Huờn Cung Đàn, Tý thời, 14 rạng 15-5 Ất Tỵ
(13 rạng 14-6-1965)
THIỆN TÀI ĐỒNG TỬ
Tiểu Thánh chào chư [1] Thiên mạng,[2] chào chư liệt vị [3] lưỡng ban.[4] Chư liệt vị thành tâm tiếp điển Đức
Quan Âm Bồ Tát. Tiểu Thánh xuất ngoại ứng hầu. Thăng.
TIẾP ĐIỂN
THI
Giờ nay Bần Đạo đến đây để bố điển hòa đồng toàn tất chư hiền
sĩ, hiền muội.
Nhận thấy trong khoảng thời gian qua, bước đàng hành đạo trải
bao phen trầm bổng, thạnh suy, tan hiệp, hiệp tan, vui buồn, thương giận. Đó là
phàm tánh [14] còn ẩn trong mảnh thân
tứ đại.[15] Tuy nhiên, một điểm son đáng ghi là chữ tâm của hiền sĩ, hiền muội vẫn còn
thiết tha thành kỉnh với một chủ đích duy nhứt là Đại Đạo quy nguyên,[16] hóa hoằng chơn pháp,[17] phổ độ quần sanh [18] trở về con đường chánh
giác. Đó là một trong những yếu tố để hội ngộ, hiện diện đàn tiền.[19]
Đàn hôm nay, Bần Đạo khoanh tròn nơi chữ tâm. Mỗi mỗi hiền
sĩ, hiền muội đều có một chữ tâm, nhưng bản năng [20] thì lại khác, không biết
bao giai tầng [21] và biến chuyển nơi nội tâm.[22]
Có chữ tâm đang thiết tha vì đại cuộc,[23] thương giống yêu dòng,
quy hợp [24] những tinh anh kết thành
một khối, xây dựng giang san cho giống dòng Hồng Lạc.
Cũng có chữ tâm nặng oằn vì đạo nghĩa, dốc đem hết sự nghiệp,
thân thế đời mình phụng sự cho lý tưởng cao cả.
Cũng có chữ tâm cũng thương cũng mến, cũng gây dựng, nhưng
không phải vì đại cuộc đại nghĩa, mà vì màu sắc địa phương, phái chi, nam bắc,
đen trắng, xám vàng.
Cũng có chữ tâm cũng biết thương yêu, chăm sóc, lo lắng, bảo
vệ, nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp – đó là đời tư, gia thê tôn tử.[25]
Cũng có chữ tâm cũng biết thương yêu, vun quén, chăm sóc
nhưng trong phạm vi nhỏ hẹp hơn nữa – đó chính là bản thân mình, vị kỷ vong
tha.[26]
Cũng có chữ tâm, nhưng tâm lại vô định, không chủ hướng,
không mục đích, không đường lối, cũng không biết hướng đời mình đi về đâu.
Biết thương cho sở thích nhứt thời, biết thương cho thị dục [28] cá tính, biết thương cho từng giai đoạn một. Chung quy lại là thương cho ma
quỷ, làm nô lệ cho dục vọng, ích kỷ hại nhân.[29] Đó cũng gọi là chữ tâm.
Hỡi chư hiền sĩ, chư hiền muội!
Nhìn một khối nước chứa trong hồ. Nước yên lặng, lóng trong,
nhìn vào thấy bóng, chẳng khác gương soi. Đó là tâm thanh tịnh, mà bóng đó là
các Đấng nơi cõi vô hình.
Cũng nước, nước nguồn, nước suối, nước nơi sông rạch, dòng
nước uốn lượn theo lối quanh co, khúc khuỷu, lôi cuốn cuồn cuộn những gì nhơ
bẩn tanh hôi.
Cũng nước, nước nơi trùng dương, khi phẳng lặng như tờ giấy
trải, khi gào thét khuấy động, rất đỗi tàn phá những gì làm chướng ngại vật cản
trở dòng nước đang dâng.
Nhìn dòng nước, đem so lại với tâm người. Một khi tâm khuấy
động, bao thất tình lục dục [30] cặn cáu nổi lên, mặt phừng phừng đỏ, chuyển động cả thân thể tứ chi, đụng đâu
phá đó, có thể một giây cuồng loạn tiêu diệt quả địa cầu.
Chữ tâm, hễ buông ra bao quát cả gia đình, quốc gia, xã hội,
thế giới, hoàn cầu, vũ trụ, thiên địa. Một khi tâm thu lại chỉ còn bằng sợi tóc
chẻ ra ngàn mảnh.
Tâm biến hóa vô cùng vô tận. Nó là con ngựa chứng mà cũng con
ngựa hay. Nếu người chủ ngựa biết sử dụng, điều khiển thì sẽ trở nên bạch mã,
phi mã, vạn mã vô song.[31] Ngược lại, người chủ không biết sử dụng, điều khiển thì nó là con ngựa chứng,
chạy khắp đó đây, lên núi xuống đồng, tàn phá bao nhiêu cây trái, ruộng vườn,
hoa màu khắp chốn, đụng ai đá nấy.
Cũng thời chữ tâm, cách đây cũng nhiều phen, Bần Đạo hằng dặn
dò môn đệ trong hàng Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ ráng cần lưu ý đến chữ tâm.
Chữ tâm, nếu để tự nhiên giống như thuở sơ sinh, tâm hồn chất
phác, tâm như minh cảnh đài,[32] thông công [33] tam thập lục thiên, tam
thiên thế giới. Nhưng thương vì khi vào đời trần cấu, gặp những ngoại cảnh cuốn
lôi, làm cho tâm phai mờ dưới những lớp bụi trần – hỷ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục,
cụ.
Người tu hành trong thời đại ân xá rất dễ đắc quả vị mà than
ôi cũng rất khó! Khó là tự mình chưa, hoặc không thể làm chủ, chưa mạnh dạn
quét sạch những bụi trần vừa kể. Khi quét được sạch rồi tâm đạo hiện ra, dẫn
dắt con người đến chỗ tận thiện tận mỹ.
Khi ở tại trần, giả thử được một người toàn vẹn dường ấy, một
lời nói ra cảm hóa muôn người, mười lời nói ra, trăm lời nói ra, ngàn lời nói
ra, thì lo gì nước không trị, nhà không yên, đạo không quy về một khối; lo gì
nhân loại chẳng hưởng cảnh đất Thuấn trời Nghiêu.[34]
Tình thương con người xuất phát từ chữ tâm. Nếu thương thân
mình, thương gia thê tôn tử, dung lượng [35] tình thương đó như dung lượng nước ở dấu chơn trâu. Còn tình thương quốc gia
dân tộc, dung lượng bằng dung lượng vũng nước ao hồ. Còn tình thương nhân loại
như nước chốn đại dương.
Xét lại mà coi: Nếu nước ở dấu chơn trâu thì có giới hạn.
Nhiều dấu chơn trâu có nhiều giới hạn, có những khoảng cách ngăn, dấu thì nước
trong, dấu thì nước đục. Vì chỗ trong đục, đục trong sanh ra quấy phải. Vì chỗ
quấy phải sanh ra cạnh tranh. Chính chỗ cạnh tranh là mầm xáo trộn trong nhân
loại. Ở gia đình thì vợ chồng, anh em cãi vã, đánh đập xể xài thân xác. Đến
cùng chòm xóm, cạnh tranh đến chỗ hạ thủ bất nhượng.[36] Giữa tỉnh này cùng tỉnh khác, cạnh tranh đưa đến chỗ giặc chòm.[37] Giữa quốc gia này cùng quốc gia khác, thì vì cạnh tranh ắt đưa đến chỗ
tàn sát không gớm tay. Đó là mầm lôi cuốn thế giới vào cuộc nguy vong.
Chính vì chỗ thiếu tình thương, hoặc tình thương nhỏ hẹp, tuy
khinh thường nhưng nó là mầm non, cội rễ phát sinh ra đại cuộc. Vì lòng là tâm.
Tâm người xa cách nguyên thủy, căn bản, tức là xa Thượng Đế. Xa Thượng Đế là xa
tình thương. Mà hễ loài người thiếu tình thương, ôi thôi, hậu quả vô cùng vô
tận!
Từ chữ tâm sanh ra chữ muốn. Muốn đủ thứ đủ điều.
Muốn là dục vọng.[38] Khi muốn mà không được thì thất vọng. Hễ thất vọng phải luân hồi để kiếp lai
sanh [39] toại vọng.[40] Hễ luân hồi thì đau đớn vì:
Trần gian là chỗ đọa đày,
Luân hồi nhiều kiếp, trả vay càng nhiều.
Như vậy, nguồn gốc của luân hồi là chữ muốn.
Muốn khỏi cảnh luân hồi thì đừng thất vọng. Muốn đừng thất
vọng thì chớ dục vọng. Muốn đừng dục vọng thì phải ngự trị [41] chữ tâm.
Sự luân hồi của người khác với cỏ cây cùng nước.
Nhìn xem cây cỏ: Cây sanh bông, bông tồn trái, trái có hột,
hột già rụng xuống, nẩy mầm sanh cây. Cây lại sanh hoa, quả, đến hột, hột rụng
xuống nẩy mầm trở lại thành cây. Nhưng ngàn năm muôn thuở, giống nào cây nấy.
Còn nhìn nước nơi ao hồ: Nước bốc hơi thành mây, mây thành
mưa, rớt xuống núi non, rừng rậm, đổ vào chỗ trũng, chảy thành nguồn. Từ nguồn
chảy ra sông, rạch, ao, hồ, biển cả. Cứ như thế, ngàn kiếp muôn năm, tánh chất
nước không chịu đổi thay vì luật luân chuyển.
Còn trái lại, con người khi luân hồi chuyển kiếp chưa chắc gì
được trọn vẹn làm người ở kiếp lai sanh. Bởi vì lòng người khó đo lường. Cũng
thân xác con người mà tâm trạng đổi thay, từ thiện lương đến hung ác bạo tàn,
đến nỗi còn hơn lòng dạ hổ lang [42] nơi rừng sâu núi thẳm.
Vì tâm người quá chấp, quá nê. Còn nước với cỏ cây tịnh tịnh,
vô vô, không tư tâm, không bản ngã, không nê
chấp.[43] Nhờ tâm không đó mới giữ được bổn chất nguyên căn.
Hỡi chư hiền sĩ, chư hiền muội!
Giữa đêm trường dẫy đầy lằn hắc khí xung thiên,[44] những lằn hồng quang điển chư hiền nơi đây xung lên, vẹt đám mây mù hắc khí nơi
nầy. Nếu được, phổ độ thêm nhiều sanh linh, tạo nhiều hồng quang điển. Hễ hồng
quang điển đến đâu thì nạn tai tránh xa đến đó. Vì vậy, Bần Đạo khuyên người
tín đồ Đại Đạo, không luận chức sắc Thiên phong, đều có bổn phận tự giác, giác
tha;[45] làm thế nào để được xứng danh nghĩa Tam Kỳ Phổ Độ.
Chính trong thâm tâm chư hiền, mỗi người đều có, tạm gọi là
vốn liếng để thành Phật Tiên, Thánh Thần. Miễn chư hiền biết trọn lòng tư tưởng
đến việc làm cùng lời nói. Loại nào của các bực Phật Tiên, Thánh Thần nên nuôi
dưỡng mà tiến hành. Còn những tư tưởng, hành động, lời nói nào của ma quỷ phải
chừa ngăn. Có như vậy mới sớm toại nguyện.
Thử đặt câu hỏi: Nếu mình làm đúng, nói đúng, trong lúc đó có
người nói ngược lại, mình có bực tức, giận chăng? Nếu có tức là không được Phật
tánh.
Nếu khi gặp cơn đói lạnh, mình chỉ còn một chén cơm cho cả
gia đình, trong lúc đó gặp người hàng xóm xin chia bớt một phần, mình có chia
chăng? Nếu không tức là thiếu lòng bác ái, chẳng được thành Tiên.
Nếu khi cơn ghiền rượu đang hoành hành, ở nhà còn sót một vò
rượu ngon, hỏi mình có tự nhẫn kiên, không dùng rượu để sáng suốt tinh thần
tiếp điển hành pháp chăng? Nếu không nhẫn được là không thành Thánh.
Nếu cần một món tiền chia hai, bên ba phần, bên năm phần, cho
thân nhơn với một người láng giềng; có ưng lòng chia phần nhiều cho người hàng
xóm chăng? Nếu không thì chẳng được thành Thần.
Những sự kiện nghe qua rất tầm thường nhưng xét lại thật là khó
hành. Mà hễ khó hành thì không thành. Muốn thành, phải kiên nhẫn, hy sinh, đức
độ. Nếu ngược lại, bắt cá hai tay làm sao đắc quả, vì câu:
Thiên Đàng thì cũng muốn
lên,
Tiếc vì sự nghiệp một bên
còn nhiều.
THI
Chữ tâm luyện đặng sẽ
thành ngay,
Thành Phật, thành Tiên
một phút giây.
Chỉ ngại chữ tâm còn tấn
thoái,
Ngàn năm muôn kiếp chuyển
luân hoài.
THI BÀI
1. Chuyển luân hoài trả vay, vay trả,
Kiếp luân hồi buồn bã ai ôi!
Nếu khi hiểu rõ được rồi,
2. Một kiếp sống ở yên trần thế,
Hỏi mấy ai bách tuế thiên niên,[47]
Sống trong cõi tạm triền miên,
Tạm ăn, tạm ở, tạm duyên nợ đời.
3. Tạm thân xác ba hơi còn thở,[48]
Tạm cha con chồng vợ chị anh,
Tạm trong cái bại cái thành,
Cái quyền cái chức, cái danh, bạc tiền.
4. Tạm kêu gọi rằng tên Y, X,
Có ai tường tên thiệt mình chăng?
Sống trong vũ trụ trần hoàn,
Kiếp người hột cát so hàng cồn to.[49]
5. Mãi lặn hụp
trong lò luân chuyển,
Một kiếp người tai biến biết bao,
Hỏi coi những hạng sang giàu,
Xe hơi, tàu lớn, nhà lầu, của kho.
6. Hỏi ai được khỏi lo khỏi sợ?
Hỏi ai không mang nợ trần gian?
Hỏi ai có được thập toàn? [50]
Hay là cũng cảnh rộn ràng bối bê.
7. Cảnh ghen tức phu thê nem chả,[51]
Cảnh bạc bài gây họa gia cang,[52]
Cảnh bán chức, cảnh mua quan,
Cảnh đương nghèo túng, giàu sang tức thì.
8. Người tu niệm xét suy cho
kỹ,
Một kiếp người bền bỉ bao năm,
Quả công tua sớm nên làm,
Đó là vốn liếng muôn năm
cõi Trời.
(…)
Hỡi chư hiền sĩ, hiền muội!
Cơ Đạo hiện giờ tùy theo sáng kiến của đệ huynh, chung tay
xây dựng cơ quan Đạo nơi nầy.
Không nên nê chấp vì danh từ. Danh từ chỉ là hình thức xưng
hô, tùy thời biến chuyển, song song với nhu cầu của tinh thần chi phái Đạo. Sự
thật, danh từ nào cũng là giả cả. Chỉ tạm mượn mà gọi để thi hành cho kỳ được
mục phiêu Đại Đạo đó thôi.
Công quả hiền sĩ, hiền muội nơi nầy đã nhiều rồi, mặc dầu
chưa toại thành sở nguyện chớ vội nản lòng, vì chư hiền chỉ biết ngày nay, mà
không biết ngày mai cùng tháng tới. Nhìn gương tái ông thất mã [53] mà an phận hành đạo.
Cần nhớ điều nầy: Trời có xuân hạ thu đông, mưa gió cũng tùy
theo luật bốn mùa tám tiết.[54] Người sứ mạng hành đạo hãy nương theo đó, chớ không nên hành từng giai
đoạn.
Hướng đạo là tay cầm nước cờ, phải nhìn xa năm bảy nước, chớ
nóng lòng chiếu bí, lỡ vận không nên. Điều căn bản là dụng đức dung hòa, để gặp
thời cơ thuận buồm thẳng gió.
Hôm nay, Bần Đạo rất vui nhìn thấy tinh thần đạo đức gắn bó
của chư hiền sĩ, hiền muội các nơi về đây, chung dưới mái thánh đường. Bần Đạo
mong cho lòng đạo ấy mãi mãi càng gia tăng để chung lo xây dựng Đạo Trời trong
thời buổi chót của nguơn hạ.
THI
Điển lành ban bố nữ cùng nam.
Công quả độ nhơn ráng ráng làm,
Chèo chống thuyền từ qua biển loạn,
Mặc dầu sóng gió phải cho kham.
THI
Cho kham mới gọi đúng nhân hiền,
Tài đức chung nhau chữ cố kiên,
Việc khó ráng làm công mới đáng,
Đêm tàn nhựt lộ [55] ở bên hiên.
NGÂM
Ban ân toàn thể chư hiền,
Chữ tâm gìn giữ cho siêng
hằng ngày.
Nghĩa nhân công quả cần
chuyên,
Cho qua buổi khổ nên hiền
nên nhân.
Xả đàn đồng tử dưỡng
thần,
Điển linh vội rút, cõi
trần lui chơn.
Thăng.
Phụ Lục: Tái ông thất mã
Một ông sống gần biên giới (biên tái) có nuôi con ngựa. Một
hôm con trai ông lơ đễnh để sổng ngựa chạy qua bên kia biên giới mất dạng. Xóm giềng
đến chia buồn. Ông bình thản nói: “Biết đâu con ngựa chạy mất lại là điều tốt.”
Vài tháng sau, con ngựa ấy trở về, dẫn theo một con ngựa từ
nước bên kia. Xóm giềng đến chúc mừng. Ông bình thản nói: “Biết đâu con ngựa mới
nầy lại là điều rủi.”
Con trai ông thử cỡi con ngựa mới. Nó chưa thuần nết, nhảy
loạn lên. Con ông bị hất xuống, gãy xương đùi, bị què. Xóm giềng đến chia buồn.
Ông bình thản nói: “Biết đâu tai nạn nầy lại là phúc.”
Năm sau có ngoại xâm, trai tráng đều phải tòng quân. Con ông
bị què nên được miễn dịch.
(Sách Hoài Nam Tử)
Người Anh, người Mỹ nói: Every dark cloud has a silver lightning. (Mỗi đám mây đen đều có làn chớp bạc.) Nghĩa là từ chuyện rủi ro xảy đến cho mình, chúng ta có thể rút ra được một lợi ích nào đó. Họ cũng nói: A blessing in disguise (một ơn phước được ngụy trang). Nghĩa là một việc gì thoạt xem thì tưởng là xấu mà về sau lại hóa ra tốt lành.[57]
sĩ 士:
Học trò, những người học đạo. Mỹ từ gọi đàn ông. Thi Kinh
詩經 (Trịnh
Phong 鄭風): Nữ viết:
Kê minh; sĩ viết: Muội đán. 女曰:
雞鳴; 士曰:
昧旦. Nàng nói: Gà gáy; chàng nói: Trời sáng rồi.
Khi dùng kèm với chư hiền muội thì hiểu
chư hiền sĩ có nghĩa như chư hiền đệ.
hiền
賢: [danh từ] Người có đức hạnh, tài năng (worthy). Thí dụ: tuyển hiền dữ
năng 選賢與能 (chọn người đức hạnh và tài năng). [đại từ] Tiếng trọng kính gọi người trước mặt (ngôi thứ hai), thay vì
gọi ông / ngài. Trong thánh giáo,
thay vì gọi chư hiền đệ, hiền muội,
Ơn Trên gọi chư hiền. [tính từ] Có tài đức. Thí dụ: hiền
thần 賢臣 (bề tôi tài đức). [tính từ] Dùng để gọi người khác một cách tôn kính. Thí dụ: gọi mẹ là
hiền mẫu 賢母; gọi vợ là hiền thê 賢妻 / hiền nương 賢娘; gọi anh là hiền huynh 賢兄; gọi chị là hiền tỷ 賢姊;
gọi em trai là hiền đệ 賢弟; gọi em gái là hiền muội 賢妹.
[7] âm chất 陰騭 / hidden
good deeds: Âm công 陰功 / âm đức 陰德. Việc lành, việc thiện không phô trương (tuy
che giấu người đời nhưng Trời Phật Thánh Thần đều biết).
Chúa Giêsu dạy làm âm chất như sau: Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi
chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được
Cha của anh em, Ðấng ngự trên trời, ban thưởng. (Matthêu 6:1); Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết
việc tay phải làm, để việc anh bố thí
được kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho
anh. (Matthêu 6:3-4)
[9] bồ liễu 蒲柳: bồ
/ various monocotyledonous flowering
plants including Acorus calamus and Typha orientalis: cây cói, lác (dùng
làm chiếu, giỏ, quạt…); liễu / willow: loại cây mềm yếu, cành lá rủ
xuống. bồ liễu / liễu bồ / women, as compared
to slender and weakly willow: Phụ nữ (vì phần đông họ thường mảnh mai,
yếu ớt như cây bồ, cây liễu).
[30] thất tình 七情 / the seven emotions: Bảy tình cảm
là mừng (hỷ 喜 / joy), giận (nộ 怒 / anger), yêu (ái 愛 / affection), ghét (ố
惡 / hatred), buồn (ai
哀 / sorrow), vui (lạc
樂 / cheerfulness), sợ (cụ 懼 / fearfulness).
lục dục 六欲 / the six desires: Sáu ham muốn do sáu căn (lục căn 六根 / the six senses: gồm mắt, tai, mũi, lưỡi, thân xác, ý nghĩ / eye, ear, nose, tongue, body, mind) tiếp xúc với ngoại giới: Mắt
muốn nhìn đẹp, tai muốn nghe hay, mũi muốn ngửi thơm, lưỡi muốn nếm ngon, thân
xác muốn sung sướng, ý nghĩ muốn vui.