Thứ Bảy, 13 tháng 2, 2016

ĐĐVU 05 / GIÓ BỐN PHƯƠNG / Huệ Khải

Gió muốn thổi đâu thì thổi. (Gioan 3:8)

* Đạo hữu LÊ THỊ MINH NGUYỆT (TT Đô Thành, HT Cao Đài Ban Chỉnh Đạo): Nhiêu Tâm, P5, Q5, TpHCM.
(Trích tin nhắn qua điện thoại di động 05-12-2012.)
“Đạo muội đang đọc Văn Uyển 3 và không hiểu sao mỗi khi đọc Văn Uyển là đạo muội lại khóc. Đọc cuốn Ơn Gọi Miền Trung [của GS Phạm Văn Liêm] cũng khóc. Thương quá các vị tiền bối, thương quá các huynh tỷ dày công khổ nhọc để cơ Đạo được phát triển trong thời chiến tranh loạn lạc. Ước gì có tiền, thay vì đi du lịch thăm chỗ này chỗ nọ thì đạo muội chỉ đến thăm từng thánh thất, thánh tịnh để tìm lại tình thương và hơi ấm của người xưa còn lưu lại.”
l Ban Ấn Tống: Đọc tin nhắn của hiền tỷ, chúng tôi cũng xúc động trước tình cảm đơn sơ giản dị mà rất chơn thật của một bạn đạo. Xin cảm ơn hiền tỷ đã chia sẻ.
* Đạo hữu TRƯƠNG VĂN ĐÀI (chợ Long Hoa, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh):
“Trong loạt thi bài Ngụ Đời của Đức Lý Thái Bạch giáng cơ ngày mùng 8 tháng Chạp Bính Dần (11-01-1927), ở bài số 2 (điệu Lưỡng Nghi) có bốn câu như sau:
Xem qua như chốn hý tràng
Lẻ loi mặt nịnh lỡ làng phận trung
Chẳng ai nắm kiếm Thư Hùng
Thành nghiêng khôn đỡ, vạc rùng khôn nâng.
Kính nhờ Văn Uyển giải nghĩa giùm bốn câu thơ trên.”
(Trích e-mail ngày 28-12-2012.)
l Huệ Khải:  Con mái gọi là thư , và con trống gọi là hùng . Nữ có tài hơn người gọi là anh thư (như Bà Trưng, Bà Triệu…) và nam có tài hơn người gọi là anh hùng 英雄 (như Nguyễn Huệ, Nguyễn Trung Trực…). Vậy thư hùng ám chỉ những trang nam nữ tài giỏi. Đây không phải là danh từ riêng nên không cần viết hoa. Chẳng ai nắm kiếm thư hùng nghĩa là lúc đất nước nguy biến không có trang anh thư và đấng anh hùng nào ra tay cứu quốc.
Khôn đỡ, khôn nâng tức là không đỡ nâng. Khôn có nghĩa là không, như nói: khôn xiết, khôn cùng, khôn nguôi.
Thành là thành trì.
Vc hay đỉnh , thường đúc ba hay bốn chân, trên miệng có hai tai. Vua Vũ nhà Hạ (2205-2198 trước Công Nguyên) thu gom vàng trong chín châu, đúc làm chín cái đỉnh. Cuối năm 1835, để làm biểu tượng cho quyền lực và sự vững bền của vương triều, vua Minh Mạng (trị vì 1820-1840) noi theo Hạ Vũ cũng ra lệnh đúc ở Huế chín cái vạc đồng (cửu đỉnh 九鼎), hoàn thành đầu năm 1837, và đặt trước Hiển Lâm Các, đối diện Thế Miếu, phía Tây Nam hoàng thành.

Image result for 鼎

Trong văn học, ai lấy được thiên hạ (lên làm vua) gọi là định đỉnh 定鼎; việc phò vua giúp nước trong lúc có loạn gọi là đỡ vạc nâng thành.
Cũng như khá nhiều sách trong đạo Cao Đài có in bài thơ này, chữ rùng mà đạo hữu viết trong thư không đúng chánh tả. Nên viết đúng là rùn. Người miền Nam hay mắc phải những lỗi thường gặp như rùn / rùng, tàn / tàng, sàn / sàng… cũng bởi ảnh hưởng cách phát âm. Do đó, chúng ta cần hiểu rõ nghĩa để phân biệt từng chữ mà viết cho đúng chánh tả.
Rùn nghĩa là co lại, thâu ngắn lại cho thấp xuống, thí dụ: rùn vai (xuôi hai vai xụi xuống), rùn gối (uốn gối, xuống gối, đứng không thẳng gối), rùn cổ (thụt cổ xuống), rùn lưng (cong lưng, uốn lưng cong lại)…
Cái vạc có ba (hay bốn) chân đều nhau thì đứng vững vàng. Nếu một chân vạc vì lý do nào đó bị cong lại (rùn chân) thì cái vạc nặng nề tất nhiên nghiêng lệch về chỗ chân rùn, ắt là mất thăng bằng, phải đổ nhào.
Tóm lại, hai câu thơ trên than thở cảnh đời giống như chốn vui chơi, nơi diễn tuồng hát (hý tràng, hý trường 戲場) kẻ nịnh chen lộn với người trung. Hai câu thơ dưới than thở trong lúc nước nhà nguy biến, loạn lạc lại không có ai là trang anh hùng, bậc nữ kiệt ra tay chống đỡ, cứu dân cứu nước.
HUỆ KHẢI