Linh phù là bùa thiêng. Chữ THIÊN 天 (Trời) có bốn nét; vẽ ba
chữ Thiên là đủ mười hai nét, mỗi nét ứng với một chữ trong câu chú khi niệm
hồng danh Thầy: Nam mô Cao Đài Tiên Ông
Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Tịnh viên (thiền sinh) Cao Đài họa phù (vẽ bùa) Tam
Thiên bằng thần khi trụ tâm vào mi gian (khoảng giữa hai đầu chân mày). Bùa
linh này cũng dùng trong nghi thức cầu cơ: Họa Tam Thiên linh phù ứng hiện / Xin Tiên Đồng mau chuyển thần cơ… [VĂN UYỂN]
|
Bà nội tôi từng là một
Chánh Trị Sự ở Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh. Ba tôi theo học chữ và học đạo ở
trường trung tiểu học Lê Văn Trung (Hòa Thành, Tây Ninh). Bà nội dời nhà lên
Sài Gòn, bà cùng ba tôi dọn tran thờ Thầy trang nghiêm trên lầu một. Rồi bà nội
mất, ba dọn ra ở riêng với má hai, nhà chỉ còn hai anh em tôi ở. Năm đó tôi
mười bốn tuổi, em tôi lên mười. Không có ba ở chung, bàn thờ Thầy trên lầu bỏ
không, lạnh lẽo. Sau này khi lớn lên và cùng nối nghiệp ba trong ngành y, chúng
tôi vẫn mãi không quên một chuyện lạ lùng đã xảy ra ở nhà tôi trong thời gian
ấy.
Bà nội khi mất có để lại nhiều đồ gỗ xưa, trong đó có một cái tủ đứng
bằng gỗ cẩm lai, để đựng quần áo. Không nhớ từ khi nào, mà cứ đêm về, trạc từ
mười một giờ đêm, từ trong cái tủ phát ra những tiếng gõ cộc, cộc… khá lớn. Tiếng gõ y như ai đó đứng bên trong tủ, gõ như
gọi mở cửa! Hai anh em tôi e có chuột phá (dù trong lòng không tin chuột có thể
gõ theo kiểu như thế), nên dọn hết quần áo, bít hết mọi chỗ có thể cho chuột ra
vô…
Tầm mười một giờ, hàng đêm. Vẫn những tiếng gõ kinh dị như thế, kéo dài
suốt đêm, dù mở tủ ra ngay lúc đó cũng tìm không thấy gì bên trong. Tiếng gõ
vào cửa từ bên trong tủ rõ ràng, chứ không phải tiếng cào cạp, lớn lồng lộng
đêm khuya, lạnh lùng nhấn vào nỗi sợ hãi của hai đứa con trai không có cha mẹ ở
chung. Hai anh em ngủ (xin thưa, ngủ gì nổi) ở cái đi-văng sát bên, bị nỗi sợ
gí sát vô tường. Thay phiên nhau, thay phiên nhau cho đỡ mỏi vì phải luôn nằm
chồng lên nhau, sát tường. Đứa trên, đứa dưới…
Tiếng-gõ-hàng-đêm ấy đeo theo hai anh em cả tháng trời. Sáng ra chúng tôi
đi học mà bước như bơi, mặt mày xanh xao trắng dã. Tối học xong là cùng nhìn
đồng hồ, sợ tới giờ đi “ngủ”, mong đừng có mười một giờ, trách thợ mộc đóng chi
cái tủ…
Một buổi chiều nọ. Câu chuyện cái tủ cẩm lai gõ cửa tới tai dượng Năm tôi
ở Gò Công. Dượng là một cư sĩ tu theo Cao Đài đã nhiều năm. Dượng sắp xếp việc
đồng việc đạo dưới quê, lên Sài Gòn. Gặp tụi tôi, dượng bảo: “Tối nay để dượng
họa phù Tam Thiên, cái tủ sẽ hết kêu.” Một tin, mà sáu bảy ngờ. Phù Tam Thiên là gì, tôi không để ý.
Nhưng mừng, vì tối nay có ông dượng bự con, quắc thước, nhìn oai nghiêm như
Quan Công ngủ lại nhà. Cái tủ cứ việc kêu, cứ việc gõ.
Đêm đó, mặc áo dài khăn đóng nghiêm chỉnh, dượng Năm đốt năm cây nhang.
Sau một hồi khấn vái và lầm bầm, dượng huơ huơ năm cây nhang… Rồi mười một giờ
đêm, dượng ngồi đó tọa thiền. Chúng tôi lóng bốn cái lỗ tai, trân sáu con mắt
(tính luôn cặp kiếng cận), dòm cái tủ, rồi liếc dượng… Không còn một tiếng gõ
nào nữa. Mãi mãi.
Đó là thập niên tám mươi, cuộc sống vấp phải nhiều khó khăn. Học y khoa
tốn kém, tôi đã kêu bán cái tủ để mua sách học. Cái tủ cẩm lai không còn, nhưng
ba chữ Tam Thiên phù đã in sâu vào ký
ức (dù chúng tôi vẫn chưa biết đó là cái gì), như một phép thần xua ma trừ quỷ.
Khi học sơ thiền cửu cửu, được hướng dẫn cách họa phù Tam Thiên bằng
thần, tôi háo hức vô cùng. Vì sự hiển linh của Tam Thiên phù có lẽ không ai có
nhiều hơn chúng tôi niềm tin và sự chứng nghiệm.
Giữa thời thiền giờ Tý tịch mịch, hễ có một niệm sợ hãi nào dấy lên trong
lòng, tôi lại vững tâm khi nghĩ mình đã họa Tam Thiên phù vào đầu mỗi thời
thiền. Lá-bùa-Trời ấy xua tan từng niệm âu lo mới nhen, như đã từng xua đi nỗi
sợ hãi tột cùng ngày xưa, xóa sạch những tiếng gõ. Những tiếng gõ thấy ghê, cho
đến giờ này như vẫn còn đồng vọng đâu đây…
TỬ LA LAN
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo