Thứ Hai, 15 tháng 2, 2016

ĐĐVU 06 / DẪN VÀO KINH DỊCH / R. Wilhelm (1873-1930)

Image result for kinh dịch
LÊ ANH MINH dịch từ tiếng Đức
Phần dẫn nhập quyển I Ging - das Buch der Wandlungen (Kinh Dịch – Quyển Sách Của Các Biến Dịch). München: Nxb Diederichs, 2001, tr. 15-22.
Chu Dịch (sách về các biến dịch) ([1]) hiển nhiên là một trong các quyển sách quan trọng nhất của nền văn học thế giới. Chu Dịch bắt đầu xuất hiện từ thời cổ đại đầy huyền thoại. Cho đến hôm nay nó vẫn còn là mối bận tâm của các học giả lỗi lạc nhất Trung Quốc.
Hầu như tất cả những tư tưởng quan trọng và vĩ đại trong hơn ba ngàn năm lịch sử Trung Quốc đã phát khởi từ sách này, hoặc đã tác động ngược lại vào sự giải thích về sách này, cho nên người ta có thể yên tâm nói rằng sự minh triết già dặn mấy ngàn năm đã được đúc kết trong Chu Dịch.
Do đó chẳng có gì lạ rằng hai nhánh Nho Giáo và Đạo Giáo trong triết học Trung Quốc đều bắt nguồn từ nó. Luồng ánh sáng hoàn toàn mới mẻ từ sách này soi rọi vào sự bí mật trong các mô thức tư duy u ẩn của Lão Tử huyền bí và các đệ tử của ngài, cũng như soi rọi vào những ý tưởng xuất hiện trong truyền thống Nho Giáo như là các công lý được mặc nhiên chấp nhận.
Thực vậy, chẳng những triết học mà còn khoa học tự nhiên và thuật trị nước nữa đã không ngừng rút tỉa từ nguồn minh triết này, và chẳng gì lạ rằng Chu Dịch là quyển sách duy nhất của kinh điển Nho Gia đã thoát khỏi đại nạn đốt sách (năm 213 TCN) đời Tần Thủy Hoàng.
Thậm chí cuộc sống hằng ngày của người Trung Quốc cũng chịu nhiều ảnh hưởng của Chu Dịch. Nếu đi qua các phố phường của một thành phố Trung Quốc, người ta sẽ bắt gặp ở một góc phố đâu đó một thầy bói ngồi bên chiếc bàn tươm tất với bút lông và tấm bảng, để rút ra từ quyển triết thư cổ xưa này những lời khuyên bảo và những thông tin cho những rối rắm vụn vặt của cuộc đời.
Không chỉ thế, người ta còn bắt gặp các bảng hiệu như các tấm liễn gỗ sơn mài đen treo dọc trang trí cho cửa tiệm mà các chữ Hán sơn nhũ vàng trên đó với lời lẽ hoa mỹ luôn luôn gợi nhớ những ý tưởng và các trích dẫn từ Chu Dịch. Ngay cả nền chính trị của một nước hiện đại như Nhật Bản vốn nổi tiếng về sự thận trọng khôn ngoan trong những tình huống khó khăn cũng không xem thường những lời khuyên bảo của Chu Dịch.
Theo dòng thời gian, do sự nổi tiếng của sự minh triết trong quyển Chu Dịch, một số học thuyết huyền bí mà nguồn gốc của chúng ở trong mô thức tư duy khác (có lẽ là nguồn gốc ngoại lai) đã kết hợp với các học thuyết trong Chu Dịch.
Từ đời Tần (221-206 trước Công Nguyên) và đời Hán (206 TCN-220 Công Nguyên) bắt đầu có thêm một môn triết học tự nhiên hình thức bao quát toàn cõi tư tưởng với hệ thống tượng số. Kết hợp thuyết âm dương với thuyết ngũ hành lấy từ Kinh Thư, môn triết học này khiến thế giới quan của Trung Quốc ngày càng trở thành hình thức khô cứng.
Do đó những tư tưởng thần bí càng thêm chi li đã bao trùm Chu Dịch bằng đám mây mù huyền bí, và khi thâu tóm mọi sự việc quá khứ vị lai vào trong hệ thống các con số, chúng đã khiến Chu Dịch nổi tiếng là quyển sách thâm sâu khó hiểu.
Những tư tưởng thần bí ấy cũng là nguyên nhân làm thui chột những mầm mống của nền khoa học tự nhiên phóng khoáng của Trung Quốc từng xuất hiện vào thời của Mặc Tử (khoảng 478-392 TCN) và các môn đệ của ông. Điều này dẫn đến một truyền thống viết sách và đọc sách biệt lập, xa lìa kinh nghiệm thực tế, khiến Trung Quốc bao lâu nay đã hiển hiện trong con mắt của phương Tây như một sự bế tắc vô vọng.
Tuy nhiên người ta chớ quên rằng bên cạnh cái học tượng số huyền bí máy móc ấy vẫn hằng tồn tại một dòng sông minh triết thâm sâu của nhân loại thông qua quyển sách tuôn chảy vào đời sống hằng ngày, đồng thời đã ban tặng cho nền văn hóa Trung Quốc vĩ đại một sự khôn ngoan già dặn về nhân sinh được chắt lọc bao đời – sự khôn ngoan mà chúng ta hôm nay còn ngậm ngùi ngưỡng mộ nơi các tàn dư của nền văn hóa cổ truyền bản địa này.
Chu Dịch thực chất là gì? Để hiểu được Chu Dịch và giáo huấn của nó, trước hết chúng ta phải mạnh dạn tước bỏ những giải thích dày đặc đã đưa mọi ý tưởng khả dĩ từ bên ngoài vào sách.
Tương tự, chúng ta cũng cần xử lý sự thần bí mê tín của các đồng cốt (vu hịch) Trung Quốc ngày xưa hoặc những thuyết không kém mê tín của các học giả châu Âu cận đại đã giải thích mọi nền văn hóa lịch sử bằng kinh nghiệm của họ về người nguyên thủy.
Ở đây chúng ta phải nắm nguyên tắc cơ bản là Chu Dịch cần phải được giải thích từ bản thân nó và từ thời đại mà nó được hình thành. Có như thế thì sự tối tăm sẽ tự giảm đi một cách khả quan và chúng ta sẽ nhận thấy rằng tuy là một quyển sách thật thâm sâu nhưng Chu Dịch không đến nỗi khó hiểu hơn bất kỳ quyển cổ thư nào còn sót lại đến ngày nay.
I. CÔNG DỤNG CỦA KINH DỊCH
1. Kinh Dịch là sách bói
Trước hết Kinh Dịch là tập hợp các quẻ dùng để bói. Bói toán là sinh hoạt phổ biến thời cổ đại mà hình thức bói toán ban sơ chỉ giới hạn ở lời giải đáp Không và cách giải đáp ấy là cơ sở ban đầu của Kinh Dịch. Câu đáp được biểu thị bằng một vạch liền và câu đáp Không được biểu thị bằng một vạch đứt.
Tuy nhiên, từ rất sớm, người xưa đã có nhu cầu phân biệt cụ thể hơn về lời giải đáp, nên hai loại vạch ấy đã được phối hợp thành bốn biểu tượng (Tứ Tượng).
Rồi một vạch liền hoặc đứt được xếp chồng lên chúng, tạo thành tám quẻ ba vạch (gọi là Bát Quái):
Bát Quái được quan niệm như là các tượng (ảnh tượng) của các hiện tượng trên trời và dưới đất. Đồng thời người ta cũng cho rằng chúng nằm trong một sự chuyển hóa qua lại liên tục, giống như sự chuyển hóa qua lại của các hiện tượng luôn diễn ra trong cõi tự nhiên.
Giờ đây chúng ta có khái niệm cơ bản của Dịch. Bát Quái là tám quẻ tiêu biểu cho các tình huống chuyển hóa; tức là các ảnh tượng tự thân biến dịch mãi. Cái được chú trọng ở sự vật không phải là tình trạng cố hữu của chúng (như trong quan niệm chủ yếu của phương Tây) mà là sự biến dịch của chúng.
Do đó Bát Quái không phải là ảnh tượng của sự vật mà là ảnh tượng của các xu hướng chuyển hóa của sự vật. Như thế tám ảnh tượng này có nhiều ý nghĩa. Chúng thể hiện những tiến trình nào đó trong cõi tự nhiên, tương ứng với bản chất của tám quẻ.
Ngoài ra chúng còn tiêu biểu một gia đình gồm cha, mẹ, và sáu người con (ba nam, ba nữ) theo một ý nghĩa có thể gọi là ý nghĩa trừu tượng, chứ không theo ý nghĩa thần thoại giống như kiểu thần linh sáng tạo ra cõi thiên đường Hy Lạp Olympus. Theo ý nghĩa trừu tượng ấy, các chức năng được thể hiện, chứ không phải sự vật được thể hiện. Tám biểu tượng nền tảng của Kinh Dịch được tóm lược như sau: 
Quẻ
Tính chất
Ảnh tượng
Gia đình
CÀN
(sáng tạo)
mạnh mẽ
trời
cha
KHÔN
(thụ nhận)
nhu thuận
đất
mẹ
CHẤN
(chấn động)
kích động
sấm
trưởng nam
KHẢM
(sâu thẳm)
nguy hiểm
nước
trung nam
CẤN
(yên tĩnh)
yên tĩnh
núi
thiếu nam
(trai út)
TỐN
(dịu dàng)
xâm nhập
gió, gỗ
trưởng nữ
LY
(bám lấy)
chiếu sáng
lửa
trung nữ
ĐOÀI
(vui vẻ)
vui vẻ
cái hồ
thiếu nữ
(gái út)
Các giai đoạn của yếu tố chuyển động được thể hiện ở ba con trai như sau:
Trưởng nam: Bắt đầu chuyển động.
Trung nam: Sự nguy hiểm trong chuyển động.
Thiếu nam (trai út): Yên lặng và hoàn tất chuyển động.
Các giai đoạn của sự tận tụy được thể hiện ở ba con gái như sau:
Trưởng nữ: Xâm nhập dịu dàng.
Trung nữ: Rõ ràng và thích ứng.
Thiếu nữ (gái út): Yên tĩnh vui vẻ.
Để đạt được sự phong phú hơn nữa, ngay từ thuở xưa Bát Quái đã được xếp chồng lên nhau thành sáu mươi bốn quẻ kép (mỗi quẻ sáu vạch, gọi là trùng quái).
Mỗi quẻ kép gồm sáu vạch (tức sáu hào âm hoặc / và dương). Các vạch (hay hào) được xem là có thể biến đổi. Hễ có một hào [của một quẻ kép] biến đổi thì tình huống được thể hiện bằng quẻ kép ấy cũng sẽ biến đổi.
Thí dụ, chúng ta có quẻ Khôn (thụ nhận, đất). Nó thể hiện tính chất của đất, sự tận tụy hết mình; về thời gian nó ứng với cuối thu khi mọi sinh lực nghỉ ngơi. Nếu hào âm dưới cùng biến đổi, thì nó thành hào dương, và chúng ta có quẻ Phục (trở về).
Phục tượng trưng cho sấm, sự chấn động (Chấn) dưới lòng đất (Khôn) vào những ngày Đông Chí, và sự hồi phục của ánh sáng.
Thí dụ này cho thấy cả sáu hào của quẻ không nhất thiết phải cùng lúc biến đổi. Nó hoàn toàn tùy thuộc vào tính chất của một hào. Hào dương có sức mạnh tăng dần đến cùng cực thì chuyển thành hào âm. Hào dương có sức mạnh yếu hơn thì không biến đổi. Tương tự, hào âm có sức mạnh tăng dần đến cùng cực thì chuyển thành hào dương. Hào âm có sức mạnh yếu hơn thì không biến đổi.
Nơi chương IX của Đại Truyện trong quyển Hai cũng như phần đặc biệt nói về phép bói Dịch (ở cuối quyển Hai) sẽ cho thông tin chính xác hơn về các hào âm (dương) được xem là có tính âm (dương) mạnh đến nỗi phải biến động.
Ở đây chỉ chúng ta cần biết rằng các hào dương động được biểu thị bằng số 9 và các hào âm động được biểu thị bằng số 6; còn các hào tĩnh (nhằm tạo nên hình quẻ chứ không có ý nghĩa nội tại đặc biệt) thì được biểu thị bằng số 7 (cho hào dương tĩnh) và số 8 (cho hào âm tĩnh).
Do đó, kinh văn chép “Sơ cửu nói...” có nghĩa là “hào dương ở vị trí khởi đầu biểu thị bằng số 9 có ý nghĩa như sau...”. Nhưng nếu hào biểu thị bằng số 7 thì nó không được xét đến khi giải đoán quẻ bói. Nguyên tắc đó cũng áp dụng cho các hào biểu thị bằng số 6 và số 8. Trong thí dụ trên chúng ta có quẻ Khôn cấu tạo như sau:
8 thượng vị
8 ngũ vị     
8 tứ vị        
8 tam vị     
8 nhị vị      
6 sơ vị        
—   —
—   —
—   —
—   —
—   —
x
Như vậy năm hào ở trên không được xét đến, còn hào âm dưới chót (hào sơ) là hào động nên biến thành dương. Do đó ta có quẻ Phục.
Theo cách này chúng ta có một loạt các tình huống được biểu thị một cách tượng trưng bằng các hào. Thông qua sự biến động của các hào, tình huống này sẽ thay đổi sang tình huống khác. Tuy nhiên, khi một quẻ được lập chỉ gồm các hào tĩnh 7 và 8, trong quẻ không có sự biến động; như thế, toàn quẻ được xét đến.
Ngoài luật biến dịch và ảnh tượng của các tình huống biến dịch được biểu thị bằng sáu mươi bốn quẻ, còn có một yếu tố nữa cần xét đến. Mỗi tình huống đòi hỏi một cách giải quyết đặc biệt phù hợp với tình huống. Trong mỗi tình huống, có cách giải quyết đúng, có cách giải quyết sai. Tất nhiên cách giải quyết đúng thì cát (tốt), cách giải quyết sai thì hung (xấu).
Vậy thì cách giải quyết nào là cách giải quyết đúng trong từng trường hợp? Câu hỏi này là yếu tố quyết định. Câu hỏi ấy khiến Kinh Dịch có tầm cỡ hơn hẳn một quyển sách bói thông thường.
Khi một bà thầy bói nói với một nữ thân chủ rằng trong vòng tám ngày cô sẽ nhận một giấy báo nhận tiền từ Mỹ. Cô ta chẳng thể làm gì khác hơn là chờ đợi giấy báo nhận tiền đến (hoặc không đến).
Trong trường hợp này, cái được tiên đoán là định mệnh, nó độc lập với những gì mà người ta có thể làm hoặc không làm. Do đó mọi việc bói toán thiếu ý nghĩa đạo đức.
Ngày xưa tại Trung Quốc cổ nhân lần đầu xem bói và không hài lòng với lời tiên tri, nên khi người ấy hỏi “Tôi phải làm gì đây?” tức là Kinh Dịch từ sách bói đã biến thành sách triết.
Tương truyền sự biến đổi sách bói thành sách triết là do Chu Văn Vương (sống khoảng năm 1000 TCN) và con của ông là Chu Công. Những lời khuyên bảo rõ ràng để hành xử đúng đắn được hai vị ấy cung cấp cho những quẻ và hào câm lặng bấy lâu, những quẻ và hào mà tương lai phải được bói từ chúng theo từng trường hợp riêng lẻ. Nhờ đó, con người đã cùng chia sẻ số mệnh với nhau, bởi vì các hành vi ứng xử của họ đã được can thiệp thành các yếu tố quyết định trong các sự cố trên đời.
Các yếu tố càng quyết định thì thông qua Kinh Dịch con người càng sớm nhận ra được mầm mống của sự cố, vì sự cố phát sinh từ mầm mống ấy. Khi sự cố trong giai đoạn manh nha thì người ta có thể khống chế nó được. Nếu sự cố phát triển đến mức tối đa thì nó sẽ trở nên quá mãnh liệt khiến người ta phải bất lực trước nó.
Do đó Kinh Dịch đã trở thành một quyển sách bói thuộc loại hết sức đặc biệt. Các quẻ và các hào trong các biến dịch của chúng đã mô phỏng một cách kỳ diệu các biến dịch của đại vũ trụ.
Bằng cách sử dụng cỏ thi (achillea millefelium) người ta có thể đạt tới một vị trí thuận lợi khả dĩ xem xét bao quát các mối liên hệ của sự việc. Nếu con người có cái nhìn bao quát ấy, thì lời bói sẽ chỉ ra việc họ cần làm cho phù hợp với thời thế.
Phương pháp thao tác tách bó cỏ thi để biết được một tình huống có vẻ như kỳ lạ đối với cảm giác của chúng ta ngày nay. Tuy nhiên quy trình này được xem là huyền bí theo cách thức mà sự thao tác cỏ thi kích hoạt cõi vô thức của con người.
Không phải ai cũng có khả năng giống nhau về xem bói. Việc xem bói đòi hỏi chúng ta có một trạng thái tinh thần trong sáng an tĩnh để tiếp nhận các ảnh hưởng của vũ trụ tiềm ẩn trong những cọng cỏ thi, tức là những sản phẩm của thế giới thực vật liên quan đặc biệt với sự sống khởi thủy. Cỏ thi bắt nguồn từ những loài cây cỏ thiêng liêng.
2. Kinh Dịch là sách triết
Không chỉ là sách bói, Kinh Dịch còn quan trọng hơn thế nữa. Nó được sử dụng như một sách triết. Lão Tử hẳn đã biết đến Kinh Dịch và một số câu ẩn dụ thâm sâu nhất của ngài đã lấy cảm hứng từ nó. Thật vậy, các giáo huấn của Kinh Dịch bàng bạc trong thế giới tư tưởng của ngài.
Khổng Tử cũng biết đến Kinh Dịch và đã miệt mài suy tư về nó. Dường như Khổng Tử đã bình giải Kinh Dịch và khẩu truyền cho các đệ tử của ngài. Bản Kinh Dịch được Khổng Tử bình giải là bản còn truyền đến chúng ta ngày nay.
 Nếu chúng ta tìm hiểu cái tư tưởng cốt lõi nhất quán trong quyển Kinh Dịch, thì chúng ta có thể tự giới hạn ở một vài tư tưởng quan trọng. Tư tưởng cơ bản của toàn bộ Kinh Dịch chính là tư tưởng về sự biến dịch.
Theo Luận Ngữ, có lần Khổng Tử đứng bên bờ sông, nhìn nước chảy và cảm thán: “Ôi, trôi chảy thế này, ngày đêm nó không hề ngừng nghỉ!” ([2]) Tư tưởng về sự biến dịch được diễn đạt qua lời ấy.
Ai đã nhận thức được sự biến dịch thì sẽ không còn chú tâm vào từng sự việc riêng lẻ giả tạm nữa, mà sẽ chú tâm vào quy luật vĩnh cửu và bất biến, hoạt động trong mọi biến dịch. Quy luật ấy là Đạo của Lão Tử, là đường đi của sự vật, là cái Một trong muôn vạn. Cần có một sự quyết định hay khái niệm cơ bản để thể hiện. Khái niệm cơ bản ấy là sự khởi đầu lớn của vạn vật, gọi là Thái Cực.
Về sau các triết gia Trung Quốc đã suy tư rất nhiều về Thái Cực. Trước Thái Cực là Vô Cực, biểu thị bằng hình tròn rỗng; còn Thái Cực biểu thị bằng hình tròn nửa âm nửa dương; hình tròn Thái Cực cũng là biểu tượng có ý nghĩa tại Ấn Độ và châu Âu.
Tuy nhiên sự tư duy theo tính cách nhị nguyên thì lạ lẫm với tư tưởng ban đầu của Kinh Dịch. Sự ấn định này đơn giản chỉ là Thái Cực, hay một đường. Đường này tượng trưng cho Một. Một sinh ra Hai. Đồng thời cùng với nó có trên, dưới, trái, phải, trước, sau.
Nói tóm lại, thế giới nhị nguyên đối đãi được ấn định. Các cặp nhị nguyên đối đãi này được khái quát là âm và dương. Học thuyết âm dương trở nên sôi nổi giữa các đời Tần và Hán khi phái Âm Dương Gia xuất hiện. Bấy giờ, Kinh Dịch phần nhiều được sử dụng như sách ma thuật và vô vàn sự việc đâu đâu mà chẳng ai biết nguồn gốc đã được đưa vào sách.
Tất nhiên học thuyết âm dương (học thuyết về hai nguyên lý đầu tiên: nữ và nam) cũng khiến giới Trung Quốc Học nước ngoài hết sức chú ý. Theo kiểu tư duy thông thường, họ phỏng đoán rằng âm và dương là các nguyên sơ tượng của tục sùng bái sinh thực khí với các ý nghĩa hàm ngụ của nó.
Họ hẳn sẽ thất vọng nếu biết rằng ý nghĩa ban đầu của hai từ âm và dương chẳng liên quan gì đến thuyết của họ. Ý nghĩa ban đầu của âm là “cái u ám, vẩn đục”; ý nghĩa ban đầu của dương là “các lá phướn phấp phới trong nắng”, cũng là cái gì đó “được chiếu sáng” hay sáng.
Hai khái niệm này đã được chuyển nghĩa thành phía sáng và phía tối của ngọn núi và con sông. Đối với một ngọn núi, phía nam là dương, phía bắc là âm; nhưng đối với một con sông, nhìn trên cao xuống thì bờ nam là âm, bờ bắc là dương.
Từ đây, hai cách diễn đạt này được đưa vào Kinh Dịch ngụ ý hai tình trạng cơ bản hoán đổi của hữu thể. Điều đáng lưu ý là hai từ âm và dương với ý nghĩa này không hề xuất hiện trong kinh văn và trong các lời bình chú cổ xưa nhất. Chúng chỉ mới xuất hiện trong Đại Truyện, mà nhiều phần của Đại Truyện thì chịu ảnh hưởng của Đạo Giáo. Trong Thoán Truyện, cươngnhu được dùng thay vì âm và dương.
Tuy nhiên bất kể tên gọi gì được áp dụng cho hai lực này, chắc hẳn sự chuyển hóa và tương tác của hai lực ấy tạo thành các hữu thể. Qua đó, sự chuyển hóa vừa là sự biến đổi qua lại liên tục giữa hai lực ấy vừa là chu trình khép kín của các sự phức tạp liên đới của các hiện tượng như ngày và đêm, mùa hè và mùa đông. Sự biến dịch này không phải là vô nghĩa. Nó vô nghĩa chẳng qua vì người ta không hiểu nó. Kỳ thực nó tuân theo quy luật thường hằng, tức là Đạo.
Tư tưởng cơ bản thứ hai của Kinh Dịch là lý thuyết về các ý tưởng. Bát Quái tượng trưng cho ảnh tượng của các trạng thái biến dịch hơn là ảnh tượng của các đối tượng. Ý kiến này gắn liền với quan niệm được giảng trong học thuyết của Lão Tử cũng như học thuyết của Khổng Tử rằng tất cả những gì diễn ra trong cõi hữu hình đều là hiệu quả của một “ảnh tượng”, tức là một ý tưởng trong cõi vô hình.
Theo đó, mọi sự kiện diễn ra trên đời chỉ là bản sao (xuất hiện trễ hơn) của một sự kiện trong thế giới vượt ngoài nhận thức giác quan của chúng ta.
Các thánh hiền đã giao tiếp với các cảnh giới cao hơn và đã tiếp cận được các ý tưởng này bằng sự trực giác, do đó các ngài có thể can thiệp một cách quyết định đối với các sự kiện trên đời.
Cho nên con người cùng với trời (tức thế giới các ý tưởng vượt ngoài nhận thức giác quan) và đất (tức cõi vật chất hữu hình) tạo thành Tam Tài (tức một bộ tam gồm ba sức mạnh nguyên thủy).
Lý thuyết về các ý tưởng này được vận dụng trong Kinh Dịch theo ý nghĩa kép. Kinh Dịch nêu ra các ảnh tượng của sự kiện và với các ảnh tượng này nó cho thấy tình trạng manh nha của sự kiện.
Với sự trợ giúp của Kinh Dịch, con người nhận thức được mầm mống của sự việc, nên thấy được việc sắp đến và hiểu được việc đã qua. Như thế các ảnh tượng (mà các quẻ được lập dựa trên chúng) trở thành khuôn mẫu cho các hành động hợp thời trong các tình huống được nêu ra.
Không phải chỉ có sự thích ứng với tiến trình tự nhiên trở nên khả thi bằng cách ấy, mà cũng còn có sự nỗ lực rất thú vị (được nói trong chương Hai của Hệ Từ Hạ) nhằm truy nguyên mọi sáng tạo của nền văn minh nhân loại dựa trên các ý tưởng và các ảnh tượng như thế. Cho dù sự vận dụng ấy có được áp dụng cho mọi trường hợp cụ thể hay không, thì tư tưởng cơ bản ở đây hàm chứa một chân lý.
Ngoài các ảnh tượng, Thoán Từ (hay Quái Từ) được quan tâm như là thành phần cơ bản thứ ba của Kinh Dịch. Với Thoán Từ, các ảnh tượng có được lời quẻ. Thoán Từ cho biết một hành động sẽ mang lại điều cát hay hung, hối tiếc hay xấu hổ. Thoán Từ đặt người ta vào tình thế tự do quyết định từ bỏ một phương hướng hành động mà hoàn cảnh gợi ra nhưng kết cục là hung hiểm.
Bằng cách này người ta độc lập với sự bức bách của các sự kiện. Thông qua Thoán Từ và các lời giải thích về chúng có từ thời Khổng Tử, Kinh Dịch mở ra cho người đọc một kho báu minh triết phong phú của Trung Quốc, đồng thời trao cho họ một tổng quan về các khía cạnh của cuộc sống.
Với tổng quan ấy họ có thể định hình cuộc sống của mình có tổ chức và độc lập tự chủ ngõ hầu cuộc sống ấy hòa hợp với Đạo, tức là gốc của vạn hữu.
II. LỊCH SỬ KINH DỊCH
Trong văn học Trung Quốc, bốn thánh nhân được xem là tác giả của Kinh Dịch: Phục Hi, Văn Vương, Chu Công, Khổng Tử.
Phục Hi là một nhân vật truyền thuyết, đại diện cho thời cổ đại săn bắn và đánh cá, cũng là người phát minh việc nấu nướng. Phục Hi được xem là người phát minh ra Bát Quái, điều đó có nghĩa là Bát Quái xuất hiện vào thời quá xa xưa đến nỗi lịch sử không thể ghi nhớ được.
Tên của Bát Quái không xuất hiện trong Hán ngữ, do đó người ta cho rằng chúng có nguồn gốc ngoại lai. Dù sao, chúng không phải là chữ Hán cổ như người ta đã kết luận dựa trên sự trùng hợp vừa vô tình vừa cố ý của chúng với các chữ cổ.
Thuở xa xưa Bát Quái đã xuất hiện trong các tổ hợp khác nhau. Hai tổ hợp trong thời cổ được nhắc đến là Kinh Dịch đời Hạ (khoảng 2205-1766 TCN) có tên là Liên Sơn khởi đầu bằng quẻ Cấn và Kinh Dịch đời Thương (khoảng 1766-1150 TCN) có tên là Quy Tàng khởi đầu bằng quẻ Khôn.
Tình hình ấy được chính Khổng Tử tình cờ nhắc đến như một sự kiện lịch sử. Thật khó mà nói tên sáu mươi bốn quẻ bấy giờ đã có chưa; nếu có thì chúng có giống như tên sáu mươi bốn quẻ của bản Kinh Dịch hiện hành không.
Tương truyền (và chúng ta chẳng có lý do gì để nghi ngờ) tổ hợp sáu mươi bốn quẻ hiện nay phát xuất từ vị sáng lập đời Chu là Văn Vương. Khi Văn Vương bị vua Trụ (Đế Tân) tàn ác giam trong ngục, ông tạo ra sáu mươi bốn quẻ rồi viết thêm Thoán Từ (hay Quái Từ). Còn Hào Từ phát xuất từ Chu Công (con thứ của Văn Vương).
Với nhan đề Chu Dịch, sách này được dùng như sách bói suốt đời Chu, và điều này có thể được chứng minh qua một số sử liệu xưa.
Đó là tình trạng của Kinh Dịch khi Khổng Tử phát hiện. Lúc về già, Khổng Tử miệt mài nghiên cứu nó và rất có thể Thoán Truyện là do ngài viết. Ngay cả Tượng Truyện cũng được xem là Khổng Tử viết (tuy không trực tiếp). Phần bình luận chi tiết và giá trị về mỗi hào ở dạng vấn đáp giữa Khổng Tử và đệ tử được các cao đệ ghi chép hiện nằm rải rác (trong Văn Ngôn và Hệ Từ Truyện).
Trong số cao đệ của Khổng Tử, Bốc Thương (tức Tử Hạ) có lẽ là người chủ yếu truyền bá Kinh Dịch. Đồng thời với sự phát triển tư duy triết học (thí dụ như Đại HọcTrung Dung), loại triết học này càng ảnh hưởng đến sự giải thích Kinh Dịch.
Bên cạnh Kinh Dịch hình thành những phần giải thích gọi là Thập Dực (mười cánh) mà chúng rất khác với nội dung và giá trị nội tại của Kinh Dịch.
Kinh Dịch đã thoát được số phận mà các kinh sách khác phải chịu trong nạn đốt sách nổi tiếng đời Tần Thủy Hoàng (năm 213 TCN). Người ta cho rằng nạn đốt sách này khiến tình trạng văn bản của các kinh sách cổ bị tổn hại, nhưng điều ấy không đúng với trường hợp của Kinh Dịch vì tình trạng văn bản của nó vẫn còn nguyên vẹn. Thực tế, chính sự hưng suy bao thế kỷ, sự suy tàn của nền văn hóa cổ, và sự thay đổi hệ thống chữ viết cũng là nguyên nhân khiến tình trạng văn bản của các kinh sách cổ bị tổn hại.
Sau khi Kinh Dịch nổi tiếng là sách bói và phương thuật trong đời Tần Thủy Hoàng, thì bọn phương sĩ suốt đời Tần và đời Hán đã lợi dụng nó; còn học thuyết âm dương – có lẽ phát khởi từ Trâu Diễn (thế kỷ IV TCN) rồi được vun đắp qua tay các Nho Gia đời Hán như Đổng Trọng Thư, Lưu Hâm, Lưu Hướng – đã phát triển lớn mạnh trong sự giải thích Kinh Dịch.
Vai trò tảo thanh mớ hỗn tạp ấy đã dành cho Vương Bật (226-249), một đại Nho thông minh sáng suốt. Ông đã viết về ý nghĩa của Kinh Dịch như là một sách triết chứ không phải là sách bói. Ông sớm phát hiện ra sự mô phỏng: phương thuật của Âm Dương Gia gắn với Kinh Dịch đã bị thay thế bằng triết lý trị quốc ngày càng phát triển.
Trong đời Tống (960-1279), Kinh Dịch được dùng làm cơ sở cho Thái Cực Đồ Thuyết (mà nguồn gốc của nó có lẽ không phải là Trung Quốc) cho đến khi Trình Hạo (1032-1085) viết lời bình chú rất tốt cho Kinh Dịch.
Các phần bình chú xưa trong Thập Dực thì người ta có thói quen tách ra và cho vào các quẻ tương ứng. Như vậy Kinh Dịch dần dần trở thành sách giáo khoa hẳn hoi về thuật trị quốc và xử thế. Thế rồi Chu Hi (1130-1200) cố gắng khôi phục Kinh Dịch như một sách bói. Ngoài ra, ông còn công bố một bài dẫn luận cô đọng về phép bói Dịch.
Trong đời Thanh (1644-1911), khuynh hướng lịch sử và phê phán [của Hán Học Gia] cũng xét đến Kinh Dịch. Nhưng vì họ đối lập với các Tống Học Gia và vì họ ưa chuộng các nhà bình giải đời Hán vốn gần với thời đại hình thành Kinh Dịch hơn, cho nên họ thua kém các Tống Học Gia trong việc xử lý các kinh điển khác. Đó là vì các nhà bình giải đời Hán vốn là các phương sĩ hoặc là những học giả chịu ảnh hưởng của vu thuật.
Trong những năm Khang Hi đời Thanh, có bản Kinh Dịch rất tốt là Chu Dịch Chiết Trung. Nó tách riêng phần Kinh và phần Truyện, đồng thời tập hợp các bình giải tốt nhất qua các thời đại.
(…)
Tôi xác tín rằng ai đã thực sự lĩnh hội cốt tủy của Kinh Dịch thì kinh nghiệm và sự hiểu đời của người ấy sẽ phong phú thêm.
RICHARD WILHELM
GHI CHÚ của LÊ ANH MINH
Tại phương Tây, từ lâu đã có hai bản dịch Chu Dịch nổi tiếng: bản tiếng Anh của James Legge (1815-1897) ra đời năm 1882 và bản tiếng Đức của Richard Wilhelm (1873-1930) ra đời năm 1924.
Nhà Hán học James Legge đã mất hai mươi bảy năm phiên dịch Chu Dịch và hầu hết kinh điển Nho Giáo sang tiếng Anh với sự trợ giúp của Vương Thao 王韜 (1828-1897), một học giả kiêm chủ bút một nhật báo tại Hương Cảng.
Cũng thế, suốt 10 năm kể từ 1913, với sự giúp đỡ của nhà nho Lao Nãi Tuyên 勞乃宣 (1843-1921), Richard Wilhelm đã phiên dịch Chu Dịch sang tiếng Đức. Ngoài ra, hơn hai mươi năm sống tại Trung Quốc, Richard Wilhelm còn dịch rất nhiều kinh điển Nho Giáo và Đạo Giáo nữa.
Bản dịch của Richard Wilhelm căn cứ bản Chu Dịch Chiết Trung, tức là bản Ngự Toản Chu Dịch Chiết Trung 御纂周易折中 (23 quyển) do vua Khang Hi (tức Huyền Việp 玄燁 , tại vị 1662-1722) ra lệnh cho Lý Quang Địa 光地 (Đại Học Sĩ kiêm Lại Bộ Thượng Thư thuộc Văn Uyên Các) chủ biên với sự phụ tá của năm mươi học sĩ, ấn hành năm Khang Hi 54 (tức năm 1715). Chu Dịch Chiết Trung đã tuyển chọn chú giải của 218 nhà từ Đổng Trọng Thư đời Hán đến Hoàng Thuần Diệu đời Thanh, đồng thời lấy Dịch học của Trình Di (tức Chu Dịch Trình Thị Truyện hay Trình Truyện) và Chu Hi (tức Chu Dịch Bản Nghĩa) làm tông chỉ. Nhưng thực tế thì sách kiêm cả tượng số và nghĩa lý. Sách tách riêng Kinh và Truyện, khác với cách trình bày Kinh liền Truyện của các bản Chu Dịch hiện hành (bắt nguồn từ Vương Bật).
Hiện nay trên Internet có đủ các bản Chu Dịch tiếng Anh của James Legge, bản tiếng Đức của Richard Wilhelm (bản đầy đủ nhất có thể tìm tại website Schule des Rades), và bản tiếng Anh của Carry F. Baynes (dịch từ bản tiếng Đức của Wilhelm).




([1]) Nguyên tác dùng từ I Ging (Dịch Kinh). Trong bản dịch này, khi Wilhelm có ý nói tổng quát (gồm chung phần Kinh và phần Truyện), thì tôi dịch là Chu Dịch; khi ông ám chỉ phần sáu mươi bốn quẻ, thì tôi dịch là Kinh Dịch. [LAM chú]
([2]) Luận Ngữ (Tử Hãn, 17): : , ! Tử tại xuyên thượng viết: Thệ giả như tư phù, bất xả trú dạ! (Khổng Tử đứng trên bờ sông, nói: Ôi, trôi chảy thế này, ngày đêm nó không hề ngừng nghỉ!)