Huờn Cung Đàn (tại Tam Giáo Điện Minh Tân, Sài Gòn)
Tý thời,
29-5 rạng mùng 01-6 Ất Tỵ
(Thứ Hai 28
rạng 29-6-1965)
Bộ phận
Hiệp Thiên Đài:
Pháp đàn: Hải Thần. Đồng
tử: Kim Quang.
Độc giả: Huệ Chơn. Điển
ký: Bạch Tuyết, Hồng Ân.
Hộ đàn: Thiện Nghĩa, Chí Thiện. Chứng đàn: Thiên Hội.
Cơ Quan Hiệp
Thiên Đài Thống Nhứt đồng ý ban hành:
Kiến Minh,
Thiên Hội.
TIẾP ĐIỂN
THI
Mà nghe Bần Đạo để lời truyền.
Bần Đạo đang ngự chốn động đào,[8] vừa được Du Thần [9] báo tin. Bởi lòng khẩn
cầu thắc mắc của bao nhiêu hiền đệ, hiền muội đối với tiền đồ Đại Đạo, chi nên [10] Bần Đạo vội vã lâm đàn [11] để đôi lời trấn an các hiền đệ đã nhiệt tâm vì Đạo.
Bần Đạo đáng khen cho tâm chí các bậc hướng đạo đã bôn ba [12] chẳng riêng vì thân thế, quy hợp về
đây để cùng đệ huynh tìm lối thoát cho cơ Đạo. Lòng nhiệt thành đó Bần Đạo đã
ghi một điểm son vào sử Đạo.
Hễ đường đá trải nhựa, dùng xe; gặp sông biển, ắt phải dùng thoàn.[16] Không lý do nào xe lại lăn bánh chốn
bùn lầy để khách lộ hành vùi thân nơi ao vũng.
Kinh nghiệm nhiều năm qua, chư hiền đệ hãy xem lại đường lối và những thánh
giáo, thánh lịnh đủ đầy tại Huờn Cung Đàn, do đó [17] mà hành sự. Hành không ngoài luật lệ
chơn truyền đạo pháp, luôn luôn có Thiêng Liêng tá trợ [18] về mặt vô hình. Trừ phi các hiền đệ
đi ngoài vòng đạo pháp thì cơn khảo đảo lẫn nhau khó tránh đó vậy.
Công quả chư hiền từ thử [20] vẫn còn tỏ rạng nơi sử Đạo và lòng ngưỡng mộ của nhơn sanh. Những cái vấp phải là những bài
học hay; kiên chí [21] vượt qua là bước thành công một giai
đoạn.
(…)
Bần Đạo chào chư hiền đệ muội. Hãy an tâm kiên chí trên bước đường lái
lèo thuyền từ Đại Đạo. Bần Đạo xin kiếu. Thăng.
[1] giáng cơ tiền: Giáng trước đàn cơ.
[2] Thiên phong: Các chức sắc Thiên phong.
[4] lưỡng ban 兩班: Hai ban chức
sắc, chức việc và tín đồ khi hành lễ trước Thiên Bàn: <1> nam (phía bình
bông trên Thiên Bàn) và <2> nữ (phía dĩa trái cây trên Thiên Bàn).
[5] tâm tịnh định: Giữ cho tâm được thanh tịnh, đừng thầm cầu xin, vọng tưởng bất cứ điều
gì trong lúc hầu đàn.
[8] động đào: Đào tức là đào nguyên 桃源 (cõi tiên). Động 洞 là nơi tiên ở. Động đào cũng là cảnh tiên, cõi tiên.
[9] Du Thần 遊神: Vị Thần tuần vãng khắp nơi, đêm lẫn ngày, để ghi nhận mọi sự lành dữ
trong thế gian (Patrolling God).
[11] lâm đàn 臨壇:
Đến với đàn cơ (giáng đàn), cũng như lâm
cơ 臨乩 (to arrive at the séance). Lâm là cách nói để tỏ lòng tôn quý (honorific).
[12] bôn ba 奔波: Vất vả đi đó đi đây, vội vã chạy đầu này đầu kia để lo
toan công việc (to rush about, to be
constantly on the move).
[14] kiến cơ
nhi tác 見幾而作: Kiến cơ (to see the minutest signs) là nhìn thấy
triệu chứng (mầm mống vừa hiện ra) thì hành động ngay (nhi tác). Chữ cơ
này có nghĩa là sự nhỏ nhặt, điềm mới khởi, dấu hiệu mới vừa xuất hiện (triệu
chứng), tương ứng tiếng Anh là “the minutest sign(s)”. Thành ngữ “kiến cơ nhi
tác” lấy trong Kinh Dịch (Hệ Từ Hạ), cả câu như sau: Quân tử kiến cơ nhi tác, bất sĩ chung nhật. 君子見幾而作, 不俟終日. (Sĩ: chờ đợi; chung nhật: hết ngày.) Nhiều sách dịch “kiến cơ” là “nhìn thấy thời
cơ” thì không chính xác. Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) dịch đúng hơn cả: “Người quân tử thấy trước triệu chứng mà ứng
phó ngay, không đợi cho hết ngày.” Có thể dịch câu văn trên ra
tiếng Anh như sau: The superior man sees
the minutest signs, and acts accordingly without waiting for a single day.
Thí dụ, Trương Lương vừa nhìn thấy cái mòi Lưu Bang lên làm vua (Hán Cao Tổ) bắt
đầu trở mặt, muốn âm mưu giết hại công thần thì ông liền từ quan đi tu. Còn Hàn
Tín tin vào lòng dạ Lưu Bang, ở lại triều làm quan hưởng lộc, cuối cùng đành chết
thảm. Trương Lương là người “kiến cơ nhi tác”.
[16] thoàn: Thuyền (boat).
[17] do đó: Noi theo đó, căn cứ theo đó.
[19] dư đồ 輿圖: Lãnh thổ đất
đai (territory). mảnh dư đồ chữ S: Đất nước Việt Nam có hình cong như chữ S (the S-shaped territory).
HUỆ KHẢI chú thích