Cao Hanh
Cụm từ nguyên hanh lợi trinh xuất hiện trong bảy quẻ: Kiền, Khôn, Truân,
Lâm, Vô Vọng, Cách. Tuy nhiên các nhà Dịch học hiểu bốn chữ này khác nhau. Dưới
đây là quan điểm của Cao Hanh.[1]
|
Trong quái từ và hào từ của
Chu Dịch xuất hiện nhiều lần bốn chữ nguyên,
hanh, lợi, trinh.[2] Ý nghĩa bốn chữ này không rõ ràng, trọn cuốn Chu Dịch hầu như chưa ai
thông hiểu nổi chúng.
Quẻ Càn nói: “Càn, nguyên, hanh, lợi, trinh.” [3]
Văn Ngôn của quẻ Càn
nói: Nguyên là cái đứng
đầu mọi điều thiện. Hanh là sự tập hợp mọi vẻ đẹp. Lợi là
cái hòa theo điều nghĩa. Trinh là cốt cán của mọi việc. Quân tử thi hành
điều nhân, đủ để đứng đầu mọi người; tập hợp mọi vẻ đẹp, đủ để hợp với lễ; làm
lợi cho vạn vật, đủ để phụ họa theo điều nghĩa. Bền bỉ đủ để làm việc. Quân tử
thực hành bốn đức này, nên gọi là nguyên, hanh, lợi, trinh.[4]
Sách Tả
Truyện (Tương công cửu niên) chép:
Mục
Khương [vợ Lỗ Tuyên Công, là tổ mẫu của Lỗ Tương Công [5]] chết tại cung phía đông [dành cho thái tử].
[Trước khi Mục Khương mất, họ] bắt đầu
bói, được quẻ “Cấn chi bát”.
Quan
thái sử [phụ trách việc bói] nói: “Đây
là quẻ Cấn biến thành quẻ Tùy. Tùy ý nói là đi ra ngoài. Do đó phu nhân nhất định
phải đi ra ngoài [khỏi hoàng cung].”
Mục
Khương nói: “Chẳng cần. Quẻ này trong Chu Dịch
nói: ‘Tùy, nguyên hanh lợi trinh vô cữu.’ Nguyên là chỗ tối cao của thân xác;
hanh là sự gặp gỡ chủ khách trong lễ tiệc; lợi là sự hài hòa của đạo nghĩa;
trinh là bản thể của sự tình. Thể hiện nhân đức đủ để lãnh đạo người khác; đức
hạnh tốt đẹp đủ để xử sự lễ nghĩa; làm lợi cho vạn vật đủ để hài hòa đạo nghĩa;
thành tín vững mạnh đủ để giải quyết sự tình. Do đó không thể dối lừa được, và
bói được quẻ Tùy thì đi ra ngoài không bị tai họa gì. Nay một phụ nữ như ta đã nhúng
tay vào biến loạn, địa vị vốn ở dưới [nam nhi] mà lại bất nhân, nên không thể nói là ‘nguyên’ được; không giữ cho quốc
gia được ổn định, nên không thể nói là ‘hanh’ được; gây biến loạn để mang hại
vào thân nên không thể nói là ‘lợi’ được; Ta phế bỏ thái hậu để làm trò dâm loạn
nên không thể nói là ‘trinh’ được. Người có đủ bốn đức nguyên, hanh, lợi, trinh
thì xem bói được quẻ Tùy mới không gặp tai họa. Như ta đây chẳng có bốn đức ấy,
lẽ nào [ứng hợp với quái từ của] Tùy
được sao? Ta vốn là kẻ thủ ác, lẽ nào tránh được tai họa được sao? Ta ắt phải
chết nơi này, không thể ra ngoài thành được.[6]
Đấy là sự giải thích tối cổ về bốn chữ nguyên, hanh, lợi, trinh, người đời sau
đã lấy nó làm chuẩn để giải thích bốn chữ này.
Căn cứ cách giải thích trên thì nguyên, hanh, lợi, trinh là bốn đức hạnh
của con người. Nguyên lấy nhân (lòng thương người) làm gốc,[7] hanh lấy lễ
làm tông, lợi lấy nghĩa làm cốt cán, trinh lấy kiên cố làm chất (bản chất). Nhưng nếu theo ý nghĩa đó mà
đọc Chu Dịch thì thường thường không thông.
Xin nêu một thí dụ: Quái từ quẻ Khôn nói:
“Nguyên hanh lợi tẫn mã chi trinh.” [8] Nếu
nói nguyên, hanh, lợi, trinh là bốn đức,
thì câu này giải làm sao? Lẽ nào ngựa cái lại có đức tính “trinh tiết” hay sao?
[9] Do đó tôi [Cao Hanh] nghĩ rằng ý nghĩa của bốn chữ này trong Văn Ngôn và Tả Truyện [đã trích dẫn ở trên] không phải là ý nghĩa ban đầu.
Vậy bản nghĩa của bốn chữ này là gì? Xin
đáp: “Nguyên là lớn; hanh là dâng lễ vật
cúng tế; lợi là lợi ích; trinh là bói.” [10]
1.
NGUYÊN
Giáp cốt văn viết là # và # (Ân Khư Thư
Khế Tiền Biên,[13] quyển 4, tờ 32). Nói chung, chữ nguyên
là ghép từ chữ nhân 人 và
chữ nhị 二.
Các tác phẩm như Lục Thư Cố của Đái Đồng, Thuyết
Văn Thông Huấn Định Thanh của Chu Tuấn Thanh, Thuyết Văn Đoàn Chú Tiên của Từ Hạo, Văn Nguyên của Lâm Nghĩa Quang đều giải thích như vậy.[15]
Hứa Thận giải nguyên là thủy 始 (đầu
tiên), là do nhất ghép với ngột. Như vậy là không phù hợp với tự dạng
ban đầu và ý nghĩa ban đầu của chữ này. Nghĩa phái sinh là đại (lớn).
Những thí dụ tương tự như thế thì rất nhiều,
không thể trưng dẫn ra cho hết. Chữ nguyên
trong Chu Dịch đều mang ý nghĩa là lớn.
Như nói: Nguyên cát tức là đại cát; nguyên hanh tức là đại hanh; nguyên phu tức là đại phu vậy.[21] Đó là bản nghĩa của chữ nguyên trong
Chu Dịch.
2. HANH
Chữ hanh tức là hưởng (trong hưởng tự 享祀: thụ hưởng vật tế tự).
Thuyết Văn nói: “Hanh
là hiến, do chữ cao bị lược bớt nét,
ý nói tiến đến hình dạng một vật gì.” [22]
Triện văn viết là . Lệ thư viết là # (hưởng). Như vậy hưởng 享 và hanh
亨 thực
chất là một.
Do đó hưởng
cơ bản là dâng vật phẩm lên cúng tế.
Thi
Kinh (Sở Tỳ) chép: “Dĩ hưởng dĩ tự.” Lại thấy: “Dĩ hiếu dĩ
hưởng.” [27] Chính là dùng bản nghĩa của chữ hưởng.
Từ đó nghĩa phái sinh của hưởng là tiến
cống vật phẩm.
Chữ hanh
trong Chu Dịch phải mang ý nghĩa là hưởng,
đó là điều rõ ràng.
Quẻ Tổn chép: “Dùng hai bát lúa làm gì?
Có thể đem cúng tế.” [30] Chữ hanh đã viết thành hưởng, ý nghĩa của nó ắt phải là hưởng tự (cúng tế). Đó là một bằng chứng.
Hào cửu tam quẻ Đại Hữu nói: “Công dụng
hanh vu thiên tử.” [31] Chữ hanh ở đây ý nói chư hầu tiến cống phẩm
vật cho thiên tử.
Hào lục nhị quẻ Ích nói: “Vương dụng hanh
vu đế.” [33] (Chữ hanh này trong bản hiện
hành chép là hưởng, trong Thích Văn vẫn chép là hanh).
Hào lục tứ quẻ Thăng nói: “Vương dụng hanh vu Kỳ Sơn.” [34] Ba chữ hanh trong ba hào từ
nói trên chính là hưởng, nghĩa là
cúng tế (hưởng tự), đó là bằng chứng thứ hai, không còn hoài nghi gì nữa.
Chữ hanh
trên hiểu là hưởng mới ứng với bậc
vương giả nói ở sau. Đó là bằng chứng thứ ba, không còn hoài nghi gì nữa. Cổ
nhân cúng tế tất phải bói để xác định việc đúng sai.
Các Ân
khư bốc từ đa số ghi chép bốc tế 卜祭 (việc
cúng và bói), việc ấy đã nghiệm rõ. Cho nên, hễ trong Chu Dịch nói gọn là hanh, tức là cổ nhân muốn nói việc cử
hành cúng tế (hưởng tự) vậy. Nói nguyên
hanh 元亨 tức
là nói cử hành cúng tế long trọng; nói tiểu
hanh 小亨 là
cúng tế nhỏ. Đây là bản nghĩa của chữ hanh
trong Chu Dịch vậy.
3. LỢI
Chữ lợi
nghĩa là lợi ích.
Thuyết
Văn giải thích: “Lợi là bén nhọn, do chữ đao; hài hòa mà sau có lợi, do chữ hòa bị lược nét.
Du Việt nói: “Lợi, do chữ đao và chữ hòa
[lúa], kết cấu hội ý, chứ không phải ghép với chữ hòa [hài hòa].
Tả Truyện [Lỗ Thành Công năm thứ hai]
chép: ‘Vùng đất mà tiên vương phân định để cai trị thiên hạ thì phải xem xét sự
thích nghi của sản vật và đất đai để ban rải lợi ích cho mọi người.’ [41] Nghĩa gốc của chữ lợi trong
câu này ý nói bắt nguồn từ đất đai, như vậy sự chú trọng không ngoài lúa (hòa 禾). Lấy
dao cắt lúa, đó là ích lợi lớn vậy.
Thi
Kinh viết: Bỉ hữu di bỉnh, thử hữu trệ huệ, y quả phụ chi lợi.[42] Chữ lợi này ý là đao ghép hòa, dẫn ra ý nghĩa là bén nhọn (dao bén cắt được lúa). Đây không phải là nghĩa gốc của chữ lợi.[43]
Trong Chu Dịch chữ lợi đều có nghĩa gốc là lợi ích. Như Chu Dịch nói “vô bất lợi” 无不利,
nghĩa là lúc cử hành cúng tế và bói, quẻ bói bảo là không có điều bất lợi.
Tương tự, “vô du lợi” 无攸利 là không có lợi; “lợi trinh” 利貞 là xem
bói [được quẻ phán là] có lợi ích. Đó là bản nghĩa của chữ lợi trong Chu Dịch.
4.
TRINH
Chữ trinh
nghĩa là bói (trinh bốc 貞卜). Thuyết
Văn nói: Trinh là bói để hỏi han về vấn
đề nào đó, chữ này ghép chữ bốc [là bói] với chữ bối, bối [vỏ sò: hóa tệ cổ đại (loại tiền xưa)] được xem là chí [lễ vật dâng lên cúng];
Kinh Phòng nói: Có một thuyết khác bảo rằng chữ đỉnh được dùng làm thanh
phù nhưng bị lược nét còn là chữ bối.[44]
Các tự dạng chữ trinh trong kim văn là # (Tán bàn), # (Thang đỉnh), # và # (Bá Trì phụ đỉnh; chữ # này
có người không đồng ý giải thích là trinh).
Chữ trinh
xuất hiện rất nhiều trong các giáp cốt khai quật được, tự dạng gần với chữ đỉnh 鼎. Nó không được tạo ra từ chữ
bốc, mà ý nghĩa của nó là bói (bốc vấn).
Tôi [Cao Hanh] ngờ rằng nó được tạo ra từ
chữ đỉnh, cổ nhân mượn chữ đỉnh làm giả tá cho trinh. Về sau gắn chữ bốc
卜 ở đầu
chữ đỉnh #, rồi sau nữa biến thành tố đỉnh 鼎 ở dưới thành chữ bối 貝, tức là bốc卜 và bối 貝 tạo
thành chữ trinh 貞 như
hiện nay.
Dùng mai rùa và yếm rùa để bói thì gọi là
bốc, dùng cỏ thi để bói thì gọi là trinh. Do đó chữ trinh trong Chu Dịch phải giải là phệ vấn 筮問 (bói) hay từ ngữ thông dụng là chiêm vấn 占問 (bói).
Vậy thì trinh cát là bói được điều tốt; trinh
hung là bói gặp điều xấu; trinh lận
là bói gặp điều khó khăn; trinh lệ là
bói gặp sự nguy hiểm. Nói là khả trinh
hay bất khả trinh nghĩa là có thể tiến
hành hoặc không thể tiến hành việc bói toán. Nói lợi trinh nghĩa là bói biết điều có lợi sẽ xảy ra.[45]
Trong
Chu Dịch, bản nghĩa của trinh là bói.
Từ đó
mà xét, bốn chữ nguyên hanh, lợi trinh
ở quẻ Kiền và quẻ Tùy nghĩa là: Cúng tế lớn,
bói gặp điều có lợi.
Trong Văn
Ngôn và Tả Truyện cho là bốn đức
hạnh (tứ đức) thì đó không phải là yếu
chỉ của hai quẻ Kiền, Tùy.
Trong quẻ Đại Hữu (Công dụng hanh vu thiên tử) [46] thì chữ hanh (tiến cống vật
phẩm) này trái nghĩa với chữ hanh (hưởng: cúng tế) trong toàn quyển Chu Dịch.
*
Cao
Hanh (1900-1986) là nhà Dịch học nổi tiếng thuộc phái Chú Thích Chu Dịch.
Ông tên thật là Tiên Kiều, tự là Tấn Sinh, quê ở Song Dương, tỉnh Cát Lâm,[47] Trung Quốc.
Năm 1926 ông tốt nghiệp Đại Học Thanh Hoa
và bắt đầu dạy học ở nhiều nơi: Giáo Dục Học Viện, Đại Học Hà Nam, Đại Học Vũ
Hán, Đại Học Tề Lỗ, Đại Học Tây Bắc, Đại Học Sơn Đông.
Sau 1949 ông làm công tác nghiên cứu tại
Học Viện Sư Phạm Tây Nam .
Ông thâm cứu các lĩnh vực Kinh học, Tử học, Sử học, và văn tự học. Tuy chú giải
Chu Dịch, nhưng ông cũng thiên về khảo chứng huấn hỗ, chủ trương Kinh và Truyện
phân biệt.
Ông cho rằng Dịch Kinh được viết đầu đời
Chu, còn Dịch Truyện được viết cuối đời Chu .
Qua mấy trăm năm, đại ý của Truyện và Kinh bất đồng. Ngoài ra, quái tượng và
quái từ không có quan hệ. Khi giải thích kinh văn, quái từ, hào từ, người ta
không nhất thiết phải tìm căn cứ trên phương diện tượng số.
Tác phẩm
tiêu biểu: Thi Kinh Tuyển Chú; Thi Kinh Kim Chú; Sở Từ Tuyển; Thượng Cổ Thần
Thoại; Văn Tự Hình Nghĩa Học Khái Luận;
Cổ Tự Thông Từ Điển; Cổ Tự Thông Giả Hội Điển; Chu Dịch Cổ Kinh Kim Chú; Chu Dịch Đại Truyện Kim Chú; Chu Dịch Cổ Kinh Thông Thuyết; Dịch Học Tạp Luận; Lão Tử Chính Hỗ; Lão Tử Chú Dịch;
Trang Tử Kim Tiên; Thương Quân Thư Chú Dịch; Chư Tử Tân Tiên; Văn Sử Thuật Lâm, v.v…[48]
LÊ
ANH MINH dịch
chú
[1] Cao Hanh 高亨,
Chu Dịch Cổ Kinh Thông Thuyết 周易古經 通說.
Hương Cảng: Trung Hoa Thư Cục, 1974, tr. 87-100.
[2] Theo Ngũ Hoa 伍華 (Chu Dịch Đại Từ
Điển 周易大辭典. Quảng Châu: Trung Sơn Đại Học Xuất Bản Xã,
1993): Chữ nguyên xuất hiện bốn mươi
mốt lần, chữ hanh bảy mươi chín lần,
chữ lợi một trăm sáu mươi bốn lần, chữ
trinh một trăm bốn mươi chín lần. (Lê
Anh Minh chú).
[4] Nguyên giả, thiện chi trưởng dã;
hanh giả, gia chi hội dã; lợi giả, nghĩa chi hòa dã; trinh giả, sự chi cán dã.
Quân tử thể nhân túc dĩ trưởng nhân; gia hội túc dĩ hợp lễ; lợi vật túc dĩ hòa
nghĩa; trinh cố túc dĩ cán sự. Quân tử hành thử tứ đức giả, cố viết: kiền,
nguyên hanh lợi trinh.”
元者, 善之長也; 亨者, 嘉之會也; 利者, 義之和也; 貞者, 事 之幹也. 君子體仁足以長人; 嘉會足以合禮; 利物足以和義 貞固足以幹事. 君子行此四德者, 故曰: 乾元亨利貞. (文言)
[6] Mục Khương hoăng ư đông cung, thủy vãng nhi phệ
chi, ngộ Cấn chi bát. Sử viết: “Thị vị Cấn chi Tùy, Tùy kỳ xuất dã. Quân tất tốc
xuất.” Khương viết: “Vong. Thị ư Chu Dịch viết: ‘Tùy, nguyên hanh lợi trinh vô
cữu.’ Nguyên, thể chi trưởng dã; hanh, gia chi hội dã; lợi, nghĩa chi hòa dã;
trinh, sự chi cán dã. Thể nhân túc dĩ trưởng nhân, gia đức túc dĩ hợp lễ, lợi vật
túc dĩ hòa nghĩa, trinh cố túc dĩ cán sự, nhiên cố bất khả vu dã. Thị dĩ tuy Tùy
vô cữu. Kim ngã phụ nhân, nhi dữ ư loạn, cố tại hạ vị, nhi hữu bất nhân, bất khả
vị nguyên; bất tĩnh quốc gia, bất khả vị hanh; tác nhi hại thân, bất khả vị lợi;
khí vị nhi giảo, bất khả vị trinh. Hữu tứ đức giả Tùy nhi vô cữu; ngã giai vô
chi, khởi Tùy dã tai! Ngã tắc thủ ác, năng vô cữu hồ? Tất tử ư thử, phất đắc xuất
hỹ.”
穆姜薨於東宮始往而筮之, 遇艮之八. 史曰:
是謂艮之隨, 隨
其出也. 君必速出. 姜曰: ‘亡.
是於周 易曰:
隨元亨利貞无 咎.’
元, 體之長也; 亨, 嘉之會也; 利, 義
之和也; 貞,
事之幹 也.
體仁足以長人, 嘉德足以合禮, 利物足以嘉義, 貞固足以 幹事, 然故不可誣也. 是以雖隨无咎. 今我婦人, 而與於亂, 固在下位, 而有不仁, 不可謂元; 不靖國家, 不可謂亨; 作而 害身,
不可謂利; 棄位而姣, 不可謂貞. 有四德者隨而無咎; 我皆無之, 豈隨者哉! 我則取惡, 能無咎乎? 必死於此, 弗得
出矣 (左傳:
襄公九年)
Cao Hanh chỉ
trích dẫn đoạn cổ văn này. Tôi dịch ra Việt ngữ, căn cứ bản Tả Truyện
Toàn Dịch của Vương Thủ Khiêm, Kim Tú
Trân, Vương Phụng Xuân dịch chú, quyển Hạ, Quế Châu Nhân Dân Xuất Bản Xã, 1990,
tr. 798-800. (Lê Anh Minh chú).
[7] Chữ nguyên 元 ở trên là nhị 二, dưới là nhân 儿; chữ nhân 仁 bên trái là nhân 亻bên phải là nhị 二; nên Cao Hanh nói nguyên lấy nhân (lòng thương người) làm gốc. (Lê Anh Minh chú).
[9] Sau
này, các nhà Dịch học mới giảng tẫn
mã chi trinh là đức chính bền như ngựa cái siêng năng, dẻo dai... [Văn Uyển chú]
[10] Nguyên, đại dã; hanh, tức hưởng tự chi hưởng;
lợi, tức lợi ích chi lợi; trinh, tức trinh bốc chi trinh dã. 元, 大也;
亨, 即享祀
之享; 利,
即利益之利; 貞,
即貞卜之貞也.
今我即命于元龜. (書經: 金縢)
[38] Lợi, tiêm dã, tính đao, hòa nhiên hậu lợi,
tính hòa tỉnh. Dịch viết: ‘Lợi giả nghĩa chi hòa dã’.
利, 銛也 , 从刀,
和然後利, 从和省. 易曰:
利者義之和也.
[41] Lợi, tính đao,
tính hòa, hội ý, phi tính hòa tỉnh dã. Thành Công nhị niên Tả Truyện viết: ‘Tiên vương cương lý thiên hạ, vật thổ
chi nghi, nhi bố kỳ lợi.’
利, 从刀从禾,
會意, 非從和省也. 成公二年左傳曰: 先王疆
理天下, 物土之宜, 而布其利. (Cao Hanh chú).
貞卜問也, 从卜, 貝以為贄; 一 曰鼎省聲, 京房所說.
[48] 詩經選注; 詩經今注; 楚辭選; 上古神話; 文字形義學概論; 古字通辭典; 古字通假會典; 周易古經今注; 周易大傳今注; 周易古經通說; 易學雜論; 老子正詁; 老子注譯; 莊子今箋; 商君書注譯; 諸子新箋; 文史述林, v.v…
============
Khổng Minh (181-234) dạy con (Giới Tử Thư): “Học phải cần
yên tĩnh, muốn có tài phải học, không học không biết rộng, không có chí học
không thành.”
Phù học tu tĩnh dã, tài tu học dã, phi học vô dĩ quảng
tài, phi chí vô dĩ thành học. 夫學須靜也, 才須學也, 非學無以 廣才, 非志無以成學. (諸葛亮, 誡子書)