MỘT
“Suy niệm” là một thuật ngữ quen dùng trong Công Giáo; trái lại, hầu như
không thấy mục từ này trong các từ điển tiếng Việt.
Theo bài viết của nhiều tác giả Công Giáo, “suy niệm” có lẽ được dùng tương
đương với động từ to contemplate trong
tiếng Anh; nghĩa là trầm ngâm, suy gẫm, lặng lẽ nhìn ngắm và suy tư cho thấu
đáo những lý lẽ sâu kín…
Vậy, tiếng Việt đã được người Công Giáo hiến thêm một từ hay.
HAI
Khi tôi viết bài này thì đã qua nửa sau tháng 11 dương lịch rồi. Thế nên
nói suy niệm tháng Mười tức là theo âm lịch.
Đối với người đạo Cao Đài, tháng Mười âm lịch này có một lễ trọng vào
ngày rằm để kỷ niệm Khai Minh Đại Đạo (19-11-1926 / 17-11-2013), là ngày đạo
Cao Đài chánh thức công khai hóa trước quốc dân đồng bào tại chùa Gò Kén, làng
Long Thành (nay là xã Long Thành Trung, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh). Cuộc
lễ ấy kéo dài ba tháng, từ ngày rằm tháng Mười Bính Dần (1926) đến ngày rằm
tháng Giêng Đinh Mão (1927). Có lẽ vì vậy mà trong tâm tình người đạo Cao Đài,
Khai Minh Đại Đạo là cả một mùa, mùa Khai
Minh.
BA
Bên Công Giáo, vào thế kỷ 6 có tu sĩ Dionysius Exiguus (tức Dennis Nhỏ).
Khi làm lịch, và sáng tạo ra thuật ngữ Anno
Domini (AD: Công Nguyên, hay Tây Lịch), tu sĩ này trót tính nhầm năm Đức Giêsu giáng sinh, tức là tính muộn từ bốn cho tới
tám năm! Nhưng có hề chi, sơ sót đó vẫn được lưu tồn cho tới nay; cũng như câu “Con lạc đà chui qua lỗ kim” là một tai
nạn dịch thuật,[1] nhưng vẫn được lưu tồn trong Kinh Thánh trải qua hơn hai mươi
thế kỷ.
Bên Cao Đài có tính nhầm lịch không nhỉ?
Chúa Nhật 17-11 vừa qua (rằm tháng Mười Quý Tỵ) kỷ niệm Khai Minh Đại
Đạo. Theo lịch đạo Cao Đài, ngày ấy cũng là ngày đầu tiên của năm Đạo thứ 89.
Đạo Cao Đài chánh thức Khai Minh ngày 19-11-1926. Tính từ tháng 11-1926
tới tháng 11-2013, thì bây giờ mới bước vào năm Đạo thứ 88. Không lẽ lịch đạo
Cao Đài được tính từ năm 1925? Đó là năm Đức Cao Đài mới vừa tuyển độ nhóm tông
đồ Cao Quỳnh Cư, Phạm Công Tắc, Cao Hoài Sang ở phố Hàng Dừa (nay là đường Cống
Quỳnh, quận 1, khu vực chợ Thái Bình).
Và có lẽ sẽ hơi “rối” khi đạo Cao Đài chuẩn bị tổ chức một trăm năm Khai
Đạo. Sẽ là 1926-2026? Hay sẽ lấy năm Đạo 89 (năm 2013) cộng thêm 11 năm nữa để chọn
năm 2024?
BỐN
Thật ra, Đức Cao Đài tuyển độ các tông đồ bắt đầu từ năm 1920, và trước
tiên là tiền bối Ngô Văn Chiêu.
Dân gian có câu “Mùng chín vía
Trời”. Ngày mùng chín tháng Giêng Bính Dần (20-02-1926), tại nhà tiền bối
Vương Quan Kỳ ở số 80 đường La Grandière (nay là Lý Tự Trọng, quận 1), sau khi
dâng thánh lễ mừng ngày vía Trời, các tiền bối Cao Đài lập đàn cầu cơ, có Đức
Chí Tôn giáng lâm. Dịp này tiền bối Ngô Văn Chiêu xin Thượng Đế ban cho bài thơ
có ghép tên các môn đệ đang hầu đàn để lưu niệm.
Đức Chí Tôn nhậm lời, bài thánh thi gồm bốn câu như sau:
CHIÊU KỲ TRUNG độ dẫn HOÀI sanh,
BẢN đạo khai SANG QUÍ GIẢNG thành.
HẬU ÐỨC TẮC CƯ thiên
địa cảnh,
HUỜN MINH MÂN đáo thủ đài danh.
Câu chót ghép tên ba đạo hữu hầu đàn:
Huờn, Minh, và Mân.
Ba câu trên ghép tên mười hai tông đồ đầu tiên của Thượng Đế; theo
thứ tự trong bài thơ, các vị gồm có:
(1) Ngô Văn
Chiêu (1878-1932): Công chức.
(2) Vương Quan
Kỳ (1880-1939): Công chức.
(3) Lê Văn Trung
(1875-1934): Công chức nghỉ hưu.
(4) Nguyễn
Văn Hoài (18…?-19…?): Công chức.
(5) Đoàn Văn Bản
(1876-1941): Giáo chức.
(6) Cao Hoài Sang (1901-1971): Công chức.
(7) Lý Trọng Quí (1872-1945): Công chức.
(8) Lê Văn Giảng (1883-1932): Tư chức.
(9) Nguyễn Trung Hậu (1892-1961):
Giáo chức.
(10) Trương Hữu Đức (1890-1976): Công
chức.
(11) Phạm Công Tắc (1890-1959): Công
chức.
(12) Cao Quỳnh Cư (1888-1929): Công
chức.
Con số mười hai. Tôi nghĩ tới mười hai Thánh tông đồ mà Đức Giêsu đã tuyển
chọn. Theo Phúc Âm của
Thánh Matthêu
(10:2-4), các vị gồm có:
(1) Simon (Phêrô), ngư phủ.
(2)
Anrê (anh ông Simon), ngư phủ.
(3)
Giacôbê (con ông Dêbêđê).
(4)
Gioan (em ông Giacôbê).
(5)
Philiphê.
(6)
Batôlômêô.
(7)
Tôma.
(8)
Matthêu, nhân viên thu thuế.
(9)
Giacôbê (con ông Anphê).
(10)
Tađêô.
(11)
Simon (người
Nhiệt Thành).
(12) Giuđa Ítcariốt (kẻ nộp Chúa).
Sau khi Giuđa Ítcariốt tự tử, để cho đủ con số mười hai, Matthia được bốc thăm chọn và bổ sung chỗ khuyết. (Sách Công Vụ
1:23-26)
Ngoài sự trùng hợp ở con số mười hai
tông đồ đầu tiên, lại còn trùng hợp ở cách tuyển chọn tông đồ: Chẳng phải trò
tới tìm Thầy, mà chính Thầy tới tìm trò.
Các tông đồ làm sao nhận biết Chúa, nên
Chúa đã đi trước một bước, tức là
Chúa chủ động đến gọi từng người hãy theo Chúa. Khi Chúa đến gọi, tất cả các vị
đều là những người bình dị, thậm chí có vị còn bị xã hội coi khinh, như Matthêu
vì ông làm nghề thu thuế cho ngoại bang xâm lược (La Mã). Các vị đến với Chúa
trong lúc hãy còn nguyên vẹn những tánh phàm tục của mình, như Gioan là em của Giacôbê,
tánh khí nóng như lửa nên Chúa gọi ông là con trai Thiên Lôi (Maccô 3:17). Các
vị đến từ nhiều góc cạnh xã hội, thành phần gia đình khác nhau; nhưng có chung hai
điểm: Trước khi gặp Chúa, chưa ai được đào tạo để làm nhà truyền giáo, và cũng chẳng
một ai từng có ý tưởng sẽ đi tu.
Qua Phúc Âm chúng ta biết rõ
Đức Giêsu xác nhận chính Ngài là vị Thầy đi bước trước để tìm môn đệ:
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử
anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại…” (Gioan 15:16)
Sau khi Chúa chọn tông đồ theo cách ấy, sang
thế kỷ 20 lịch sử truyền giáo ấy đã lặp lại trong đạo Cao Đài.
Đức Cao Đài Thượng Đế vô hình, làm sao
thấy được mà tới? Đạo chưa ra đời, ai biết chi mà tìm! Cho nên các tông đồ đầu
tiên của đạo Cao Đài chẳng chủ động, mà chính Thượng Đế đi bước trước lần lượt chọn
các vị từ năm 1920 tới 1926. Các tông đồ này xuất thân từ nhiều thành phần xã
hội khác nhau, không ai được đào tạo để đi truyền giáo. Nói theo kiểu bây giờ,
tất cả đều là “tay ngang”, là “nghiệp dư”; nhưng nhờ ơn Thượng Đế, tất cả đã
khiến cho trong một năm đầu tiên mở Đạo, mau chóng thu hút hơn nửa triệu người
rần rần vô Đạo, tạo thành hiện tượng hy hữu ở đất Nam Kỳ.[2]
NĂM
Ngày công khai hóa đạo Cao Đài trước quốc dân đồng bào (19-11-1926) được
Ơn Trên gọi là ngày Khai Minh Đại Đạo. Khai minh là làm cho sáng tỏ ra, để ai
ai cũng thấy được rõ ràng chân lý nền Đại Đạo. Nhưng ánh sáng đó đến từ đâu
nhỉ? Đức Khổng Tử bảo: “Nhân năng hoằng
Đạo.” Chính con người mới là chủ thể mở mang, phát triển Đạo. Vậy, nếu bản
thân môn đồ Cao Đài không là ánh sáng thì làm sao khai minh được Đại Đạo?
Tôi nhớ lời Chúa dạy: “Chính
anh em là ánh sáng cho trần gian. … Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước
mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha
của anh em, Ðấng ngự trên trời.” (Matthêu 5: 14, 16)
Cho nên mỗi mùa Khai Minh Đại Đạo được kỷ niệm, lúc tuổi đạo chồng thêm
một năm, thì người môn đồ Cao Đài lại day dứt, ưu tư khi nhìn thấy nền Đạo của
mình hãy còn nhiều điều chưa được đúng như thánh ngôn, thánh giáo hằng kỳ vọng,
đặt để.
Đạo chưa sáng đâu phải tại vì Đạo không đủ sáng, mà bởi lẽ học trò Đức
Cao Đài vẫn còn thiếu ánh sáng để làm sáng danh Thầy và sáng danh Đạo đấy thôi!
HUỆ KHẢI (26-11-2013)
Nguyệt san CGvDT số
227, tháng 11-2013