Thứ Năm, 18 tháng 2, 2016

ĐĐVU 07-08 / THÁNH THẤT LÀ TRƯỜNG DẠY ĐẠO / Trần Văn Quang

Image result for thánh thất bàu sen
Thánh thất Bàu Sen
Trong chương trình thuyết minh giáo lý hàng tháng của thánh thất chúng ta, hôm nay thay mặt Ban Cai Quản, tôi chia sẻ cùng quý huynh tỷ đệ muội những điều bản thân học hỏi và suy gẫm từ thánh giáo của Đức Hiển Thế Đạo Nhơn và Đức Giáo Tông Đại Đạo Thái Bạch Kim Tinh.[1]
Thánh giáo này tiếp nhận tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài vào Tuất thời, ngày 23 tháng Chạp Kỷ Dậu (30-01-1970), tức là buổi chiều ngày đưa ông Táo về chầu Trời theo phong tục dân gian từ xưa đến nay.
1. Mở đầu, Ơn Trên ban cho bốn câu thơ như sau:
Buổi thế hơn thua mãi giựt giành
Lăn thân vào chốn lợi hư danh
Giựt mình tỉnh giấc hồn phiêu bạt
Thì nắm xương vùi dưới mộ xanh.
Bốn câu này nhằm cảnh tỉnh chúng ta rằng lúc còn sống không biết lo tu, cứ ham mê bon chen, giành giựt, hơn thua những cái danh cái lợi ở trần gian. Mà những danh lợi ấy là giả tạm, bởi vì khi mạng sống chúng ta chấm dứt, chúng ta đâu có đem được danh lợi đó về bên kia thế giới. Chúng ta cũng không có công đức tu hành gì để được về cõi trời bởi cả đời chẳng lo tu. Thế nên chết đi rồi, sau khi xác thịt tan rã, chúng ta chỉ còn là nắm xương tàn vùi dưới đáy mồ xanh cỏ.
2. Thánh giáo dạy tiếp:
HIỂN THẾ ĐẠO NHƠN
“Chào chư Thiên mạng. Chào chư liệt vị đạo đức tam ban.
Hôm nay Tệ Đệ được lịnh đến trước báo đàn, có Giáo Tông Thái Bạch sắp lâm đàn. Trong thì giờ dư đôi phút, Tệ Đệ xin phép liệt vị có ít lời cùng các em địa phương sở tại. Tệ Đệ xin thỉnh chư liệt vị đồng an tọa.
Sau đây, Tệ Huynh chào mừng các em trong Ban Cai Quản Ngọc Minh Đài.”
Đấng giáng đàn hôm ấy là Đức Hiển Thế Đạo Nhơn. Lúc còn sống, Ngài tên là Phan Văn Thanh, sinh năm 1890. Ngài nhập môn Cao Đài, tu học và hành đạo tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài, và tạ thế năm 1950. Ngài phải luân hồi một kiếp nữa để trả sạch nợ trần trong sáu năm rồi mất. Bấy giờ Ngài được đưa về cung Thái Ất tu thêm chín năm và đắc quả vị Hiển Thế Đạo Nhơn. Thiên Đình ban ơn cho Ngài trở về trần gian dạy đạo lập công. Lần giáng đàn đầu tiên của Ngài là ngày 10-5 Ất Tỵ (09-6-1965) tại thánh tịnh Ngọc Minh Đài.
Nếu chúng ta đã đọc bài “Hành Trình Về Cõi Hư Linh” in trong quyển Câu Chuyện Đức Tin của Diệu Nguyên,[2] thì sẽ biết rõ hơn câu chuyện đời Ngài trong kiếp luân hồi sáu năm trước khi đắc quả.
Đức Hiển Thế Đạo Nhơn hôm ấy trở lại thánh tịnh Ngọc Minh Đài để báo đàn cho Đức Giáo Tông, nhân tiện Ngài để lời dạy đàn em của Ngài đang tu hành tại thánh tịnh này. Chúng ta để ý thấy, khi về đàn trước tiên Ngài chào các vị Thiên ân chức sắc, chức việc từ nơi khác đến thánh tịnh, rồi sau đó Ngài mới chào Ban Cai Quản thánh tịnh Ngọc Minh Đài.
Ta hiểu, Đức Hiển Thế Đạo Nhơn xem Ngài vẫn là người xưa của Ngọc Minh Đài, thuộc về bên chủ nhà. Do đó, vừa giáng đàn thì Ngài chào khách trước, xong rồi mới chào đàn em trong nhà. Đó là Ngài làm gương dạy chúng ta phải biết thủ lễ trong giao tiếp, cho xứng đáng là kẻ tu hành, phải trọng lễ giáo.
3. Đức Hiển Thế Đạo Nhơn dạy:
“Tệ Huynh rất hài lòng nhìn thấy những kết quả ban sơ mà các em đã thâu đạt được. Tuy chưa phải là điều mãn nguyện nhưng cũng đánh dấu trong lịch trình hành đạo sở tại một điểm son. Sự thành công ấy do nơi tâm thành của các em nêu cao tinh thần đạo hạnh, đạo đức. Các em đã và đang cải tiến lề lối làm việc và biết kính nể, nhường nhịn, thương yêu lẫn nhau. Đó là một số vốn rất lớn về tinh thần đạo đức.
Chúng ta đừng nghĩ rằng ở đây Đức Hiển Thế Đạo Nhơn dạy riêng cho bổn đạo Ngọc Minh Đài, nghĩa là không liên quan tới chúng ta.
Đức Khổng Tử dạy: “Ba người đi chung, ắt có một người làm thầy ta: Lựa cái hay của người này mà học, xét cái quấy của người kia mà tự sửa mình.” [3]
Vậy, hãy lấy ưu điểm của đồng đạo chúng ta ở thánh tịnh Ngọc Minh Đài mà xét xem mình có được như vậy chưa. Các ưu điểm đó là:
- Tâm thành nêu cao tinh thần đạo hạnh đạo đức.
- Cải tiến lề lối làm việc.
- Biết kính nể, nhường nhịn, thương yêu lẫn nhau.
Đức Hiển Thế Đạo Nhơn xác định rằng ba ưu điểm này chính là một số vốn rất lớn về tinh thần đạo đức.
Người đi buôn phải có tiền làm vốn. Người đi đường cũng phải có chút vốn lận lưng. Chúng ta là người tu hành đang cố gắng bước lên con đường trở về Thầy Mẹ, vậy chúng ta cũng cần có chút vốn ban đầu, chính là ba điểm mà Đức Đạo Nhơn đã nêu trên.
4. Thánh giáo dạy:
“Các em thử nghĩ lại mà xem: Người thế gian đến chùa thất để mà chi? Có phải vì đã chán ngấy những sự giả dối, hơn thua, bè phái, tiếng bấc tiếng chì, thiếu lễ giáo, nên mới gần cửa đạo để được xoa dịu tinh thần căng thẳng của thế tình lãnh đạm và được nghe lời giảng dạy đạo lý và cử chỉ tác phong đạo hạnh của người tu, phải vậy không các em?”
Trên đây Đức Hiển Thế Đạo Nhơn nhắc chúng ta nhớ mấy điểm căn bản của người tu trong thánh sở Cao Đài.
Điểm thứ nhất là thể hiện lễ giáo. Hồi đầu, khi tìm hiểu thứ tự lời Đức Đạo Nhơn chào khách ngoài trước rồi sau mới chào người nhà, chúng ta đã biết đó là Ngài làm gương cho chúng ta biết thủ lễ với nhau. Kế đến Ngài dạy chúng ta phải biết nhường nhịn, thương yêu nhau.
Một người vì đã chán cảnh giả dối, giành giựt, lấn hiếp ngoài đời mà tìm vào thánh thất chúng ta để tu học. Nếu vào thất lại thấy đạo hữu cũng kết phe kết bầy, húng hiếp lẫn nhau, đàn em mà bất kính đàn anh đàn chị, lấn lướt bề trên, hoặc đàn anh đàn chị không biết nhường nhịn, thương mến đàn em, thì chắc chắn họ sẽ xa rời thánh thất, bỏ Đạo. Như vậy, chúng ta đã phạm lỗi với Thầy, gây tiếng xấu cho Đạo, và xô đẩy người muốn tu lìa xa cửa Đạo.
5. Thánh giáo dạy:
“Dầu một tín hữu cũng vậy, đã vào Đạo, biết niệm Phật Tiên Thánh, biết chay lạt, biết đọc kinh, hơn nữa là ở trong địa phận chùa thất, dầu gặp cảnh ngộ nào có trái tai gai mắt hoặc không hài lòng, cũng phải cố nén lòng phẫn nộ hạ đẳng, tìm lời dịu dàng có lễ độ để minh xác biện hộ, hoặc xử sự với nhau cho thích hợp với hoàn cảnh. Như vậy mới hơn người thế gian là ở chỗ đó.
Thật ra ở ngoài đời, em nào cũng có gia tư, có trí khôn, có thế lực, có hùng biện của người thế gian, chớ đâu phải thua sút gì ai đâu. Nhưng khi vào Đạo, đến chùa thất là phải tạm dẹp tất cả những khí tiết ngôn ngữ tầm thường hạ đẳng để trở nên người đạo đức thanh cao. Ở chốn chùa thất có thiếu là thiếu những điều ấy, chớ ngoài thế gian có thiếu chi.
Vậy nên điều cần yếu cho người tu hành trong nếp sống thường nhựt là phải giữ tánh ôn hòa kiên nhẫn, nhịn nhục thuận thảo, vẻ mặt điềm đạm khả ái, lời nói chứa đựng sự giác ngộ, xây dựng và đượm vẻ bác ái chân thành. Có như vậy mới hơn người ngoài thế gian. Tiên Huynh mừng cho các em đã thể hiện được phần nào ở chỗ đó.”
Trong đoạn này Đức Hiển Thế Đạo Nhơn dạy chúng ta rằng thánh thất không phải là chỗ để tranh đua như ngoài đời. Người biết tu, tuy ngoài đời họ chẳng kém ai, nhưng vào thánh thất thì ráng làm thinh để nhịn nhục những chuyện trái tai gai mắt. Tiếc thay! Có người quen thói đời húng hiếp lẫn nhau, thấy thế lại nghĩ lầm rằng đạo hữu ấy là dở, kém cỏi hơn, nên càng lấn tới mà có lời nói hay cử chỉ càn quấy, trái đạo.
Nói cách khác, qua lời dạy của Đức Hiển Thế Đạo Nhơn, chúng ta cần nhớ rằng trong thánh thất nếu chúng ta có hơn kém nhau là ở chỗ đạo đức tánh hạnh chớ không phải hơn thua nhau ở lời lẽ thị phi, hành vi lấn hiếp những bạn đạo hiền lành.
6. Thánh giáo dạy:
“Các em ơi! Bàn tay còn có ngón vắn ngón dài, trong đám dưa còn có trái thẳng ngay, trái đèo đẳng. Sự tiến hóa trong tâm hồn con người cũng vậy. Nếu gặp trong hàng huynh đệ có những cử chỉ hoặc lời nói, hoặc hành động không được hài lòng, đừng vội giận dỗi, dùng lời nặng nhẹ khiển trách hoặc ghét bỏ, mà phải thông cảm, tìm lời an ủi vỗ về nhẹ nhàng khả ái để tập cho hàng huynh đệ ấy lần hồi trở nên đứng đắn. Có được vậy mới thể hiện được nghĩa câu kinh Cứu Khổ mà các em thường tụng. Đó là “Sử nhơn vô ác tâm, linh nhơn thân đắc độ.” Được như vậy mới là “Hồi quang bồ tát, hồi thiện bồ tát” đó các em.”
Ở đoạn trên, Đức Hiển Thế Đạo Nhơn dạy: “Nhưng khi vào Đạo, đến chùa thất là phải tạm dẹp tất cả những khí tiết ngôn ngữ tầm thường hạ đẳng…”
Ở đoạn này, Đức Hiển Thế Đạo Nhơn nhắc nhở lần nữa: “đừng vội giận dỗi, dùng lời nặng nhẹ khiển trách hoặc ghét bỏ…”
Trời sinh chúng ta chỉ có một cái miệng, mà thường chúng ta phạm lỗi chỉ vì nó. Cho nên thánh ngôn, thánh giáo luôn khuyên chúng ta phải giữ mồm giữ miệng.
Bên Minh Lý Đạo, trước khi tụng kinh còn phải đọc thần chú Tịnh Khẩu, để răn lòng nhớ giữ mồm miệng cho thanh cao, trong sạch thì tụng kinh mới linh ứng, mới được Thiêng Liêng chứng giám. Bài Tịnh Khẩu Chú có bốn câu, do Đức Tây Phương Phật Tổ giáng cơ ban cho như sau:
Lời ăn nói là nơi lỗ miệng
Tiếng luận đàm liệu biện đề phòng
Giữ gìn miệng đặng sạch trong
Thốt lời minh chánh, rèn lòng tụng kinh.
Thí dụ, chúng ta vào thánh thất. Chưa tới giờ cúng bèn tụ họp thành nhóm tán chuyện rôm rả rất vui. Hễ quá vui thì hay quá trớn, quên dè dặt, chúng ta dễ mắc tật ngồi lê đôi mách, đem chuyện đồng đạo ra bàn tán, khen chê. Vậy là mình phạm khẩu nghiệp rồi.
Trước giờ tụng kinh mình không có thủ tục đọc Tịnh Khẩu Chú mà còn ngồi lê đôi mách phạm nghiệp khẩu, nhưng khi lên cúng thời trên chánh điện, mình vẫn cứ vô tư! Có lẽ vì vậy mà phần đông chúng ta tu hành hoài vẫn không tiến bộ chăng?
7. Thánh giáo dạy:
“Thôi hết giờ, chư liệt vị chỉnh đàn nghinh tiếp Giáo Tông Thái Bạch vừa đến. Tệ Đệ xin chào chung với lời cảm ơn nồng thắm. Thăng.
8. TIẾP ĐIỂN
GIÁO TÔNG ĐẠI ĐẠO THÁI BẠCH KIM TINH
THI
Giáng trần nào phải để ngao du
Muốn độ người đời biết chữ tu
Tu tánh tu tâm trừ nghiệp chướng
Tu nhân tu quả lánh oan thù
Tu không tham dục nên Tiên Phật
Tu chẳng lợi danh thoát ngục tù
Xây dựng đạo nhà, yên việc nước
Nhà yên nước trị rạng công phu.
“Bần Đạo mừng chư đại diện các thánh thất, thánh tịnh. Mừng chư hiền đệ, hiền muội đẳng đẳng đàn trung
Với hai câu mở đầu bài thơ, Đức Giáo Tông xác định rằng Ngài giáng đàn không phải để ngao du, không phải để vui chơi; mà là để lo cứu độ, lo giúp chúng ta tu hành.
Đó là Ngài dạy chúng ta hãy noi gương Ngài, chớ ham vui chơi mà hãy biết siêng tu học.
Thế gian thường nói các vị Tiên quen thú hưởng nhàn, nhưng vị Đại Tiên Trưởng của chúng ta không hưởng nhàn. Là Giáo Tông Đại Đạo nên Ngài không thể riêng hưởng cảnh nhàn ở Thiên Đàng mà phải nặng gánh trách nhiệm thay Thầy dạy dỗ, săn sóc chúng ta tu học.
Ngược lại, chúng ta chưa đắc đạo, tu hành chưa tới đâu mà rất ham vui, khoái đi chơi, thích ngao du.
Khi được một thánh sở ở xa mời dự lễ, nếu thấy chỗ đó khỉ ho cò gáy, thì chúng ta đùn đẩy người khác đi thế.
Ngược lại, nếu thánh sở đó nằm ở miền biển đẹp như Nha Trang, Long Hải... hay cao nguyên hữu tình như Đà Lạt, thì chúng ta thường rủ rê nhau đi cho đông, mướn nguyên một chiếc xe. Mượn cớ là liên giao hành đạo nhưng chủ yếu là kết hợp để đi chơi cho sướng. Cuộc lễ ở xa tổ chức chỉ trong một buổi sáng, nhưng xong lễ rồi chúng ta sẽ nán lại đi chơi thêm vài ngày nữa, lấy lý do là để khỏi uổng công đi xa hàng trăm cây số.
Khi đi chơi xa nhiều ngày như vậy, chúng ta bỏ mất những thời cúng, bỏ mất nhiều giờ công phu tu tịnh. Đời chúng ta ngắn ngủi, đố ai dám chắc mình còn khỏe mạnh tới bao lâu mà dám phung phí kiếp sống của mình. Sao không tiếc thời gian, không lo dành dụm thời gian mà siêng học giáo lý, siêng lo tu thiền...
Bây giờ điều kiện an toàn giao thông quá kém. Báo chí đưa tin tai nạn đường bộ xảy ra thường xuyên và rất nhiều, rất nghiêm trọng. Chúng ta đi hành đạo thì còn dám cầu nguyện chư Thần đi theo phù hộ cho mình bình an. Nhưng nếu chúng ta đi chơi, đố ai dám cầu nguyện làm phiền các Đấng. Còn phải để các Đấng lo tu tiến cho chính các Đấng nữa chớ.
Trong bài này Đức Giáo Tông dạy chúng ta tiết kiệm thời gian để lo tu học. Còn Đức Hiển Thế Đạo Nhơn trước đó dạy chúng ta giữ lễ phép, lịch sự trong giao tiếp.
Chúng ta đừng nghĩ rằng chuyện này là chuyện nhỏ nhặt. Bởi lẽ, ngày 07-10-1960, khi giáng đàn ở Hội Thánh Tam Quan (Bình Định), Đức Chí Tôn dạy chúng ta phải tu Tam Công; trong Tam Công có Công Trình; trong Công Trình có yêu cầu phải giữ lịch sự, lễ độ trong giao tiếp và giữ gìn lời ăn tiếng nói, đừng ham chơi lêu lổng hết sáng lại chiều, đừng ngồi lê đôi mách, phải dành thời gian tu học cho tâm linh sáng tỏ.
Hôm ấy, Đức Chí Tôn dạy con cái như sau:
Bỏ những lúc nhàn dung đôi mách
Dạy từng lời tư cách tiếp giao
Bỏ xa thế lực phú hào
Dạy tôn phẩm vị đặt vào nhơn phong.
Bỏ lối nói dài dòng tục tĩu
Dạy học lời êm dịu thanh bai
Bỏ khi lêu lổng chiều mai
Dạy nên cần mẫn giồi mài điểm linh.
9. Thánh giáo dạy:
“Mỗi đơn vị thánh thất, thánh tịnh là một giáo đường hướng dẫn người đời lìa chốn sông mê để trở về bến giác. Có ý thức được như vậy thì giá trị của người hành đạo cũng đồng chung như những công việc khác trong thời quốc biến gia vong.”
Quốc biến gia vong nghĩa là nước loạn, nhà mất. Đức Giáo Tông dạy bài này đầu năm 1970. Lúc ấy chiến tranh trên đất nước chúng ta vô cùng tàn khốc.
Đức Giáo Tông dạy: “Mỗi đơn vị thánh thất, thánh tịnh là một giáo đường hướng dẫn người đời lìa chốn sông mê để trở về bến giác.”
Chúng ta hiểu rằng đường là cái nhà rộng lớn; giáo là dạy. Giáo đường là cái nhà rộng lớn để dạy đạo cho tín đồ.
Suy ra, một giáo đường hay một thánh thất nếu chỉ có cúng lạy, làm đám, chỉ có lễ lạt ăn uống linh đình thì làm mất ý nghĩa dạy đạo của thánh sở.
Ban Cai Quản một thánh thất mà bỏ bê việc dạy đạo cho tín đồ thì Ban Cai Quản làm sái Tân Luật.[4]
Các tín đồ mượn cớ bận làm ăn, bận việc đời mà né tránh giờ học đạo, không đến nghe thuyết giảng vào hai ngày sóc vọng tại thánh thất (nhưng lại thích lễ lạt ăn uống linh đình), thì tín đồ đã quên rằng Thầy cho lập thánh thất là để dạy đạo.
Thánh thất là trường học đạo. Nhập môn rồi mà sợ học giáo lý tức là trốn học ham chơi.
l Tại sao Đức Giáo Tông nhắc nhở chúng ta ý nghĩa thánh thất là trường dạy đạo?
Câu trả lời của Ngài như sau:
“Hơn nữa, công việc hành đạo lại đắt giá hơn về phương diện tinh thần, vì mọi hành động của con người đều do nội tâm xuất phát. Nếu đem đạo cải tạo tư tưởng con người thì những thói hư tật xấu, những điều độc ác thất đức bất nhân sẽ bị tiêu diệt ngay từ trong trứng nước ở nội tâm, thì còn đâu mà bộc phát những hành động.”
Như vậy, thánh thất phải dạy đạo để cải tạo tư tưởng con người, hướng tư tưởng con người vào lẽ tốt lành, thánh thiện. Tư tưởng tốt thì nó sai khiến ta hành động tốt. Ngược lại, tư tưởng quấy thì nó sai khiến ta hành động trái đạo lý.
Tiếp theo đó, Đức Giáo Tông dạy thêm như sau:
“Hơn một lần, Bần Đạo có nói rằng bố thí thực phẩm cho người đói lòng là một nghĩa cử từ thiện có phước đức công quả, nhưng bố thí lời đạo đức để giác ngộ người đói kém về mặt tinh thần lại càng phúc đức, công quả trọng đại hơn.”
Đức Giáo Tông nhắc: Hơn một lần, Bần Đạo có nói rằng...”
Hơn một lần có nghĩa là Ngài đã dạy rồi, mà chúng ta không thuộc bài cho nên Ngài phải dạy lại lần nữa, phải ôn bài cho chúng ta. Ngài ôn cho chúng ta điều gì?
“Bần Đạo có nói rằng bố thí thực phẩm cho người đói lòng là một nghĩa cử từ thiện có phước đức công quả, nhưng bố thí lời đạo đức để giác ngộ người đói kém về mặt tinh thần lại càng phúc đức công quả trọng đại hơn.”
Đức Giáo Tông đưa ra hai loại công quả:
A. Bố thí thực phẩm. Hiểu rộng ra là làm từ thiện, giúp cơm áo, tiền bạc, thuốc men cho người nghèo, nạn nhân chiến tranh, v.v... Hoặc đem tiền mặt, hoặc lấy tiền mua cơm gạo, áo quần, thuốc men... để bố thí, thì Phật Giáo gọi chung là tài thí. Tài là tiền bạc.
Tài thí được Đức Giáo Tông khen ngợi, nhưng Ngài cho biết nó còn kém hơn loại bố thí thứ hai.
B. Bố thí lời đạo đức. Hiểu rộng ra là khuyên nhủ người khác làm lành lánh dữ, là thuyết giảng cho người khác hiểu đạo, là soạn sách và ấn tống để truyền bá đạo lý cho đông đảo người được giác ngộ. Phật Giáo gọi chung loại bố thí thứ hai này là pháp thí.
Đức Giáo Tông nhấn mạnh rằng bố thí lời đạo đức để giác ngộ người đói kém về mặt tinh thần lại càng phúc đức, công quả trọng đại hơn.”
Thánh thất Bàu Sen chúng ta tuy nhỏ bé, nhưng chúng ta nhiều năm liền duy trì được chương trình thuyết minh giáo lý hàng tháng. Đó là pháp thí, là thực hành chức năng của thánh thất là một trường giáo đạo. Đây là điểm tốt của họ đạo Bàu Sen. Tốt mà chưa hoàn toàn. Tại sao vậy?
Bởi vì một buổi thuyết đạo thường chỉ quy tụ được vài chục tín đồ ở gần thánh thất. Bà con ở xa rất khó đến dự. Cho nên tác dụng buổi thuyết đạo còn nhiều hạn chế.
Trái lại, nếu in một quyển sách giáo lý được vài ngàn quyển, rồi tái bản thêm vài lần nữa. Sách được phổ biến khắp nơi. Mỗi nhà mà có tủ sách giáo lý thì khác gì một lớp học thường trực. Lúc nào cũng có thể mở ra xem, lúc nào cũng có thể ôn học giáo lý trong đó. Cho nên tác dụng của kinh sách ấn tống vượt trội hơn một buổi thuyết minh giáo lý về nhiều mặt.
Năm năm qua, thánh thất chúng ta là một điểm tổng phát hành kinh sách ấn tống. Đã in hơn sáu mươi đầu sách. Nhiều đầu sách tái bản hai, ba lần rồi. Mỗi lần in bình quân năm ngàn quyển. Kinh sách phổ truyền đi khắp nước, truyền ra cả hải ngoại.
Nhiều tín đồ ở xa nhiều năm dài không được học giáo lý ở thánh thất, thánh tịnh của mình. Bây giờ có kinh sách ấn tống phong phú dồi dào, bà con mừng lắm, quý trọng lắm!
Trái lại, trong thánh thất chúng ta, thật sự có bao nhiêu tín đồ chịu đọc sách để học hỏi thánh ngôn, thánh giáo được giảng giài rành mạch trong đó? Nhiều khi nghe hiền huynh Chánh Hội Trưởng ngâm một đoạn thánh thi, thì có tín đồ xúm lại khen hay và xin huynh Đạt Tịnh chép lại.
Nhưng đoạn đó đã in trong sách ấn tống lâu rồi. Huynh Chánh Hội Trưởng siêng học, nên chép ra sổ tay mà ngâm nga để thuộc bài và nhớ lâu. Những ai hỏi xin chép lại tức là họ không chịu đọc sách, thấy sách biếu miễn phí thì cứ cầm về nhà, rồi chẳng thèm đọc.
Tình trạng này cho thấy vẫn còn một số tín đồ chưa ý thức để siêng tu siêng học. Nói lên tình trạng đó không phải để chỉ trích gì nhau. Mà để nhìn thấy những gì trong thánh thất chúng ta chưa hoàn hảo. Thánh thất chúng ta đã và đang là một trường giáo đạo, nhưng chúng ta còn phải rất cố gắng để ngôi trường đạo này càng ngày càng xứng đáng với bảng hiệu Cao Đài Giáo Lý mà tiền bối Phan Thanh tức Đức Bạch Liên Tiên Trưởng đã gầy dựng từ xưa.
Huynh Chánh Hội Trưởng Đạt Tịnh cách đây rất nhiều năm đã cho dựng hai bảng hiệu Cao Đài Giáo Lý ở hai đầu con hẻm đi vào thánh thất Bàu Sen. Như thế có nghĩa là tới thánh thất Bàu Sen là để được trang bị nguồn giáo lý Cao Đài, vì Bàu Sen là một trường giáo đạo.
Hôm nay nhắc với nhau như vậy để toàn thể tín đồ trong họ đạo Bàu Sen chúng ta hãy cùng nhau đoàn kết, nêu cao tinh thần tu học, sửa đổi những khuyết điểm trong dĩ vãng.
10. Để củng cố lại những trọng điểm của câu chuyện đạo lý sáng nay, chúng ta hãy lắng lòng nghe kỹ thánh giáo của Đức Giáo Tông Đại Đạo. Thánh giáo dạy:
... thánh đường hiện nay rất nhiều, từ Tòa Thánh, Hội Thánh đến thánh thất, thánh tịnh. Đáng lý ra những nơi này phải là nơi dùng làm trường đạo giáo dân, trong lúc đó chỉ có một ít hành động, lấy tỷ lệ như những hột cát trong bãi sa mạc.
Đừng quan niệm xây dựng thánh thất và kiếm được một người thủ tự để bốn thời quỳ hương cúng nước là đủ. Thượng Đế Chí Tôn không bảo làm việc quá nghèo nàn ít oi như vậy. Vì, như đã nói: Thánh thất là trường giáo dân, ngoài chỗ thờ phượng tôn nghiêm đơn giản.
Nếu mỗi thánh đường dùng mọi trang trí lộng lẫy huy hoàng tôn nghiêm tráng lệ mà chung quanh vùng đó chưa có nhiều người vào đạo, hiểu đạo, thậm chí đến con em trong gia đình hướng đạo cũng không được sự dạy dỗ đạo lý, đó là trái với mục đích mở Đạo của Thượng Đế Chí Tôn.
Thánh thất chúng ta nhỏ bé, ở trong khu lao động bình dân. Nhưng chúng ta đừng vì thế mà tự coi thường mình, tự đánh mất giá trị của mình. Chúng ta phải biết thực hành lời dạy sau đây của Đức Giáo Tông :
“Luôn luôn phải nhớ rằng mình là những viên gạch tốt, những hột cát tốt, những hột xi măng tốt, sẵn sàng kiện toàn và sẵn sàng chuẩn bị để xây một lâu đài chắc chắn nguy nga tráng lệ. Ngôi nhà ấy là tòa lâu đài Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Phải vượt lên trên tất cả những khuyết điểm đã nói ở trên, phải quan trọng hóa sứ mạng cao cả của người tín hữu hoặc chức sắc, chức việc cũng vậy. Mình có tự trọng mình, tha nhân [người khác] mới trọng mình. Hễ có tự trọng, tất nhiên không cẩu thả trong việc xử sự, phát ngôn và hành động.
Mỗi một tín hữu hay chức việc, chức sắc là một điển hình cho Đại Đạo. Đừng tưởng rằng mình là hột cát nhỏ vô danh rồi tự ti mặc cảm, thiếu thận trọng.
(...)
Lời sau cùng, (...) Bần Đạo muốn thấy mỗi một thánh thất, thánh tịnh ý thức thể hiện được một hình thể tạm gọi là trường giáo dân. Trước nhứt là giáo dục con em trong gia đình đạo hữu để làm đà tiến cho các lãnh vực rộng rãi khác trong khuôn viên đạo đức.
Lời dạy của Đức Giáo Tông Đại Đạo rất giản dị và dễ hiểu. Chúng ta nếu biết thật sự thương Thầy, thương Đức Giáo Tông thì phải ráng học và hành cho đúng lời Ngài từ bi dạy dỗ nhiều phen.
Xin quý huynh tỷ, đệ muội hãy cùng chúng tôi hứa nguyện với Thầy, với Ngài.
Nam mô Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát.
Nam mô Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ.
TRẦN VĂN QUANG
Phó Cai Quản thánh thất Bàu Sen




[1] Bài nói chuyện tại họ đạo của Phó Hội Trưởng thánh thất Bàu Sen, sáng 15-6 Quý Tỵ (22-7-2013).
[2] Quyển 25-3 trong Chương Trình Chung Tay Ấn Tống Kinh Sách Đại Đạo (Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2012), tr. 23-25.
[3] Luận Ngữ 7:22.
[4] Chương III, Điều Thứ Mười Chín: Một tháng hai ngày sóc vọng, bổn đạo phải tựu lại thánh thất sở tại mà làm lễ và nghe dạy.


Đại Đạo Văn Uyển trân trọng giới thiệu quý đạo hữu
blog UNDERSTANDING CAODAISM gồm các bài tiếng Anh của
HUỆ KHẢI viết về đạo Cao Đài tại địa chỉ: