Thứ Ba, 12 tháng 4, 2016

ĐĐVU 14 / TRẤN AN HƯỚNG ĐẠO / Thánh giáo


Huờn Cung Đàn (tại Tam Giáo Điện Minh Tân, Sài Gòn)
Tý thời, 29-5 rạng mùng 01-6 Ất Tỵ
(Thứ Hai 28 rạng 29-6-1965)
Bộ phận Hiệp Thiên Đài:
Pháp đàn: Hải Thần. Đồng tử: Kim Quang.
Độc giả: Huệ Chơn. Điển ký: Bạch Tuyết, Hồng Ân.
Hộ đàn: Thiện Nghĩa, Chí Thiện. Chứng đàn: Thiên Hội.
Cơ Quan Hiệp Thiên Đài Thống Nhứt đồng ý ban hành:
Kiến Minh, Thiên Hội.
TIẾP ĐIỂN
THI
GIÁO TÔNG LÝ BẠCH giáng cơ tiền [1]
Chào cả Thiên phong [2] các sĩ hiền [3]
Đệ muội lưỡng ban [4] tâm tịnh định [5]
Mà nghe Bần Đạo để lời truyền.
Miễn lễ. An tọa đẳng đẳng [6] trung đàn.[7]
Bần Đạo đang ngự chốn động đào,[8] vừa được Du Thần [9] báo tin. Bởi lòng khẩn cầu thắc mắc của bao nhiêu hiền đệ, hiền muội đối với tiền đồ Đại Đạo, chi nên [10] Bần Đạo vội vã lâm đàn [11] để đôi lời trấn an các hiền đệ đã nhiệt tâm vì Đạo. Bần Đạo đáng khen cho tâm chí các bậc hướng đạo đã bôn ba [12] chẳng riêng vì thân thế, quy hợp về đây để cùng đệ huynh tìm lối thoát cho cơ Đạo. Lòng nhiệt thành đó Bần Đạo đã ghi một điểm son vào sử Đạo.
Chư hiền đệ nên nhớ điều này: Đường đạo cũng như đường đời, các hướng đạo [13] là những khách lộ hành đang đi trên quãng đường đó. Hãy nhớ điều này, là luôn luôn phải thuận lòng người, hạp lòng Trời, hãy thức thời kiến cơ nhi tác,[14] tùy cơ ứng biến.[15]
Hễ đường đá trải nhựa, dùng xe; gặp sông biển, ắt phải dùng thoàn.[16] Không lý do nào xe lại lăn bánh chốn bùn lầy để khách lộ hành vùi thân nơi ao vũng.
Kinh nghiệm nhiều năm qua, chư hiền đệ hãy xem lại đường lối và những thánh giáo, thánh lịnh đủ đầy tại Huờn Cung Đàn, do đó [17] mà hành sự. Hành không ngoài luật lệ chơn truyền đạo pháp, luôn luôn có Thiêng Liêng tá trợ [18] về mặt vô hình. Trừ phi các hiền đệ đi ngoài vòng đạo pháp thì cơn khảo đảo lẫn nhau khó tránh đó vậy.
Chư hiền hãy an tâm. Dầu sao sự thống nhứt Đạo một ngày sắp tới nhứt định phải thực hiện được, nếu không thì Thượng Đế không lý do nào mở đạo Cao Đài nơi mảnh dư đồ [19] chữ S.
Công quả chư hiền từ thử [20] vẫn còn tỏ rạng nơi sử Đạo và lòng ngưỡng mộ của nhơn sanh. Những cái vấp phải là những bài học hay; kiên chí [21] vượt qua là bước thành công một giai đoạn.
(…)
Bần Đạo chào chư hiền đệ muội. Hãy an tâm kiên chí trên bước đường lái lèo thuyền từ Đại Đạo. Bần Đạo xin kiếu. Thăng.



[1] giáng cơ tiền: Giáng trước đàn cơ.
[2] Thiên phong: Các chức sắc Thiên phong.
[3] sĩ hiền (hiền sĩ 賢士): Tiếng gọi người học đạo, tu hành.
[4] lưỡng ban : Hai ban chức sắc, chức việc và tín đồ khi hành lễ trước Thiên Bàn: <1> nam (phía bình bông trên Thiên Bàn) và <2> nữ (phía dĩa trái cây trên Thiên Bàn).
[5] tâm tịnh định: Giữ cho tâm được thanh tịnh, đừng thầm cầu xin, vọng tưởng bất cứ điều gì trong lúc hầu đàn.
[6] đẳng đẳng 等等: Hết thảy mọi người (everyone).
[7] trung đàn (đàn trung 壇中): Ở trong đàn cầu cơ (at the spirit evoking séance).
[8] động đào: Đào tức là đào nguyên 桃源 (cõi tiên). Động là nơi tiên ở. Động đào cũng là cảnh tiên, cõi tiên.
[9] Du Thần 遊神: Vị Thần tuần vãng khắp nơi, đêm lẫn ngày, để ghi nhận mọi sự lành dữ trong thế gian (Patrolling God).
[10] chi nên, nên chi: Vì vậy, bởi thế (therefore, thus).
[11] lâm đàn 臨壇: Đến với đàn cơ (giáng đàn), cũng như lâm cơ 臨乩 (to arrive at the séance). Lâm là cách nói để tỏ lòng tôn quý (honorific).
[12] bôn ba 奔波: Vất vả đi đó đi đây, vội vã chạy đầu này đầu kia để lo toan công việc (to rush about, to be constantly on the move).
[13] hướng đạo 向導: Người dẫn dắt đạo hữu (those who lead their brethren).
[14] kiến cơ nhi tác 見幾而作: Kiến cơ (to see the minutest signs) là nhìn thấy triệu chứng (mầm mống vừa hiện ra) thì hành động ngay (nhi tác). Ch này có nghĩa là sự nhỏ nhặt, điềm mới khởi, dấu hiệu mới vừa xuất hiện (triệu chứng), tương ứng tiếng Anh là “the minutest sign(s)”. Thành ngữ “kiến cơ nhi tác” lấy trong Kinh Dịch (Hệ Từ Hạ), cả câu như sau: Quân tử kiến cơ nhi tác, bất sĩ chung nhật. 君子見幾而作, 不俟終日. (: chờ đợi; chung nhật: hết ngày.) Nhiều sách dịch “kiến cơ” là “nhìn thấy thời cơ” thì không chính xác. Nguyễn Hiến Lê (1912-1984) dịch đúng hơn cả: “Người quân tử thấy trước triệu chứng mà ứng phó ngay, không đợi cho hết ngày.” Có thể dịch câu văn trên ra tiếng Anh như sau: The superior man sees the minutest signs, and acts accordingly without waiting for a single day. Thí dụ, Trương Lương vừa nhìn thấy cái mòi Lưu Bang lên làm vua (Hán Cao Tổ) bắt đầu trở mặt, muốn âm mưu giết hại công thần thì ông liền từ quan đi tu. Còn Hàn Tín tin vào lòng dạ Lưu Bang, ở lại triều làm quan hưởng lộc, cuối cùng đành chết thảm. Trương Lương là người “kiến cơ nhi tác”.
[15] tùy cơ ứng biến 隨機應變: Tùy theo trường hợp mà đối phó (to act according to circumstances).
[16] thoàn: Thuyền (boat).
[17] do đó: Noi theo đó, căn cứ theo đó.
[18] tá trợ 佐助: Giúp đỡ (to help someone, to assist someone). trợ đều cùng nghĩa là giúp đỡ.
[19] dư đồ 輿圖: Lãnh thổ đất đai (territory). mảnh dư đồ chữ S: Đất nước Việt Nam có hình cong như chữ S (the S-shaped territory).
[20] từ thử (tự thử 自此): Từ ấy, từ đó (since then, henceforth).
[21] kiên chí 堅志: Giữ vững ý chí (to strengthen one’s will).
HUỆ KHẢI chú thích