Thứ Tư, 17 tháng 2, 2016

ĐĐVU 07-08 / LÒNG TỪ MẪU VÔ CÙNG VÔ TẬN / Đoàn Thị Kim Sơn

Image result for chrysanthemum morifolium

Nói đến lòng Từ Mẫu thì chúng ta nhớ đến Đức Diêu Trì Kim Mẫu với tình thương vô cùng vô tận, không lãnh vực, không biên cương. Tình thương ấy bao trùm cả vũ trụ vạn loài.
Với tình thương vô cực này, Đức Từ Mẫu lúc nào cũng lo lắng cho đàn con của mình đang đắm chìm trong bể khổ trần gian nên đã bao phen giáng đàn để an ủi vỗ về, ban ơn và dạy dỗ để con cái của Mẹ giác ngộ tu hành, tự độ, độ tha hầu sớm trở về quê xưa vị cũ.
Đức Mẹ dạy:
Con ôi! Vô Cực Từ Tôn không ngự trên đài cao hoang vắng tình thương, mặc dầu nó đầy đủ vẻ vàng son rực rỡ. Ở đâu có ấu nhi đau khổ là có Mẹ. Ở đâu có liễu bồ bất hạnh là có Mẹ. Nếu các con làm được những việc đó là Mẹ đã ngự trong tâm hằng cứu rỗi đó con.[1]
Đức Mẹ không ngự trên đài cao hoang vắng tình thương. Tình thương là gì?
Đức Mẹ dạy:
“Mẹ không nắm quyền sanh phạt các con. Ngược lại, Mẹ nắm phần cứu rỗi. Cho nên, thương là Mẹ, yêu là Mẹ. Tha thứ, sinh dưỡng, bảo tồn, tất cả đều là Mẹ. Các con có nghĩ đến lòng Từ Mẫu chăng?” [2]
Do thương là Mẹ, yêu cũng là Mẹ, nên Đức Mẹ muốn con cái của mình ở trần gian cũng đầy đủ tình thương yêu như Mẹ. Trong gia đình mọi người thương yêu lẫn nhau. Ở các đoàn thể ngoài đời hay trong đạo đều lấy tình thương làm đầu, đối xử với nhau trong sự hòa hiệp, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Có như vậy mới có thể tiến đến một thế giới đại đồng, nơi đó mọi người đều bình đẳng thương yêu nhau.
Với lòng Từ Mẫu vô cùng vô tận, Đức Mẹ coi mọi người trên thế gian đều là con cái của Mẹ. Đức Mẹ không phân biệt con của Mẹ ở chi này hay phái nọ, cũng không phân biệt là trong đạo Cao Đài hay ở tôn giáo khác.
Đức Mẹ dạy:
Các con dầu nhóm này, dầu nhóm khác trong đạo Cao Đài cũng như trong các tôn giáo khác, đều đã phát tâm hành thiện, đã thiết lập nhiều hội thiện giúp người đời xấu số bạc phước cô đơn, thì cũng là con của Mẹ.[3]
Đức Mẹ ban ơn lành cho con trẻ nào có lòng nhân, biết thương người gặp cơn hoạn nạn:
Trước những cảnh sống thừa ảm đạm
Nơi lòng con thiện cảm phát sanh
Nghiêng vai gánh đạo nhọc nhành
Dưới tay Từ Mẫu ân lành rưới chan.[4]
Đức Mẹ sẵn dành ân huệ cho các con nào biết giữ lòng son sắt với Đạo dù có gặp gian truân thử thách:
Nhớ đến con thơ dưới cõi trần
Trong khi đời đạo chịu gian truân
Lập công quyết giữ lòng son sắt
Ân huệ dành riêng đã sẵn phần.[5]
Với lòng thương vô cùng vô tận, Đức Mẹ không bao giờ ngự đến những đài cao thiếu vắng tình thương, dầu cho nó đẹp đẽ đến đâu chăng nữa. Trái lại nơi nào có tình thương là có Mẹ, nơi nào cần đến tình thương để an ủi chở che là có Mẹ.
Tình thương thật là quan trọng. Vậy tình thương là gì?
Từ ngàn xưa đến nay, trong bất cứ xã hội nào vấn đề tình thương vẫn là vấn đề quan trọng nhất. Tình thương là sự trải lòng của mình ra với mọi người, đối xử với nhau một cách bình đẳng, tương thân tương trợ. Có thương yêu hòa thuận thì gia đình mới yên vui, xã hội mới đoàn kết tiến bộ, kinh tế mới phát triển, đất nước mới an lạc thái bình.
Thầy dạy:
“Thầy thường nói với các con rằng các con là cơ thể của sự thương yêu…
. . .
“Sự thương yêu là giềng bảo sanh của càn khôn thế giới. Có thương yêu, nhơn loại mới hòa bình, càn khôn mới an tịnh. Ðặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, mới giữ bền cơ sanh hóa.” [6]
Tình thương là đức nhân, là lòng nhân ái mà Đức Thượng Đế đã ban cho mọi người khi đến trần gian tu học hành đạo, như lời Đức Mẹ dạy: 
Cõi hậu thiên thân sanh vào đó
Điểm tiên thiên sẵn có nơi thân
Là mầm sống, là nguơn thần
Là Trời, là Đạo, là Nhân của người.[7]
Đức nhân của con người là Thượng Đế tính, là điểm tiên thiên, là tiểu linh quang, là Trời, là Đạo, là tình thương mà Đức Thượng Đế đã ban trao cho con người. Tình thương không phân biệt sang hèn, cao thấp, quen lạ. Thương là để giúp đỡ, chở che chớ không phải thương để nhận lời khen của người khác.
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
Tình thương không luận với người nào
Giàu khó sang hèn hoặc thấp cao
Phải tập tánh tình theo các Đấng
Từng giờ từng phút cố dồi trau.[8]
Đức Đông Phương Chưởng Quản dạy:
Tình thương không luận lạ hay quen
Khôn dại cao sang với thấp hèn
Thương cả đến người dưng nước lã
Thương vì lòng đạo chẳng vì khen.[9]
Đức Mẹ dạy:
Nhân là thương khắp muôn loài vạn chúng
Không biệt phân nòi giống lạ hay quen
Cũng không chia cao thấp sang hèn
Thương kẻ ghét mình mà lo tế độ.[10]
Tình thương nếu ban phát ra sẽ rất hữu dụng và có ba mức độ như sau:
- Mức đ thứ nhất là công bằng, tức là thương người như thương mình.
Về mức độ này, Đức Vân Hương Thánh Mẫu dạy:
“Một khi các em đã khơi động tình thương đạo đức phát khởi nơi tâm trung, các em sẽ thương thân người như thương thân em, thương hạnh phúc gia đình người như hạnh phúc gia đình em, thương quốc gia xã hội nào cũng như quốc gia xã hội em.” [11]
- Mức đ thứ hai là bác ái, thương xót tất cả, chẳng những nhơn loại mà còn thương cả loài cầm thú, thảo mộc. Tha thứ những kẻ có lỗi với mình để cảm hóa họ, đem họ lại gần với mình hầu hướng dẫn họ vào đường tu hành chánh đạo.
Về mức độ này, Đức Mẹ dạy:
“Khi các con đã thật lòng bác ái, các con không còn thấy người sang kẻ hèn, người dại kẻ khôn, người uy quyền kẻ yếu đuối, người thân kẻ sơ. Đã không chia cách như vậy, lòng các con là một cõi bồ đề, một cõi niết bàn, một cung Diêu Trì và chính con sẽ ở trong Thượng Đế.[12]
- Mức đ thứ ba là từ bi, quên mình vì người, như Đức Phật Thích Ca đã từ bỏ ngai vàng, quyết tâm tu luyện để cứu rỗi chúng sanh.
Tình thương nếu được phát ban và nhân rộng ra sẽ là yếu tố quan trọng thúc đẩy xã hội loài người phát triển, đi đến một thế giới đại đồng, nơi đó công bằng, bác ái và từ bi là phương châm hành động của tất cả mọi người.
Tình thương quan trọng như vậy nên Đức Mẹ sẽ không ngự ở nơi nào thiếu vắng tình thương:
Vô Cực Từ Tôn không ngự trên đài cao hoang vắng tình thương, mặc dầu nó đầy đủ vẻ vàng son rực rỡ.[13]
Ở đâu có ấu nhi đau khổ là có Mẹ.
Ở đâu có liễu bồ bất hạnh là có Mẹ.
Vì thấy phái nữ chịu trăm bề khó nhọc nên Đức Mẹ nhắc nhở phái nữ phải lo tu học hành đạo để thoát cảnh khổ nơi trần thế:
Phần nữ phái trăm bề khổ cực
Kiếp quần thoa sớm chực trưa chầu
Con ôi! Học lấy đạo mầu
Thoát qua cái kiếp dãi dầu phong vân.[14]
Thật vậy, sống ở thế gian, người phụ nữ bao giờ cũng chịu thiệt thòi hơn nam giới. Thời xưa, người phụ nữ có chồng phải phục tùng chồng, lúc nào cũng đầu tắt mặt tối với công việc nội trợ để phục vụ gia đình chồng:
Sống trong cảnh vô phần bạc phước
Thân đọa đày cửa tước nhà quan
Lăn thân một kiếp cơ hàn
Lo ăn chạy mặc khó toan vẫy vùng.[15]
Đến thời đại ngày nay, người phụ nữ mặc dầu được xã hội công nhận là bình đẳng với nam giới, được ra ngoài xã hội để làm việc, tuy nhiên không ít nữ giới vì hoàn cảnh gia đình túng thiếu, ít học nên lâm vào cảnh khốn khổ. Vì không thể làm việc tại các công sở, nên phải buôn gánh bán bưng, dầm mưa dãi nắng để lo miếng cơm manh áo cho chồng cho con. Gặp những lúc chiến tranh ác liệt, đạn bom vô tình làm cho vợ phải xa chồng, con phải xa cha mẹ, sống côi cút trong cảnh bơ vơ lạnh lẽo:
Sống trong cảnh tay bùn chơn lấm
Cũng chưa yên phận hẩm duyên hôi
Non sông chiến loạn đến hồi
Chia ly chồng vợ, đơn côi trẻ khờ
Trên thế lộ bơ vơ ấm lạnh
Giữa vùng trời bạt cánh chim non…[16]
Có khi lâm vào cảnh túng quẫn, sa cơ lỡ bước, người phụ nữ còn phải bán mình để nuôi thân:
Miễn cho thân được sống còn
Buôn trinh bán tiết thân con quản gì
Sống trong cảnh hàn vi cơ khổ
Phải lăn thân xó chợ đầu đường
Dãi dầu một kiếp nắng sương
Liễu bồ với cảnh đoạn trường song song.[17]
Vì thương phái nữ phải nặng nề duyên nghiệp nơi chốn thế gian, nên Đức Mẹ khuyên phái nữ ráng lo tu hành, mọi việc sẽ có mẹ trợ giúp:
Nhớ đến nữ lưu Mẹ khổ lòng
Nặng nề duyên nghiệp chốn trần hồng
Ráng tu đã có huyền linh Mẹ
Định tánh đừng mơ nẻo bắc đông.[18]
Với những lời dạy trên của Đức Mẹ, chúng ta thấy rằng Đức Mẹ lúc nào cũng theo dõi bước chân của đàn con ở thế gian. Và Đức Mẹ hiện diện ở mọi nơi để vỗ về, an ủi, chở che:
Ở đâu có ấu nhi đau khổ là có Mẹ. Ở đâu có liễu bồ bất hạnh là có Mẹ.[19]
Phái nữ cần làm gì để được Đức Mẹ ngự nơi tâm?
Tình thương của Đức Mẹ đối với con cái của Mẹ ở chốn trần gian thật là vô bờ bến. Đức Mẹ muốn con cái của Mẹ cũng có tình thương như Mẹ và đem tình thương ấy ban rải khắp nơi để làm cho thế gian bớt khổ.
Đức Mẹ dạy:
Con hãy thương yêu kẻ ghét mình
Thương đời mạt kiếp khó tồn sinh
Thương thân cá chậu vòng oan nghiệt
Thương phận chim lồng chốn nhục vinh
Thương kẻ tội tình chưa thức tỉnh
Thương người mê muội mãi u minh
Có thương con mới dày công quả
Công quả là đường đến Ngọc Kinh.[20]
Có thương yêu thì chúng ta mới ra tay giúp đỡ, xoa dịu được nỗi đau của người khác, giúp họ thoát cơn hoạn nạn, tìm lại niềm tin trong cuộc sống. Đối với người mê muội, u minh chúng ta dìu dẫn họ vào con đường sáng, giúp họ tìm đến Đạo Thầy để được hưởng hồng ân của Thầy Mẹ và các Đấng thiêng liêng.
Đức Mẹ dạy:
Con đem rải khắp tình thương
Mọi người chung hưởng là đường thành công
Dầu sanh ra kiếp má hồng
Cũng là thiên địa trong vòng âm dương
Nặng nề muôn việc muôn phương
Tương lai cũng đó, cột rường là đây
Con ơi, ngày lại qua ngày
Ráng lo kẻo trễ, thời kỳ Long Hoa
Đem thân tô điểm nước nhà
Đỡ nâng nòi giống cùng hòa vạn dân.[21]
Tình thương là đức nhân đã được Thượng Đế ban cho mỗi người chúng ta khi chúng ta vào trần tu học. Đến thế gian tiếp xúc với cuộc sống xa hoa vật chất, nếu chúng ta không làm chủ được cái tâm thì tình thương sẽ bị mất đi nhường chỗ cho sự tranh giành quyền lợi, ích kỷ hại nhân. Để tình thương được tồn tại, chúng ta phải tìm về bổn nguyên chơn tánh, sống hiền lương đạo đức, thực hành công quả để độ đời, công trình để luyện kỷ và công phu thiền định để lúc nào tâm cũng sáng suốt không bị lục dục thất tình chi phối. Có đầy đủ tình thương thì Đức Mẹ sẽ ngự nơi tâm của chúng ta.
*
Là tín đồ Cao Đài, phái nữ chúng ta không thể nào quên lòng Từ Mẫu vô cùng vô tận. Đức Mẹ không bao giờ ngự trên đài cao hoang vắng tình thương dầu cho nó rực rỡ đến đâu chăng nữa. Ở đâu có ấu nhi đau khổ là có Mẹ. Ở đâu có liễu bồ bất hạnh là có Mẹ.
Là con cái của Đức Mẹ, chúng ta cần mở lòng thương yêu mọi người, thấy người hoạn nạn thì ra tay giúp đỡ. Có làm được như vậy thì Đức Mẹ sẽ ngự vào tâm chúng ta và hộ trì chúng ta trên bước đường tu thân hành đạo.
Mẹ dành một tình thương ban bố
Con thực hành Mẹ độ vô vi
Cho con rạng tiếng nữ nhi
Sống làm liệt nữ, thác ghi sử vàng.[22]
ĐOÀN THỊ KIM SƠN
Thánh tịnh Ngọc Minh Đài


[1] Thánh thất Bình Hòa, 15-8 Đinh Mùi (18-9-1967).
[2] Thánh thất Bình Hòa, 15-8 Đinh Mùi (18-9-1967).
[3] Diêu Trì Bửu Điện, thánh thất Bình Hòa, 28-8 Đinh Mùi (01-10-1967).
[4] Thiên Lý Đàn, 20-01 Đinh Mùi (28-02-1967).
[5] Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-10 Bính Ngọ (26-11-1966).
[6] Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, ngày 12-12 Kỷ Tỵ (11-01-1930).
[7] Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 13-8 Kỷ Mùi.
[8] Minh Lý Thánh Hội, 06-10 Kỷ Dậu (15-11-1969).
[9] Trúc Lâm Thiền Điện, Ngọ thời, 18-7 Kỷ Dậu (30-8-1969).
[10] Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 13-8 Kỷ Mùi.
[11] Thánh thất Nam Thành, 10-3 Mậu Thân (07-4-1968).
[12] Vạn Quốc Tự, 08-3 Nhâm Tý (Thứ sáu, 21-4-1972).
[13] Thánh thất Bình Hòa, 15-8 Đinh Mùi (18-9-1967).
[14] Thiên Lý Đàn, 20-01 Đinh Mùi (28-02-1967).
[15] Diêu Trì Bửu Điện thánh thất Bình Hòa, 28-8 Đinh Mùi (01-10-1967).
[16] Diêu Trì Bửu Điện thánh thất Bình Hòa, 28-8 Đinh Mùi (01-10-1967).
[17] Diêu Trì Bửu Điện, thánh thất Bình Hòa, 28-8 Đinh Mùi (01-10-1967).
[18] Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-3 Bính Ngọ (05-4-1966).
[19] Thánh thất Bình Hòa, 15-8 Đinh Mùi (18-9-1967).
[20] Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 26-12 Nhâm Tý (29-01-1973).
[21] Thánh tịnh Ngọc Minh Đài, 15-4 Mậu Thân (11-5-1968).
[22] Diêu Trì Bửu Điện, thánh thất Bình Hòa, 28-8 Đinh Mùi (01-10-1967).


Đại Đạo Văn Uyển trân trọng giới thiệu quý đạo hữu blog UNDERSTANDING CAODAISM gồm các bài tiếng Anh của HUỆ KHẢI viết về đạo Cao Đài tại địa chỉ: