Thứ Bảy, 6 tháng 2, 2016

ĐĐVU 04 / THẦY KHAI ĐẠO ĐỂ ỔN ĐỊNH CÀN KHÔN, AN BÀI VŨ TRỤ / Thánh giáo

Image result for lilies
THI
Một tòa BẠCH Ngọc chiếu muôn phương,[1]
Ngoài có HẠC nghinh nhựt nhựt thường,[2]
Trong lại Thần ĐỒNG thông vạn pháp,[3]
Và Linh Châu TỬ thủ đài gương.[4]
BẠCH HẠC ĐỒNG TỬ
Tiểu Thánh vâng lịnh báo đàn. Chào chư Thiên mạng.[5] Chào chư đạo tâm lưỡng ban đẳng đẳng.[6]
(…)
Chư Thiên mạng thành tâm tiếp giá [7] Chí Tôn ngự bút.[8] Tiểu Thánh xuất ngoại ứng hầu. Thăng.
THI
NGỌC báu trao tay ráng giữ gìn,
HOÀNG đồ [9] ẩn hiện bóng trời chinh.[10]
THƯỢNG lưu trí thức [11] nên ghi nhớ,
ĐẾ Đạo [12] hoằng khai [13] cứu vạn linh.[14]
THẦY CÁC CON.[15]
Thầy mừng các con. Hôm nay Thầy ngự bút để thăm viếng và nhắc nhở các con trong khi tu thân hành đạo, lập công quả.
(…)
Thầy miễn lễ. Các con an tọa nghe Thầy dạy.
Thầy vẫn biết các con đã có đạo hay mới vào đạo, mỗi đứa đều trải qua một cơn bịnh tật, đến nay vẫn còn lưu trú trong cơ thể. Vì thế nên Thầy mới dùng liều thuốc thời gian, vừa điều trị vừa nâng đỡ, dạy dỗ các con cho được lành mạnh, sáng suốt để lãnh sứ mạng của Thầy và đem sứ mạng đến cho đứa khác giúp Thầy trong giai đoạn, hầu làm tròn sứ mạng của con ở nhơn đạo và Thiên Đạo vậy.
THI
Thầy rất đau lòng thấy chúng sanh,
Dập dìu nẻo đạo mấy ai thành.[16]
Lựa dèo [17] lựa thế ra nâng đỡ,
Dù dại dù khôn ráng học hành.
Nước có thì thuyền mong tránh nạn,
Người không trọn đạo mấy an lành.
Tình thương Thầy rưới đều muôn vật,
Riêng dặn con lo chưởng phước [18] mình.
(…)
Con ôi! Thầy khai Đạo nơi thế gian này là Thầy muốn ổn định lại càn khôn,[19] an bài vũ trụ. Thầy đưa thuyền từ [20] ra bể khổ để vớt vạn linh sanh chúng mà mỗi con là mỗi chơn linh trong vạn linh, mỗi chúng sanh trong chúng sanh, chỉ khác một điều là đứa giác ngộ thì lên thuyền, còn đứa chưa giác ngộ thì ở lại.
Thời kỳ ân xá, Thầy đã mở rộng huyền năng [21] cho những đứa thực tâm hành đạo lập công quả, khi rời bỏ xác phàm được mệnh danh [22] vào hàng Thánh Thần, Tiên Phật, hầu hợp với các con sứ mạng nơi trần giúp đời, độ người cho đến khi đắc chánh vị.[23]
Con ôi! Chính mình Thầy đã đến thế gian cùng với chư Tiên Phật, dụng điển quang để tả thiên kinh vạn điển hầu cứu rỗi các con, thì các con phải có bổn phận đối với chúng sanh cũng như Thầy và chư Tiên Phật vậy.
Hiện nay, tình thế đặc biệt nơi thế gian là người trong đời, người trong đạo đều phải mang vào kiếp nạn [24] dục vọng đấu tranh, nhứt là chước cám dỗ của quỷ ma, lừa thế để giựt giành các con đến với chúng nó hầu chịu trong cảnh tiêu diệt.
Con ôi! Thầy rất đau lòng nhìn toàn cả các con hành đạo đang bị khảo đảo mà vẫn còn ở trong hàng môn đệ của Thầy. Vì thế nên năm Nhâm Dần, Thầy chuẩn phê lời thỉnh cầu của Vô Cực Từ Tôn và chư Tiên Phật để chuyển hướng, lập một cơ quan [25] hầu [26] cứu cánh [27] các con và hoằng dương [28] chánh pháp của Thầy để cứu vạn linh sanh chúng.
Việc các con làm hôm nay là vĩ nghiệp [29] ở tương lai. Mỗi đứa phải đem lòng chí thành phục vụ chánh nghĩa,[30] phục hưng [31] chánh pháp mà lập thành chánh đạo. Các con hãy đọc lời của các Thánh Nhơn đã nói: “Duy thiên hạ chí thành vi năng tận kỳ tính. Năng tận kỳ tính tắc năng tận nhân chi tính. Năng tận nhân chi tính tắc năng tận vật chi tính. Năng tận vật chi tính tắc khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục. Khả dĩ tán thiên địa chi hóa dục tắc khả dĩ dữ thiên địa chi tham hỹ.” [32]
Nếu các con hiểu lời nói chí lý ấy là các con trọn tuân mạng lịnh của Thầy.
(…)
Các con nghe Thầy dạy.
THI BÀI
Thầy giáng bút đêm thanh nhắc nhở,
Hỡi các con ghi nhớ đừng quên,
Đường dài mới biết sức bền,[33]
Tùy theo cơ hội lập nên Đạo Thầy.
(…)
TIẾP THI BÀI
Các con cố nhớ lời chỉ dạy,
Rồi các con sẽ thấy chi chi.
Năm sang, năm tới, năm đi,
Con đường kết quả những gì con mong.
Ban ơn con trẻ trần hồng,
Điển đồng [34] vội rút, Thiên Cung Thầy về.
Thăng.
Đức NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
Thiên Lý Đàn, Tuất thời, 15-10 Ất Tỵ (07-11-1965)




[1] Câu 1: Tòa Bạch Ngọc Kinh hào quang chiếu sáng khắp muôn phương.
[2] Câu 2: Bên ngoài Bạch Ngọc Kinh ngày ngày luôn có hạc trắng chầu.
[3] Câu 3: Bên trong có Thần Đồng (tức Bạch Hạc Đồng Tử) thông thạo tất cả các phép.
[4] Câu 4: Và có Linh Châu Tử (Na Tra) giữ đài gương. Linh Châu Tử là học trò Đức Thái Ất Chân Nhân, thần thông quảng đại. Đời nhà Thương, Ngài giáng trần làm con của danh tướng Lý Tịnh đem quân đánh vua Trụ tàn bạo.
[5] Thiên mạng (mệnh) 天命: Bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó là thế Thiên hành hóa 替天行化 (thay Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu hành).
[6] Lưỡng ban : Hai ban chức sắc, chức việc và tín đồ khi hành lễ trước Thiên Bàn:  nam (phía bình bông trên Thiên Bàn) và nữ (phía dĩa trái cây trên Thiên Bàn). Đẳng đẳng 等等: Vân vân (and so on, et cetera).
[7] Giá : Tiếng tôn kính (kính từ 敬辭) để chỉ Đức Chí Tôn, Đức Kim Mẫu. Tiếp giá: Nghênh tiếp Đức Chí Tôn.
[8] Ngự bút 御筆: Giáng cơ dạy đạo. (Chữ Ngự được dùng khi nói đến Thượng Đế).
[9] Hoàng đồ 黄途: Con đường to tát, cao cả, tức là sứ mạng Tam Kỳ Phổ Độ.
[10] Trời chinh: Ánh mặt trời chênh chếch bóng; ngụ ý thời gian đã muộn rồi, người hướng đạo nên nhanh chân cho kịp kỳ, khỏi trễ bước trên đường sứ mạng.
[11] Thượng lưu 上流: Tầng lớp xã hội bên trên (upper class). Trí thức 智識: Những người có học thức cao, có văn hóa và ảnh hưởng trong xã hội (intellectuals, the intelligentsia).
[12] Đế Đạo 帝道: Đạo của Trời, Thiên Đạo (the Way of Heaven, the Heavenly Way).
[13] Hoằng khai 弘開: Cũng như hoằng dương 弘揚, phát triển rộng lớn (to develop and expand).
[14] Vạn linh 萬靈: Vô số linh hồn, tất cả các linh hồn (myriads of spirits, all spirits).
[15] Thầy các con: [Ta là] Thầy [của] các con (I’m your Master). Lưu ý: Trong tiếng Việt, chữ của thường được hiểu ngầm. Thí dụ: Nhà tôi, cha tôi… Một số người viết “Thầy, các con!” thì sai. (Đức Mẹ khi giáng cơ thường xưng: Mẹ linh hồn các con.)
[16] Câu 2: Đông đúc người tu hành nhưng ít người thành công (đắc đạo).
[17] Dèo: Tình hình, hoàn cảnh vào một lúc nào đó, tình thế (situation, circumstances).
[18] Chưởng phước 種福: Trồng gieo phúc lành, gây tạo phúc lành (to cultivate one’s good fortune).
[19] Càn khôn 乾坤: Trời đất, vũ trụ (the universe, heaven and earth).
[20] Thuyền từ (từ hàng 慈航): Con thuyền thương yêu (the boat of mercy), tức là đạo pháp cứu vớt con người thoát khỏi biển khổ cuộc đời.
[21] Huyền năng 玄能: Năng lực (khả năng) nhiệm mầu (marvellous power).
[22] Mệnh danh 命名: Đặt tên (to name); đặt để vào vị trí (to designate).
[23] Chánh vị 正位: Ngôi vị tương xứng với công hạnh mà mỗi người tu đã tạo lập cho mình khi còn ở thế gian.
[24] Kiếp nạn 劫難: Thảm họa tàn khốc, dữ dội trên phạm vi rộng lớn (calamity, disaster).
[25] Cơ quan 機關: Một bộ máy hay tổ chức thi hành một chức năng đã xác định rõ (an organ; an organization that performs a specified function).
Ở đây, Thầy nhắc đến một bộ máy (cơ quan, tổ chức) lập năm Nhâm Dần (1962) là Ban Phổ Thông Giáo Lý. Ban này có định hướng dùng con đường phổ thông giáo lý tác động cho mục tiêu quy nguyên, thống nhất nền Đạo. Tuy nhiên, do nội bộ Cơ Quan Cao Đài Thống Nhứt tại Vĩnh Hội không hoàn toàn cùng quan điểm về sự chuyển hướng này, một số vị hướng đạo đã tách ra khỏi Cao Đài Thống Nhứt và quy tụ ở Thiên Lý Đàn tại Hòa Hưng (1963) để chờ lịnh Ơn Trên. Những vị này sau đó được Ơn Trên tuyển chọn (1964) để thành lập Văn Phòng Phổ Thông Giáo Lý (1965) là tiền thân của Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Cao Đài Giáo Việt Nam, tức là Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo hiện nay.
[26] Hầu: Ngõ hầu, để mà, nhằm mục đích (in order to).
[27] Cứu cánh 究竟: Cứu là sau cùng; cánh là xong tất, hoàn thành. Người Trung Quốc dịch ba la mật đa 波羅蜜多 (paramita) sang chữ Hán là đáo bỉ ngạn 到彼岸 (sang bờ bên kia, qua bờ giác), và còn dịch là cứu cánh 究竟. Thế nên hai chữ cứu cánh còn có nghĩa là giải thoát luân hồi sanh tử (free from samsara).
[28] Hoằng dương 弘揚: Cũng như hoằng khai 弘開, phát triển rộng lớn (to develop and expand).
[29] Vĩ nghiệp 偉業: Sự nghiệp to tát, lớn lao, cao cả (a great cause).
[30] Chánh nghĩa 正義: Công lý (justice); lẽ phải, sự công chính (righteousness).
[31] Phục hưng 復興: Trung hưng 中興; làm cho hưng thịnh lại sau một thời kỳ suy yếu (to revive).
[32] Chương 23, sách Trung Dung. Hồng Liên Lê Xuân Giáo (1909-1986) dịch: “Trong thiên hạ chỉ có bậc chí thành mới hiểu biết tường tận thiên tánh. Có hiểu biết tường tận thiên tánh mới hiểu biết hết nhân tánh. Đã hiểu biết thấu đáo nhân tánh thì mới hiểu biết thấu đáo vật tánh. Đã hiểu biết kỹ lưỡng vật tánh thì có thể giúp trời đất trong việc biến hóa sinh dục. Đã có thể giúp trời đất trong công việc biến hóa sinh dục thì có thể sánh cùng trời đất vậy.” (Trung Dung Tập Chú. Sài Gòn: Nxb Trung Tâm Học Liệu, 1972. tr. 89).
Nhân Tử Nguyễn Văn Thọ dịch: “Chỉ những bậc chí thánh trong thiên hạ, mới phát huy vạn cả tính nhân loài. Tận thiện mình rồi cải thiện mọi người, cải thiện người, rồi tác thành muôn vật. Tác thành cho quần sinh trong trời đất, là giúp đất trời dinh dưỡng sinh linh. Giúp đất trời trong công cuộc dưỡng sinh, nghiễm nhiên sẽ được cùng đất trời tham tán.”
Ghi chú: Tham: tham dự vào; tán: giúp đỡ.
James Legge (1815-1897) dịch: “It is only he who is possessed of the most complete sincerity that can exist under heaven, who can give its full development to his nature. Able to give its full development to his own nature, he can do the same to the nature of other men. Able to give its full development to the nature of other men, he can give their full development to the natures of animals and things. Able to give their full development to the natures of creatures and things, he can assist the transforming and nourishing powers of Heaven and Earth. Able to assist the transforming and nourishing powers of Heaven and Earth, he may with Heaven and Earth form a ternion.”
: , ; , ; , ; , ; , .
[33] Trường đồ tri mã lực 長途知馬力: Đường dài mới biết sức ngựa (Long distance tests the strength of a horse).
[34] Điển đồng: Thiên điển giáng nơi đồng tử.
HUỆ KHẢI & LÊ ANH MINH hiệp chú