương 58) viết: Họa là chỗ dựa của phúc; phúc là chỗ dựa của họa.[56]
Người Anh, người Mỹ nói: Every dark cloud has a silver lightning. (Mỗi đám mây đen đều có làn chớp bạc.) Nghĩa là từ chuyện rủi ro xảy đến cho mình, chúng ta có thể rút ra được một lợi ích nào đó. Họ cũng nói: A blessing in disguise (một ơn phước được ngụy trang). Nghĩa là một việc gì thoạt xem thì tưởng là xấu mà về sau lại hóa ra tốt lành.[57]




[1] chư / many, all: Nhiều, tất cả. Thí dụ: chư Phật (các vị Phật).
[2] Thiên mạng (mệnh) 天命: Bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó là thế Thiên hành hóa 替天行化 (thay Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu hành).
[3] liệt vị 列位 / all of you present: Các ngài, các vị (đang có mặt).
[4] lưỡng ban : Hai ban chức sắc, chức việc và tín đồ khi hành lễ trước Thiên Bàn:  nam (phía bình bông trên Thiên Bàn) và nữ (phía dĩa trái cây trên Thiên Bàn).
[5] chư hiền sĩ 諸賢士 / all worthy brothers: Tất cả các trò hiền, các em (trai) hiền.
:  Học trò, những người học đạo. Mỹ từ gọi đàn ông. Thi Kinh 詩經 (Trịnh Phong 鄭風): Nữ viết: Kê minh; sĩ viết: Muội đán. 女曰: 雞鳴; 士曰: 昧旦. Nàng nói: Gà gáy; chàng nói: Trời sáng rồi. Khi dùng kèm với chư hiền muội thì hiểu chư hiền sĩ có nghĩa như chư hiền đệ.
hiền :  [danh từ] Người có đức hạnh, tài năng (worthy). Thí dụ: tuyển hiền dữ năng 選賢與能 (chọn người đức hạnh và tài năng). [đại từ] Tiếng trọng kính gọi người trước mặt (ngôi thứ hai), thay vì gọi ông / ngài. Trong thánh giáo, thay vì gọi chư hiền đệ, hiền muội, Ơn Trên gọi chư hiền. ƒ [tính từ] Có tài đức. Thí dụ: hiền thần 賢臣 (bề tôi tài đức). [tính từ] Dùng để gọi người khác một cách tôn kính. Thí dụ: gọi mẹ là hiền mẫu 賢母; gọi vợ là hiền thê 賢妻 / hiền nương 賢娘; gọi anh là hiền huynh 賢兄; gọi chị là hiền tỷ 賢姊; gọi em trai là hiền đệ 賢弟; gọi em gái là hiền muội 賢妹.
[6] quan trường 官場 / officialdom, officials as a whole: Chốn làm quan, giới quan lại. Quan trường như áo mặc rồi thay: Làm quan chỉ có một thời, như áo mặc rồi thì phải thay áo khác / Being officials is as temporary as wearing clothing.
[7] âm chất 陰騭 / hidden good deeds: Âm công 陰功 / âm đức 陰德. Việc lành, việc thiện không phô trương (tuy che giấu người đời nhưng Trời Phật Thánh Thần đều biết).
Chúa Giêsu dạy làm âm chất như sau: Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời, ban thưởng. (Matthêu 6:1); Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. (Matthêu 6:3-4)
[8] kíp / urgent, urgently: Gấp, vội. (Do chữ cấp .)
[9] bồ liễu 蒲柳:  bồ / various monocotyledonous flowering plants including Acorus calamus and Typha orientalis: cây cói, lác (dùng làm chiếu, giỏ, quạt…); liễu / willow: loại cây mềm yếu, cành lá rủ xuống. bồ liễu / liễu bồ / women, as compared to slender and weakly willow: Phụ nữ (vì phần đông họ thường mảnh mai, yếu ớt như cây bồ, cây liễu).
[10] tua / should, had better: Nên, hãy nên. (Do chữ tu ). khá tua: Khá nên, hãy nên (do khả tu 可須). tua gắng sức / had better attempt: Nên cố gắng.
[11] tác nhơn (nhân) tác phúc 作仁作福 / to do benevolent and virtuous deeds: Làm điều nhân ái (thương người) và làm việc phước đức.
[12] trần ai 塵埃:  Bụi bặm / dust. Trần gian, cõi trần, cõi bụi bặm, hồng trần, cõi bụi hồng (the dusty world, the world).
[13] đàn trung 壇中/ (present) at the seance: (Có mặt) trong đàn cầu cơ.
[14] phàm tánh 凡性 / worldly character: Tánh phàm, tánh trần tục.
[15] thân tứ đại 四大的身 / the physical body composed of the four great elements (earth, water, fire, and wind or air): Theo Phật Giáo, thân xác con người do bốn chất căn bản tạo thành là đất (da thịt…), nước (máu, các chất lỏng…), lửa (hơi ấm, thân nhiệt), gió (hơi thở).
[16] Đại Đạo quy nguyên 大道歸原 / Caodai branches return to their original beginning: Các chi phái Cao Đài trở về nguồn cội ban đầu.
[17] hóa hoằng chơn (chân) pháp 化弘眞法 / to diffuse the true dharma: Đem giáo pháp chân chánh truyền rộng khắp nơi.
[18] quần sanh (sinh) 群生 / all living beings, all human beings: Chúng sinh 眾生, con người nói chung.
[19] đàn tiền 壇前/ (present) before the seance: (Có mặt) trước đàn cầu cơ.
[20] bản năng 本能 / instinct: Xu hướng hay khả năng tự nhiên mà có (bẩm sinh) khiến cho người ta suy nghĩ, cư xử như một phản xạ. Thí dụ: Ham sống sợ chết là bản năng con người.
[21] giai tầng / stratum: Giai tằng 階層, thứ lớp, cấp bậc, tầng lớp.
([22]) nội tâm 內心 / the innermost heart, the innermost feelings: Tình cảm sâu kín trong lòng (thường không bộc lộ ra). Đừng lầm với tâm nội 心內 (ở trong lòng / in one’s heart).
[23] đại cuộc (cục) 大局: Việc lớn / great cause.
[24] quy hợp 歸合 / to bring together, to unite: Gom về, gom lại.
[25] gia thê tôn tử 家妻孫子: Nhà, vợ, cháu, con.
[26] vị kỷ / selfish: Vì mình, ích kỷ. vong tha 忘他 / neglecting others’ benefit: Không quan tâm lợi ích người khác.
[27] tự thương / to love oneself: Thương chính mình.
[28] thị dục 嗜欲() / desire: Ham muốn. Thị dục cùng nghĩa là ham muốn.
[29] ích kỷ hại nhân 益己害人 / harming others to benefit oneself: Lợi cho mình mà hại cho người khác.
[30] thất tình 七情 / the seven emotions: Bảy tình cảm là mừng (hỷ / joy), giận (nộ / anger), yêu (ái / affection), ghét ( / hatred), buồn (ai / sorrow), vui (lạc / cheerfulness), sợ (cụ / fearfulness).
lục dục 六欲 / the six desires: Sáu ham muốn do sáu căn (lục căn 六根 / the six senses: gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý nghĩ / eye, ear, nose, tongue, body, mind) tiếp xúc với ngoại giới: Mắt muốn nhìn đẹp, tai muốn nghe hay, mũi muốn ngửi thơm, lưỡi muốn nếm ngon, thân xác muốn sung sướng, ý nghĩ muốn vui.
[31] vô song 無雙 / matchless, peerless, one and only, unique: Không ai bằng, không có gì sánh kịp; có một không hai. Trở nên bạch mã, phi mã, vạn mã vô song: Trở nên dõng mãnh như bạch mã, phi mã và dù cho muôn ngựa khác có hợp sức lại vẫn không thể sánh kịp sức của con bạch mã hay phi mã đó.
[32] minh cảnh (kính) đài 明鏡臺 / bright mirror platform: Đài gương sáng.
[33] thông công / to communicate with: Liên lạc, tiếp xúc với (các Đấng thiêng liêng).
[34] đất Thuấn trời Nghiêu (Nghiêu thiên Thuấn địa 堯天舜地 / peaceful life as ruled by sage emperors Shun and Yao): Đời thanh bình (thánh đức) như đời vua Nghiêu, Thuấn thời xưa.
[35] dung lượng 容量 / capacity, volume: Sức chứa.
[36] hạ thủ bất nhượng 下手不讓 / not shrinking from cruel deeds: Làm ác không chùn tay, làm ác không nương tay.
[37] giặc chòm / local rebels: Giặc cỏ; đám giặc nhỏ quấy nhiễu ở một địa phương.
[38] dục vọng 欲望 / desire, longing, craving: Ham muốn, khao khát.
[39] kiếp lai sanh (sinh) 來生劫 / the next life after reincarnation: Kiếp sau.
[40] toại vọng 遂望 / to satisfy one’s expectations: Thỏa mãn những mong muốn.
[41] ngự trị 禦治 / to control: Chế ngự và sửa trị, điều khiển.
[42] lang / wolf: Chó sói. Cọp và sói tàn ác như nhau, cho nên gọi những kẻ tàn bạo là hổ lang 虎狼.
[43] nê chấp (chấp nê 執泥 / to be a stickler for something): Cố chấp, chấp nhất, câu nệ.
[44] hắc khí xung thiên 黑氣冲天: Khí hắc ám, khí đen xông lên trời.
[45] tự giác 自覺 / enlightening oneself: Chính mình giác ngộ, hiểu đạo. giác tha 覺他 / enlightening others: Giúp cho người khác giác ngộ, hiểu đạo.
[46] bươn trả / to be hasty to pay off (a debt): Vội mau trả (nợ).
[47] bách tuế 百歲 / a hundred years: Trăm tuổi, trăm năm. thiên niên 千年 / a thousand years: Ngàn năm.
[48] ba hơi: Ba tấc hơi. Có câu: Tam thốn khí tại thiên ban dụng, nhứt đán vô thường vạn sự hưu 三寸氣在千般用, 一旦無 常萬事休: Ba tấc hơi còn thì làm được ngàn thứ, một khi chết rồi muôn việc đều ngưng.
[49] Con người trong vũ trụ nhỏ bé như hạt cát đối với cồn cát.
[50] thập toàn 十全 / perfect, faultless: Hoàn toàn, hoàn hảo.
[51] phu thê nem chả / spouses disloyal to each other: Vợ chồng không chung thủy, ông ăn chả bà ăn nem, ai cũng có nhân tình.
[52] gia cang 家綱: Kỷ cương, trật tự trong gia đình.
[53] tái ông thất mã 塞翁失馬 / a blessing in disguise; every cloud has a silver lightning: Ông già ở biên giới mất ngựa. Xem Phụ Lục cuối bài thánh giáo này.
[54] tám tiết (bát tiết 八節): tám thời tính theo khí hậu trong năm: lập xuân 立春, lập hạ 立夏, lập thu 立秋, lập đông 立冬, xuân phân 春分, thu phân 秋分, hạ chí 夏至 và đông chí 冬至.
[55] nhựt lộ: Mặt trời ló dạng.
[56] Họa hề phúc chi sở ỷ. Phúc hề họa chi sở phục. 禍兮福之 所倚,福兮禍之所伏.
[57] Đọc thêm: Huệ Khải, Bắc Cầu Tâm Linh, tr. 115-116, bài “Thấy Vậy Mà Không Phải Vậy”. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2012. Quyển 54-1 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
HUỆ KHẢI & LÊ ANH MINH hiệp chú