Hình nhi thượng (hình thượng) và hình nhi hạ (hình hạ) là hai khái niệm
quan trọng trong triết học Trung Quốc. Hai khái niệm này bắt đầu xuất hiện
trong Chu Dịch, một bộ sách tối cổ
được xem là đứng đầu các bộ kinh điển khác.
Hệ Từ Thượng (chương 12) của Chu Dịch chép:
Cho nên cái ở trên hình gọi là Đạo. Cái ở
dưới hình gọi là khí vật. Sửa đổi và chế tạo gọi là biến. Suy ra mà hành
động gọi là thông. Lấy Đạo và khí vật thi hành cho dân chúng trong thiên hạ gọi
là sự nghiệp.[1]
Chữ khí 器 ở đây là
đồ vật, khí vật, vật dụng (utensils);
không phải là khí 氣 (vital
breath) như khí Âm và khí Dương.
Trên đây là ý nghĩa ban đầu của hình nhi thượng và hình nhi hạ. Sự
phân biệt Đạo và khí đã dần phát triển rộng, kể từ đời Tấn về sau.
Hàn Khang Bá (330-380) đời Tấn cho rằng mọi sự vật có hình có tượng đều
là khí (khí vật), còn cái vô hình vô tượng thì gọi là Đạo. Đạo thì vắng lặng và
không hình thể, nhưng nó là bản căn của mọi vật có hình có tượng. Tượng hào Âm
và hào Dương và khí Âm khí Dương đều có hình có tượng, nên thuộc về lãnh vực
khí vật. Đạo thì vô hình vô tượng, dù ở lãnh vực Âm thì cũng không có tượng Âm,
dù ở lãnh vực Dương thì cũng không có tượng Dương. Nhưng Âm và Dương đều phải
nương dựa vào Đạo để thành hình thành tượng, cho nên Dịch Truyện mới nói: Một Âm một
Dương gọi là Đạo.[2]
Khổng Dĩnh Đạt (574-648)
đời Đường phát huy quan điểm của Hàn Khang Bá, cho rằng Đạo là thể 體, còn khí (khí vật) là
dụng 用. Ông giảng:
Đạo là tên gọi cái không
hình thể; hình là tên gọi cái có vật chất. Nói chung, cái có sinh ra từ cái
không; hình được lập từ Đạo. Cho nên Đạo có trước, hình có sau; Đạo ở trên
hình, hình ở dưới Đạo. Cho nên từ bên ngoài hình trở lên gọi là Đạo; từ bên
trong hình trở xuống gọi là khí vật. Hình tuy nằm ở khoảng giữa hai bờ Đạo và
khí vật, nhưng hình ở tại khí vật chứ không ở tại Đạo. Do đó, cái gì đã có hình
chất thì có công dụng của khí vật. Cho nên nói: ‘Cái ở
dưới hình gọi là khí vật’.[3]
Thôi Cảnh [4] đời
Đường cho rằng thiên địa vạn vật đều có hình chất, nên chúng gọi là khí (khí vật),
là thể. Xét về mặt hình thể và thể chất mà nói thì chúng là khí, là thể; xét về
công năng và tác dụng mà nói thì chúng là Đạo, là dụng. (Quan điểm này ngược với
Khổng Dĩnh Đạt). Thí dụ như trời tròn đất vuông, hình thể của trời đất là khí,
là thể. Xét về công năng và tác dụng của trời đất sinh thành vạn vật thì trời đất
là Đạo, là dụng. Cành nhánh của cây cỏ là khí, là thể. Tính năng sinh trưởng
cây cỏ là Đạo, là dụng. Theo quan điểm này, không phải Đạo (hình nhi thượng) có
trước khí (hình nhi hạ), mà Đạo tồn tại trong khí.
Đời Tống và đời Minh, cuộc tranh luận giữa Đạo và khí vẫn tiếp diễn.
Trương Tái (1020-1077) đưa ra khái niệm khí Thái Hư và Lý. Ông cho rằng khí
Thái Hư là toàn thể khí 氣 (vital breath). Khi khí ấy
còn phân tán chưa tích tụ lại, thì khí ấy gọi là Thái Hư. Khí tụ thì nó thành
cái mà mắt ta thấy được, tức là hữu hình. Khí tán thì nó không thành cái mà mắt
ta thấy được, tức là vô hình. Khí tụ thành vạn vật, vậy vạn vật là hiện tượng của
khí tụ. Khí tán ra rồi thì sẽ tụ; tụ lại rồi thì sẽ tán. Khí tụ thì thành vật;
tán ra thì vật huỷ diệt. Tuần hoàn như thế mãi không thôi. Đó cũng là một hiện
tượng phổ biến trong vũ trụ. Sự sinh ra vạn vật do khí tụ tuân theo một qui luật
nhất định, gọi là Thiên tự 天序 (thứ tự của Trời) hay Thiên trật 天秩 (trật tự của Trời). Trời sinh vạn vật cũng có thứ tự, vạn vật đã
thành hình rồi thì cũng có trật tự. Cái gọi là Thiên trật hay Thiên tự ở đây tức
là Lý 理. Sự tụ tán
và công thủ của khí 氣 đều xuôi
thuận theo Lý và không sai lầm. Theo thuyết này, ngoài khí 氣 ra còn có Lý. Thuyết Lý và Khí của Trương Tái
về sau được Chu Hi phát triển thêm.
Anh em Trình Hạo (1032-1085) và Trình Di (1033-1108)
có quan điểm khác nhau. Trình Hạo (Trình Minh Đạo) mở đường cho phái Tâm Học
còn Trình Di (Trình Y Xuyên) mở đường cho phái Lý Học. Anh em họ Trình có kiến
giải khác nhau về Lý. Điều ấy thấy rõ trong kiến giải của họ về hình nhi thượng
và hình nhi hạ.
Trình Hạo không cho rằng Lý lìa vật mà tồn tại,
nên ông không chú trọng lắm sự phân biệt hình nhi thượng và hình nhi hạ. Trình
Hạo nói:
Hệ
Từ nói: ‘Cái ở trên hình gọi là Đạo; cái ở dưới hình gọi là khí vật.’ Lại nói: ‘[Thánh
nhân] xác lập: đạo trời thì có Âm và Dương, đạo đất thì có nhu và cương, đạo
người thì có nhân và nghĩa.’ Lại nói: ‘Một Âm và một Dương gọi là Đạo.’ Âm Dương
cũng là hình nhi hạ, nhưng chúng được gọi là Đạo. Lời này cho thấy sự phân biệt
rất rõ giữa cái trên hình và cái dưới hình. Âm Dương vốn là Đạo. Người ta cần
im lặng mà biết nó.[5]
Theo Trình Hạo, Âm và Dương là hai khí có sự thịnh, suy, tiêu, trưởng;
cho nên cũng là hình nhi hạ. Tuy nhiên, Trình Hạo nói Âm Dương vốn là Đạo. Hình
nhi thượng là Đạo, hình nhi hạ là khí vật (khí
器). Tuy nói như thế, nhưng khí vật cũng là Đạo.
Đạo cũng là khí vật. Do đó phái Tâm Học về sau không phân biệt hình nhi thượng
và hình nhi hạ; điều ấy khác xa phái Lý Học.
Trình Di (phái Lý Học) rất chú trọng sự
phân biệt giữa hình nhi thượng và hình nhi hạ. Theo ông, một Âm một Dương gọi
là Đạo. Đạo không phải là Âm và Dương, sở dĩ một Âm một Dương tương tác nên gọi
là Đạo. Lìa bỏ Âm Dương thì không có Đạo; bởi vì Âm Dương là Đạo. Âm Dương là
khí. Khí thuộc hình nhi hạ, Đạo thuộc hình nhi thượng. Hình nhi thượng thì bí mật.
Theo phái Lý Học, hình nhi hạ là khí vật, tức là sự vật cụ thể trong
thời gian và không gian; còn hình nhi thượng là Đạo, tức là cái Lý trừu tượng,
tồn tại mãi mãi, vượt trên cả thời gian và không gian. Hình nhi thượng được thấy
ở hình nhi hạ. Không có khí vật của hình nhi hạ thì ta không thấy cái Đạo của
hình nhi thượng. Cho nên Trình Di nói lìa bỏ Âm Dương thì không có Đạo. Nhưng Đạo
là sự tương tác giữa một Âm và một Dương. Sự tương tác ấy không phải là Âm
Dương, cho nên Trình Di nói Đạo không phải là Âm và Dương. Ở đây Trình Di chú
trọng sự phân biệt giữa hình nhi thượng và hình nhi hạ. Ý nghĩa mà phái Lý Học
gán cho hình nhi thượng và hình nhi hạ thì đến Chu Hi mới trở nên hoàn bị.
Theo Chu Hi, vật có hình tượng, tức là khí 器 (khí vật); cái tạo ra Lý của khí tức là Đạo.
Cái gọi là Đạo ở đây ám chỉ một nguyên lý hay khái niệm trừu tượng; còn khí 器 ám chỉ một sự vật cụ thể. Khi một vật được tạo
ra, thì trong nó có một Lý nào đó. Đối với vạn vật được tạo ra trong vũ trụ,
trong mỗi vật cũng đều có một Lý nào đó. Vật trong trời đất, bất kể là thiên
nhiên hay nhân tạo, đều có cái Lý khiến cho nó phải như thế. Cái Lý ấy đã có
trước khi vật được tạo ra.
Theo Chu Hi, Thái Cực chính là sự tổng hòa của các Lý của vạn vật
trong trời đất, và cũng là tiêu chuẩn tối cao của vạn vật và trời đất. Chu Hi
xem khí 氣 là khí 器 (khí vật, vật chất), ông nói:
Giữa trời đất có Lý 理 và có khí 氣. Lý là
Đạo thuộc hình nhi thượng, là gốc
sinh ra vạn vật. Khí 氣 là khí 器 (khí vật,
vật chất) thuộc hình nhi hạ, là công cụ sinh ra vạn vật. Do đó khi được sinh
ra, người và vật phải bẩm thụ cái Lý này, rồi sau mới có tính; phải bẩm thụ cái
khí 氣 này, rồi sau mới có hình.[6]
Giữa đời Minh và đời Thanh, Vương Phu Chi (1619-1693) có kiến giải về
Đạo 道 và khí 器 (khí vật, khí cụ), trái ngược với kiến giải của Chu Hi. Theo Vương
Phu Chi, hình nhi thượng không lìa hình nhi hạ, Đạo và khí (khí vật) không rời
nhau. Thiên hạ chỉ là khí (khí vật). Có khí vật thì có hình, có hình rồi mới có
hình nhi thượng. Đạo (hình nhi thượng) thì nương dựa vào khí vật (hình nhi hạ).
Đạo và khí vật thống nhất ở một hình.
Tóm lại, sự phân biệt giữa hình nhi thượng (Đạo) và hình nhi hạ (khí /
khí vật) được trình bày sơ lược trên đây đại khái là sự phân biệt giữa cái chung và cái riêng, giữa bản chất và hiện
tượng, giữa dụng và thể, giữa quy luật và thực thể. Cao Hanh (1900-1986) nói
hình nhi thượng bao quát các thứ như tư tưởng, học thuật, lý luận, phương pháp,
chế độ, v.v... Hình nhi hạ bao quát các thứ như thiên địa, động vật, thực vật,
khí giới, v.v... Mọi thứ trong trời đất được phân làm hai loại: Đạo và khí (khí
vật).[7]
Cái học về hình nhi thượng (Đạo) gọi là hình nhi thượng học; và cái học về hình
nhi hạ (khí / khí vật) gọi là hình nhi hạ học.
LÊ NGUYÊN LƯỢNG
Bà Chiểu, 07-01-2013
[1] Thị cố hình nhi thượng giả vị
chi Đạo, hình nhi hạ giả vị chi khí. Hoá nhi tài chi vị chi biến, suy nhi hành
chi vị chi thông, cử nhi thố chi thiên hạ chi dân vị chi sự nghiệp. 是故形而上者 謂之道, 形而下者謂之器. 化而栽之謂之變, 推而行之謂之通, 舉而措之天下之民謂之事業.
[2] Nhất Âm nhất Dương chi vị Đạo.
一陰一陽之謂道.
[3] Chu Dịch Chính Nghĩa, Vương Bật chú, Khổng Dĩnh Đạt
sớ.
[4] Năm sinh năm mất của Thôi Cảnh không
rõ, chỉ biết sống sau Khổng Dĩnh Đạt và trước Lý Đỉnh Tộ. Lời chú của Thôi Cảnh
được Lý Đỉnh Tộ chép trong Chu Dịch Tập
Giải.
[5] Nhị Trình Di Thư.
[6] Chu Văn Công Văn Tập.
[7] Chu Dịch Đại Truyện Kim Chú.