Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

ĐĐVU 07-08 / ĐẠO CAO ĐÀI MƯỜI NĂM GẦN ĐÂY / Hữu Đạo

Image result for đạo cao đài
VĂN UYỂN trân trọng giới thiệu với quý đạo hữu bài viết sau đây, như góc nhìn của một cá nhân. Mặc dù bài viết còn thiếu sót mặt này mặt khác, nhưng với óc cầu thị, người đạo chúng ta có thể tham khảo và suy gẫm
*
Những trang sau đây khảo sát hoạt động đạo Cao Đài trong khoảng mười năm gần đây (2001-2010).
Trong thực trạng các cộng đồng Cao Đài còn đang phải tiếp tục tự vận động để có thể kết nối chặt chẽ nhiều hơn nữa so với thời kỳ phân hóa xa xưa đang lui dần vào dĩ vãng; trong hoàn cảnh các số liệu thống kê của tất cả các cộng đồng Cao Đài trong cả nước vẫn chưa được những bộ phận hữu quan chú ý tổ chức thu thập triệt để và hữu hiệu; và do điều kiện làm việc hạn chế của một cá nhân vốn dĩ rất khó tiếp cận được đầy đủ các cộng đồng Cao Đài trong cả nước, những trang sau đây chỉ mới tạm khai thác một ít số liệu chọn lọc tổng hợp được từ một số phúc trình đạo sự hàng năm của ba Hội Thánh Cao Đài ở miền Tây và hai Hội Thánh Cao Đài miền Trung.
Mặc dầu chỉ mới thu thập được số liệu của năm Hội Thánh trong số chín Hội Thánh Cao Đài đã được công nhận tư cách pháp nhân (1995-2000), nhưng xét ra đây lại là năm Hội Thánh có tầm hoạt động liên tục và tích cực về phương diện xã hội, vì thế các số liệu cụ thể thu thập từ năm Hội Thánh này trong chừng mức nào đó có thể tạm minh họa bước đầu cho việc khảo sát hoạt động của đạo Cao Đài trong mười năm 2001-2010, rồi từ đó thử xem đến những vấn đề cần đặt ra để góp phần tiếp tục phát huy tác dụng tích cực của các hoạt động này, trong định hướng đem Đạo xây đời, lấy đạo pháp vun bồi cho cuộc sống ấm no và hạnh phúc của dân tộc Việt Nam, vốn là một giá trị nhân bản mà từ ban sơ đạo Cao Đài đã sớm minh định.
I. NHÌN LẠI HOẠT ĐỘNG MỘT SỐ HỘI THÁNH CAO ĐÀI
1. HỘI THÁNH CAO ĐÀI TIÊN THIÊN
MỘT SỐ THÀNH TỰU TRONG MƯỜI NĂM QUA (2001-2010)
Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên (Tòa Thánh Châu Minh, xã Tiên Thủy, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) được công nhận tư cách pháp nhân do Quyết Định số 51/QĐ/TGCP ngày 29-7-1995 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ.
Trong mười năm (2001-2010), với địa bàn hành đạo trải rộng ở mười sáu tỉnh, thành, Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên có một số thành tựu như sau:

2001-2005
2006-2010
Ban đại diện
ở tỉnh, thành phố
12 tỉnh
2 thành phố
12 tỉnh
2 thành phố
Ban cai quản thánh tịnh
105
?
Ban nhạc lễ
36
?
Tu tập (thiền)
13 khóa
(206 chức sắc)
?
Đào tạo
(hạnh đường)
32 khóa
(2.728 học viên)
38 khóa
(4.796 học viên)
Tu bổ, tạo tác
27 thánh sở
(tổng chi phí ?)
Tổng chi phí hơn
13,137 tỷ đồng
In kinh sách
?
5.820 quyển (101.763.000VNĐ)
Từ thiện,
xã hội (*)
hơn 16,861 tỷ đồng
hơn 30,047 tỷ đồng
(*) Từ thin, xã hi bao gồm: Phòng thuốc dân tộc, khám bệnh, trị bệnh, phát thuốc; tặng hòm (quan tài) và mai táng miễn phí, xây nhà tình nghĩa và nhà tình thương; cứu trợ; khuyến học; trợ giúp bệnh nhân HIV/AIDS, chất độc màu da cam, khuyết tật …
Bảng tóm tắt trên đây cho thấy Hội Thánh Cao Đài Tiên Thiên làm rất tốt công tác từ thin, xã hi.
2. HỘI THÁNH CAO ĐÀI MINH CHƠN ĐẠO
MỘT SỐ THÀNH TỰU TRONG MƯỜI NĂM QUA (2001-2010)
Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo (Tòa Thánh Ngọc Sắc, xã Hồ Thị Kỷ, huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau) được công nhận tư cách pháp nhân do Quyết Định số 39/QĐ/TGCP ngày 02-8-1996 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ. Trong mười năm (2001-2010), Hội Thánh có một số thành tựu như sau:
Tín đồ. Dân số trung bình hiện nay của tỉnh Cà Mau là 1.200.000 người, với 20 dân tộc khác nhau, trong đó người Kinh chiếm 97,16%. Trong mười năm qua, tín đồ Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo chiếm tỷ lệ từ 2,4 tới 2,7% dân số của tỉnh. Như vậy, tuy không thật sự có đông tín đồ so với các Hội Thánh khác, nhưng số tín đồ của Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo vẫn có tăng. Bình quân số tín đồ tăng thêm khoảng 368 người/năm. Cụ thể, số tín đồ của Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo trong mười năm qua được ghi nhận như sau:
Năm
Số tín đồ
Tăng
Năm
Số tín đồ
Tăng
2001
29.106
?
2006
31.077
+ 162
2002
29.975
+ 869
2007
31.386
+ 309
2003
30.590
+ 615
2008
31.999
+ 613
2004
30.789
+ 199
2009
32.588
+ 589
2005
30.915
+ 126
2010
32.787
+ 199
Xây dựng, sửa chữa thánh sở. Trong mười năm qua Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo đã tiến hành xây dựng, tu bổ, sửa chữa được ba mươi ba thánh sở (đền thờ, thánh thất, Tòa Thánh, sân đậu xe tại Tòa Thánh). Cụ thể như sau:
Năm
Số thánh sở
Năm
Số thánh sở
2001
3
2006
4
2002
1
2007
3
2003
1
2008
3
2004
6
2009
4
2005
4
2010
4
Hoạt động từ thiện. Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo có địa bàn hành đạo ở vùng đất mũi là nơi mà 80% dân số của tỉnh là nông dân, GDP đầu người của tỉnh là 17 triệu đồng/năm (2009). Trong mười năm qua, Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo đã huy động được nguồn tài lực từ bổn đạo khá phong phú để tham gia làm từ thiện xã hội. Tổng số tiền đạt được trong công tác từ thiện xã hội của Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo là 15 tỷ 481 triệu 171 ngàn đồng (bình quân 1,55 tỷ đồng/năm). Cụ thể như sau:
Năm
Số tiền (đồng)
Năm
Số tiền (đồng)
2001
980.270.000
2006
1.182.095.000
2002
1.087.365.000
2007
1.243.925.000
2003
1.488.510.000
2008
1.982.095.000
2004
1.114.345.000
2009
2.249.479.000
2005
1.209.780.000
2010
2.943.307.000
Tổng cộng: 15.481.171.000 đồng
Song song với hoạt động từ thiện (cứu trợ đồng bào bị thiên tai…) như kể trên, Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo còn thường xuyên thực hiện công tác khám bệnh và phát thuốc miễn phí (thuốc nam, đông y) cho đồng bào. Trong mười năm 2001-2010, Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo đạt được kết quả như sau:
Năm
Lượt người
Số thang thuốc đã cấp
Trị giá (đồng)
2001
54.724
163.172
x
3.000
đồng
một thang
489.516.000
2002
77.542
231.626
674.878.000
2003
96.781
296.377
688.831.000
2004
98.074
308.492
625.476.000
2005
72.117
216.351
649.053.000
2006
64.224
192.672
577.916.000
2008
58.971
206.983
620.749.000
2009
41.241
154.003
x
4.000
đồng /
thang
616.012.000
2010
58.384
165.105
660.420.000
Tổng cộng
684.401
lượt người
2.111.694
thang thuốc
6.133.590.000
đồng
Để củng cố và phát triển nội lực, đồng thời tiếp tục nuôi dưỡng truyền thống hành đạo phụng sự đất nước, tri ân các bậc đàn anh hướng đạo đã trọn đời hy sinh vì hạnh phúc dân tộc và độc lập tự do của Tồ Quốc Việt Nam, Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo trong mười năm 2001-2010 đã thực hiện được một số việc đạo có ý nghĩa quan trọng như sau:
2001: Tổ chức Đại Hội Đại Biểu Nhơn Sanh lần thứ nhứt.
2002: Bổ sung sử liệu về tiền bối Bảo Đạo Cao Triều Phát (1889-1956), và di tích lịch sử Ngọc Minh (mặt trận Giồng Bốm), có Đài Truyền Hình Tp.HCM yểm trợ.
* Làm phim tài liệu về cuộc đời anh lớn Ngô Tâm Đạo, chưởng quản Hiệp Thiên Đài, và di tích lịch sử Ngọc Sắc, do Đài Phát Thanh và Truyền Hình Cần Thơ thực hiện.
2003: Cùng với các Hội Thánh bạn tổ chức Hội Nghị chuyên đề về nghi lễ, nhằm hướng tới việc hình thành một nghi lễ thống nhứt, áp dụng chung cho toàn Đạo.
* Đại Hội Phái Nữ lần II, nhiệm kỳ 1998-2003, triển khai chủ đề “Nữ phái Minh Chơn Đạo giỏi việc nước, giỏi việc đạo, đảm việc nhà”. Mục đích là để góp phần nâng cao nữ quyền vốn là một nội dung quan trọng của giáo lý Cao Đài từ ban sơ mở Đạo.
2004: Nhân rằm tháng 8, đại lễ kính mừng Đức Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu Vô Cực Từ Tôn, tổ chức Hội Nghị nữ chức việc Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo.
* Truy phong chức sắc danh dự cho các bà Mẹ Việt Nam anh hùng và Lễ Sanh (lên phẩm Giáo Hữu), các phẩm Giáo Hữu và Giáo Sư cũng được thăng một cấp lên Giáo Sư và Phối Sư.
* Tổ chức hội thảo “Đạo Cao Đài đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc” (trong hai ngày 21 và 22-11-2004). Có sự tham dự của Ban Tôn Giáo Chính Phủ, Ban Dân Vận, Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, Ban Tôn Giáo năm tỉnh miền Tây Nam Bộ, các Hội Thánh và thánh sở bạn, v.v…
* Kỷ niệm năm mưoi năm tái lập Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo (15-10-1954 / 15-10-2004).
2005: Vận động xây dựng đền thờ Trung Liệt Thánh (di tích lịch sử Ngọc Minh, mặt trận Giồng Bốm).
2006: Kỷ niệm sáu mưoi năm mặt trận Giồng Bốm, khánh thành đền thờ Trung Liệt Thánh.
* Tổ chức Đại Hội Đại Biểu Nhơn Sanh lần thứ ba.
2007: Ngày 11-6, Tòa Thánh Ngọc Sắc được công nhận là di tích lịch sử - văn hóa cấp tỉnh.
2008: Ngày 24-3, họp mặt giao lưu các Hội Thánh và tổ chức Cao Đài lần I.
* Đại Hội Đại Biểu Nữ Phái Minh Chơn Đạo lần III (2003-2013).
2009: Phối hợp các Hội Thánh, tổ chức Cao Đài cứu trợ đồng bào bị thiên tai tại miền Trung.
2010: Tổ chức khóa hạnh đường để bồi dưỡng giáo lý cho hai phẩm Lễ Sanh và Giáo Hữu. Có 272 chức sắc tham dự (nam 127, nữ 145).
* Phối hợp các Hội Thánh, tổ chức Cao Đài cứu trợ đồng bào bị thiên tai tại miền Trung.
* Hội Nhơn Sanh công cử chức sắc từ phẩm Lễ Sanh đến Chánh Phối Sư, để chuẩn bị nhân sự cho nhiệm kỳ 2011-2016.
Nhìn lại một số thành tựu Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo đạt được trong mười năm qua, có thể thấy, tuy ở vùng đất mũi, là nơi còn khá nhiều khó khăn so với các tỉnh thành trung ương và trọng điểm của cả nước, nhưng Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo thật sự đã trụ vững được và tiếp tục phát triển.
Các kết quả nêu trên có thể chưa lớn lắm nếu đem so sánh với một số nơi khác, nhưng nên nhìn vào thực trạng hiện nay là Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo vẫn đang phải đối mặt với vấn nạn thiếu đội ngũ kế thừa có trình độ để thay thế dần dần lớp đàn anh lớn tuổi. Bên cạnh đó, như người xưa đã tổng kết “Có thực mới vực được đạo”, Hội Thánh Cao Đài Minh Chơn Đạo vẫn đang phải khắc phục một trở ngại chung của nhiều Hội Thánh Cao Đài là thiếu tài chánh để yểm trợ các hoạt động tôn giáo và xã hội.
3. HỘI THÁNH TRUYỀN GIÁO CAO ĐÀI
MỘT SỐ THÀNH TỰU TRONG NĂM NĂM QUA (2006-2010)
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài (Trung Hưng Bửu Tòa, số 63 đường Hải Phòng, phường Thạch Thang, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng) được công nhận tư cách pháp nhân do Quyết Định số 40/QĐ/TGCP ngày 24-9-1996 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ.
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có các thánh sở trực thuộc hành đạo ở mười sáu tỉnh, thành. Trong năm năm vừa qua (2006-2010), Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài đạt được một số thành tựu đáng chú ý như sau:
Đào tạo, huấn luyện. Các hội nghị định kỳ tại Trung Hưng Bửu Tòa (Đà Nẵng) thường có trên 200 chức sắc, chức việc tham dự.
Các khóa học giáo lý và bồi dưỡng nghiệp vụ định kỳ tại các họ đạo từ trung ương tới địa phương, mỗi nơi thường có trên 100 chức việc tham dự.
Mỗi năm tổ chức hai khóa bồi dưỡng kỹ năng hành đạo (phổ tế), kiểm tra giáo lý cho giới trẻ tại nhiều họ đạo từ trung ương tới địa phương.
Mỗi đầu niên khóa, tổ chức thánh lễ nhập học trợ duyên cho sinh viên, học sinh có đạo Cao Đài.
Hoàn tất khóa học hàm thụ năm năm cho chức việc nữ phái các họ đạo.
Tạo tác. Khánh thành các thánh thất Trung Kiên (Quế Sơn, Quảng Nam), Trung Bảo (Đồng Nai).
Xây dựng thánh thất Minh Đức (Phú Yên), nhà tu Phước Huệ Đàn (Tam Kỳ), nhà an dưỡng chức sắc nữ phái (Hội An).
Tăng trưởng. Thành lập thêm cơ sở đạo tại Thanh Hóa, Quảng Điền (Daklak), Trung Sơn (Đà Nẵng).
Từ thiện, xã hội. Tham gia quỹ vì người nghèo (Ủy ban Mặt trận Tổ quốc thành phố Đà Nẵng phát động).
Duy trì nồi cháo tình thương giúp người bệnh tại bệnh viện đa khoa Đà Nẵng và bệnh viện tâm thần.
Cứu trợ nạn nhân thiên tai, chẩn tế giúp đồng bào nghèo.
Tổng quát về các mặt phát triển

2006
2010
Tăng
Tín đồ (*)
41.162
46.143
+ 4.981
Họ đạo
52
64
+ 12
Cơ sở đạo
7
11
+ 4
Nhà tu
4
5
+ 1
Đại diện ở tỉnh, thành
3
5
+ 2
Làm từ thiện (đồng)
1 tỷ
2,038 tỷ
+ 1,038 tỷ
(*) Tín đồ tăng bình quân 996 người/năm.
Nhìn chung, Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài có những mặt phát triển khá đồng đều. Đây là một Hội Thánh có trình độ tổ chức và nghị lực tiến thủ. Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài rất quan tâm hai mặt đào tạo, huấn luyện cũng như phát triển cơ sở vật chất và con người.
So với các Hội Thánh Cao Đài khác, Hội Thánh Truyền Giáo thường được biết tới là một cộng đồng có kế hoạch đào tạo, huấn luyện nhân sự thường xuyên và rộng khắp từ trung ương tới địa phương.
4. HỘI THÁNH CAO ĐÀI BAN CHỈNH ĐẠO
MỘT SỐ THÀNH TỰU TRONG MƯỜI NĂM QUA (2001-2010)
Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo (Tòa Thánh Bến Tre, số 100C đường Trương Định, phường 6, thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre) được công nhận tư cách pháp nhân do Quyết Định số 26/QĐ/TGCP ngày 08-8-1997 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ.
Năm 2011 Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo có 301 thánh thất hoạt động ở hai mươi lăm tỉnh, thành phố trên cả ba miền Nam, Trung, Bắc.
Số tín đồ có tăng thêm mỗi năm. Do số liệu trong các phúc trình hành đạo mỗi năm phản ánh không đầy đủ, tạm thời ghi nhận số tín đồ của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo trong mười năm qua như sau:
Năm
Số tín đồ
Tăng
Năm
Số tín đồ
Tăng
2004
?
+ 659
2008
?
+ 736
2005
?
+ 889
2009
786.521
?
2006
?
+ 1.002
2010
789.000
+ 2.479
Xây dựng, sửa chữa thánh sở. Trong mười năm qua Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo đã tiến hành xây dựng, tu bổ, sửa chữa được khá nhiều thánh sở từ trung ương tới địa phương. Cụ thể tổng chi phí như sau:
Năm
Tổng chi phí (đồng)
Năm
Tổng chi phí (đồng)
2001
Trên 1,5 tỷ
2006
Trên 2,427 tỷ
2003
2,636 tỷ
2008
Trên 4,751 tỷ
2004
Trên 5,19 tỷ
2009
Trên 5,082 tỷ
2005
?
2010
Gần 3,133 tỷ
Hoạt động từ thiện. Trong mười năm qua, Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo đã huy động được nguồn tài lực từ bổn đạo khá phong phú để tham gia làm từ thiện xã hội. Tổng số tiền đạt được trong công tác từ thiện xã hội của Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo lên tới nhiều tỷ đồng. Do số liệu phản ánh không đầy đủ, tạm ghi nhận như sau:
Năm
Số tiền (đồng)
Năm
Số tiền (đồng)
2001
Trên 410.000.000
2006
979.805.000
2003
1,253 tỷ + hiện vật
2008
Gần 1,610 tỷ
2004
588.659.670 + hiện vật
2009
Gần 1,480 tỷ
2005
hơn 5, 892 tỷ
+ chữa bệnh, thuốc
2010
Hơn 1,856 tỷ
Lưu ý: Các số liệu nêu trên không tính các hiện vật như số gạo phục vụ mục đích cứu trợ, từ thiện xã hội, v.v…
Song song với hoạt động từ thiện (cứu trợ đồng bào bị thiên tai…) như kể trên, Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo còn thường xuyên thực hiện công tác khám bệnh, chữa bệnh và phát thuốc miễn phí (thuốc nam, đông y, châm cứu) cho đồng bào. Trong mười năm 2001-2010, Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo đạt được kết quả như sau:
Năm
Lượt người bệnh
Số thang thuốc đã cấp
Trị giá (đồng)
2001
99.408
358.732
509.101.000
2003
105.791
237.687
444.158.500
2004
253.561
258.669
278.374.670
2005
(+ cứu trợ)
5.892.943.891
2006
140.200
?
1.205.450.000
2010
207.746
1.044.479
?
Tổng Cộng
684.401
2.111.694
6.133.590.000 đồng
Huấn luyện, đào tạo (các khóa hạnh đường, bồi dưỡng giáo lý ngắn hạn). Trong một phúc trình chung niên, Hội Thánh tự đánh giá việc đào tạo, huấn luyện vẫn chưa được thường xuyên. Số liệu báo cáo ghi nhận được cũng không nhất quán (năm thì ghi số lớp, năm thì ghi địa điểm, năm thì ghi số người…), do đó gây trở ngại cho người quan tâm muốn tìm hiểu mức phát triển của Hội Thánh về phương diện đào tạo. (Một Hội Thánh vững mạnh là Hội Thánh có tăng trưởng đều về đào tạo nhân sự, bồi dưỡng giáo lý…) Các số liệu sau đây không phản ánh các khóa tu tịnh (thiền), tạm ghi nhận như sau:
Năm
Số học viên
Năm
Số học viên
2001
1.008
2005
443
2003
237
2009
484
2004
989
2010
618
Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo là một trong những Hội Thánh mạnh, có nhiều nỗ lực để củng cố và phát triển. Tuy nhiên Hội Thánh vẫn có khó khăn chung của các Hội Thánh khác là còn thiếu nhân sự lãnh đạo có năng lực và sức khỏe để điều hành việc đạo hiệu quả trên một địa bàn trải rộng hai mươi lăm tỉnh thành ở cả ba miền. Bên cạnh đó, vẫn còn một số ít thánh thất chưa chịu hoàn nguyên, tức vẫn tách rời sự lãnh đạo của Hội Thánh, làm suy yếu phần nào nội lực của Hội Thánh. Rất mừng là số lượng “đứng ngoài” này hàng năm đều có giảm dần, chứng tỏ Hội Thánh đã và đang có sức thuyết phục nhất định. (Điều này cũng đúng với một số Hội Thánh khác.)
Cũng như được phản ánh qua số liệu của một số Hội Thánh Cao Đài khác trên đây, trong mười năm qua Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo đã làm được khá nhiều về mặt tích cực tham gia công ích xã hội, cứu tế đồng bào nghèo và nạn nhân thiên tai…
Điều này một lần nữa cho thấy tấm lòng nhân ái của người đạo, người tu hành ngõ hầu làm vơi bớt những khổ đau, thiệt thòi của đồng bào ruột thịt, thực thi đúng huấn từ của Đức Cao Đài Tiên Ông khuyên nhủ con cái trần gian:
Con ôi! cuộc thế khổ đau
Ráng mà dìu dắt đồng bào nhứt tâm.
Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo cũng như các Hội Thánh khác có điều kiện sửa chữa, xây mới thánh sở từ trung ương tới địa phương; điều này có lợi cho cả Đạo và đời.
- Về phía Đạo, tín đồ hài lòng, yên tâm tu hành…
- Về phía đời, nếu các cơ sở thờ tự được chỉnh trang cho tốt đẹp hơn, giải quyết được những hậu quả của chiến tranh còn để lại (vì nhiều thánh sở nằm ở nông thôn, trong vùng giao tranh xưa kia), thì bộ mặt tôn giáo của đất nước thêm phần mỹ quan, ít ra là nhìn từ bên ngoài.
5. HỘI THÁNH CAO ĐÀI CẦU KHO – TAM QUAN
MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG TRONG BA NĂM 2007, 2008, 2010
Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan (Tòa Thánh Tam Quan, thị trấn Tam Quan, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định) được công nhận tư cách pháp nhân do Quyết Định số 199/2000/QĐ-TGCP ngày 28-4-2000 của Ban Tôn Giáo Chính Phủ.
Khi trình bày kết quả hành đạo của năm Hội Thánh Cao Đài, căn cứ theo trình tự thời gian, tính từ khi mỗi Hội Thánh được công nhận tư cách pháp nhân, cho nên Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan được trình bày sau cùng, và đây lại là Hội Thánh eo hẹp, khó khăn nhất so với bốn Hội Thánh khác.
Tín đồ của Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan phần lớn ở vùng nông thôn. Nông dân Bình Định chiếm 74,8% dân số tỉnh. Mặt khác, dân số tỉnh đang có xu hướng giảm cơ học, theo kết quả điều tra chính thức của Nhà Nước (www.binhdinh.gov.vn) vào ngày 01-4-2009, dân số tỉnh Bình Định chỉ còn 1.485.943 người. Điều này gợi cho thấy cuộc sống ở tỉnh có khó khăn, và phần lớn dân chúng đang có xu thế tha phương cầu thực, tự ý di dân vào các đô thị khác mong được dễ sống hơn.
Như thế cũng có nghĩa là đời sống tín đồ Cao Đài Bình Định, những người còn trụ lại ở tỉnh này thật sự không dễ dàng. Đó là lý do trong các phúc trình hành đạo hàng năm, Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan đều ghi nhận tình trạng thiếu chức sắc, chức việc hy sinh để chuyên trách việc đạo, bởi vì cuộc sống đời thường vốn quá bức bách!
Điều này cũng giải thích lý do vì sao kết quả hành đạo của Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan trong ba năm 2007, 2008, 2010 đều phản ánh một kết quả khá chênh lệch so với Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài ở Đà Nẵng, và còn chênh lệch rất nhiều so với ba Hội Thánh khác trong Nam.
Vì chưa thu thập đủ số liệu của Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan trong mười năm gần đây (2001-2010), nên thay vào đó, tạm dùng số liệu của ba năm 2007, 2008 và 2010 để có thể tạm hình dung được phần nào kết quả hành đạo của Hội Thánh này.
2007: Khánh thành Điện Thờ Đức Chí Tôn tại Hội Thánh (xây mới hoàn toàn). Đây là một thành tựu lớn nhất của Hội Thánh trong thời gian qua.
2008: Có hai kỳ đại lễ quy tụ được 1.000-2.500 tín đồ.
Đào tạo được một ít theo hình thức hàm thụ (gởi bài từ xa).
Công tác từ thiện đạt được 85 triệu đồng.
2010: Tổ chức được hai khóa học hạnh đường ngắn ngày, quy tụ được khoảng 120 học viên mỗi kỳ. Một vài đại lễ trong năm có thể quy tụ được 400-700 tín đồ các nơi về Hội thánh chầu lễ.
Cứu trợ thiên tai ở Quảng Bình, công quả 178 triệu đồng.
Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho – Tam Quan chỉ còn hai mươi ba thánh thất (họ đạo) so với trước kia là hai mươi chín. Có một họ đạo tại tỉnh Quảng Ngãi đã “quy nhập” sang Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài. Còn lại năm họ đạo ở Cự Lễ, Kontum, Mỹ Nam, Phú Hữu và Phụng Sơn tuy được thành lập với đầy đủ bộ máy chức sắc, chức việc cai quản, nhưng Hội Thánh chưa được phép xây dựng thánh thất.
5. MỘT SỐ THÀNH TỰU NỔI BẬT CÓ TÍNH CÁCH LIÊN-HỘI-THÁNH
Liên giao. Những năm gần đây, các Hội Thánh Cao Đài càng lúc càng có thêm điều kiện hợp tác chặt chẽ hơn.
Hậu quả của thời kỳ phân hóa do lịch sử để lại dần dần được cải thiện. Điều này thấy rõ qua các hoạt động có tính cách liên-Hội-Thánh:
- Ba năm 2008, 2009, 2010 các Hội Thánh Cao Đài ở hai miền Trung và Nam tổ chức Hội Nghị Giao Lưu luân phiên ở Hội Thánh Minh Chơn Đạo (Cà Mau), Tiên Thiên, Ban Chỉnh Đạo (Bến Tre).[1]
- Các Hội Thánh thường xuyên tổ chức thành phái đoàn hỗn hợp trong các công tác cứu trợ, trao đổi và nghiên cứu giáo lý, ngoại giao với các cơ quan chánh quyền, đoàn thể xã hội. Các phái đoàn này cũng đều đặn thực hiện thăm viếng, chúc Tết, mừng lễ kỷ niệm lớn của các tôn giáo bạn.
Văn hóa.
- Báo chí: Tháng 9-2009 ra được Tạp Chí Cao Đài làm diễn đàn chung cho các Hội Thánh Cao Đài. Tòa soạn hiện đặt tại Hội Thánh Cao Đài Ban Chỉnh Đạo (Bến Tre).
- Xuất bản: Từ tháng 6-2008 tới tháng cuối năm 2010, được sự ủng hộ của nhiều chức sắc, tín đồ không phân biệt chi phái, một nhóm tín hữu Cao Đài đã liên kết với nhà xuất bản Tôn Giáo (Hà Nội) in được hơn ba mươi đầu sách mới, tái bản hơn mười lượt.[2] Sách phổ biến miễn phí cho toàn đạo Cao Đài và các tôn giáo bạn dưới danh xưng Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo.
Nhà xuất bản Tôn Giáo rất nhiệt tình và tích cực tạo điều kiện thuận lợi để Chương Trình Ấn Tống in được sách nhanh, kịp thời phục vụ các yêu cầu cụ thể những khi trong Đạo có lễ lạt. Hiệu ứng về phía tín đồ là đông đảo bổn đạo từ các miền đất nước, kể cả hải ngoại đều hoan nghênh và tự nguyện tài trợ cũng như tự nguyện nhận lãnh đem kinh sách đi phổ biến các họ đạo gần xa. Trong hoàn cảnh đại đa số tín đồ còn nghèo và ở xa các thành phố lớn, thiếu nhiều điều kiện hưởng thụ văn hóa, thì Chương Trình Chung Tay Ấn Tống đã phần nào bù đắp chỗ thiếu kém đó.
II. MỘT VÀI VẤN ĐỀ CẦN QUAN TÂM
TRONG BỐI CẢNH TÔN GIÁO CAO ĐÀI HIỆN NAY
Đào tạo. Hiện nay cộng đồng tôn giáo Cao Đài rất thiếu nhân lực phục vụ các Hội Thánh. Khả năng giữa các Hội Thánh không đồng đều. Nếu để riêng rẽ, các khóa hạnh đường hay lớp bồi dưỡng giáo lý ngắn hạn không giúp được các Hội Thánh giải quyết triệt để và đồng bộ vấn nạn nhân lực kế thừa. Tuy nhiên một số Hội Thánh Cao Đài dường như chưa mặn mà với việc thỉnh mời các giảng viên giáo lý có trình độ và uy tín từ nơi khác về trợ giúp.
Việc thiếu kém đội ngũ giảng dạy có năng lực sư phạm và trình độ giáo lý chuyên sâu chắc chắn sẽ cản trở tiến trình thành lập các trường sơ cấp giáo lý, trung cấp giáo lýcao cấp giáo lý của cộng đồng Cao Đài (chưa dám nói tới trường đại học như ở tôn giáo bạn).
Lãnh đạo nhất quán và yểm trợ lẫn nhau. Hội Nghị Giao Lưu các Hội Thánh và tổ chức Cao Đài nếu phát huy được chức năng liên-Hội-Thánh, thì có thể thông qua các phiên họp định kỳ trong năm để cùng nhau đề ra một đường lối hành đạo nhất quán, bù đắp lẫn nhau giữa các Hội Thánh về chỗ mạnh chỗ yếu để cùng phát triển.
Khi nghiên cứu các phúc trình hành đạo hàng năm của các Hội Thánh, rất dễ thấy rằng nội dung và tiêu chí phản ánh rất khác nhau, thiếu thống nhất và không đồng bộ.
Lấy thí dụ, muốn nắm được số liu tín đồ tăng giảm hàng năm cũng không được đầy đủ. Có Hội Thánh quan tâm, có Hội Thánh bỏ qua. Có Hội Thánh năm này quan tâm ghi nhận nhưng năm sau bỏ sót. Trong lúc đó Tổng Cục Thống Kê của Nhà Nước lại chưa làm giúp việc này.
Cho tới bây giờ, trải qua nhiều thập niên, các tài liệu Nhà Nước vẫn chỉ đưa ra một con số mơ hồ và cũ kỹ là đạo Cao Đài có khoảng trên hai triệu người! Đó là hệ quả đương nhiên của tình trạng thiếu cập nhật số liệu thống kê.
Từ khi các Hội Thánh Cao Đài chưa có tư cách pháp nhân và khoảng hơn một thập niên sau khi có tư cách pháp nhân, chắc chắn số tín đồ Cao Đài phải vượt qua con số ít ỏi đó. Nhưng cụ thể là bao nhiêu? Không một ai trả lời được! Không một Hội Thánh nào nói rõ được!
Giả dụ, thông qua Hội Nghị Giao Lưu các Hội Thánh và tổ chức Cao Đài mà cùng thống nhất một mẫu phúc trình đạo sự hàng năm, bao gồm các tiêu chí (hay nội dung phải kê khai) cụ thể, rồi do nhu cầu phát sinh hàng năm sẽ kiện toàn dần dần các mẫu phúc trình đạo sự này.
Như vậy, ở mỗi kỳ Hội Nghị Giao Lưu, từng Hội Thánh sẽ dễ dàng so sánh được thành quả của mình với Hội Thánh bạn, sẽ nhận ra những gì cần tập trung phát triển để không chậm bước tiến so với Hội Thánh bạn.
Chẳng hạn, thay vì đợi Tổng Cục Thống Kê điều tra dân số và số lượng tín đồ các tôn giáo, thì Hội Nghị Giao Lưu có thể triển khai thu thập số liệu người nhập môn, trẻ tắm thánh, v.v… từ các họ đạo trong hệ thống từng Hội Thánh. Tổng hợp định kỳ hàng năm sẽ dễ dàng có được số liệu về tín đồ Cao Đài trong cả nước một cách chính xác.
Lấy ví dụ về thống kê số tín đồ để cho thấy tính hữu ích của Hội Nghị Giao Lưu. Mà Hội Nghị Giao Lưu thật ra còn tiềm tàng nhiều khả năng to tát, ý nghĩa nhiều hơn thế nữa.
III. TẠM KẾT
Nhìn lại một số thành tựu của các Hội Thánh Cao Đài đạt được trong mười năm qua (2001-2010), có thể thấy các Hội Thánh Cao Đài thật sự đã trụ vững được và tiếp tục phát triển trong khả năng của mỗi nơi.
Các kết quả nêu trên của các Hội Thánh Cao Đài có thể chưa lớn lắm nếu đem so sánh với một số cộng đồng tôn giáo bạn; nhưng nên nhìn vào thực trạng hiện nay là các Hội Thánh Cao Đài vẫn đang phải đối mặt với vấn nạn thiếu đội ngũ kế thừa có trình độ để thay thế dần dần lớp đàn anh lớn tuổi. Bên cạnh đó là vấn đề ngân sách thường không sẵn dồi dào; mỗi khi cần tiến hành một đạo sự quy mô thì buộc phải quyên góp, không chỉ trong nội bộ Hội Thánh mình mà còn phải tìm sự trợ giúp từ các Hội Thánh bạn.
Bài viết này không phải là một tổng kết hoàn chỉnh về thành tựu của đạo Cao Đài trong mười năm qua (2001-2010). Tuy nhiên có thể phác họa vài nét lớn để cộng đồng tín hữu Cao Đài hình dung được phần nào chỗ mạnh và chỗ chưa mạnh của tôn giáo mình. Tự biết mình vẫn là cần thiết để tự tin và nung chí tiến thủ, vượt qua các trở ngại chủ quan hay khách quan trên diễn trình đem Đạo vào đời, ngõ hầu đồng hành cùng dân tộc trên con đường xây dựng quê hương, làm giàu đẹp thêm cho Tổ Quốc Việt Nam yêu dấu.
HỮU ĐẠO

[1] Bổ túc: Tháng 3-2011 Hội Nghị Giao Lưu lần thứ IV tổ chức tại Hội Thánh Cao Đài Bạch Y (Rạch Giá). Tháng 4-2012, lần thứ V tổ chức tại Hội Thánh Cao Đài Cầu Kho - Tam Quan (Bình Định). Tháng 5-2013, lần thứ VI tổ chức tại Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài (Đà Nẵng). [Văn Uyển chú]
[2] Bổ túc: Tính đến tháng 12-2013, Chương Trình Ấn Tống in được 70 đầu sách (không kể các lần tái bản) và 7 tập giai phẩm ra định kỳ mỗi quý là Đại Đạo Văn Uyển. [Văn Uyển chú]



Đại Đạo Văn Uyển trân trọng giới thiệu quý đạo hữu
blog UNDERSTANDING CAODAISM gồm các bài tiếng Anh của
HUỆ KHẢI viết về đạo Cao Đài tại địa chỉ: