Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2016

ĐĐVU 12 / CÔNG PHU TU DƯỠNG CỦA ĐỨC KHỔNG TỬ / Phùng Hữu Lan (1895-1990), dịch: Lê Anh Minh


Đức Khổng Tử nói: Ta mười lăm tuổi chí tâm học tập; ba mươi tuổi thì noi theo lễ mà hành động; bốn mươi tuổi không còn nghi ngờ; năm mươi tuổi biết mệnh Trời; sáu mươi tuổi thì đã thuận mệnh Trời; bảy mươi tuổi tùy ý mà làm nhưng không vượt ra ngoài phép tắc.[1]
Đó là Đức Khổng Tử nói về những thay đổi diễn ra trong đời mình liên quan với các cảnh giới [2] mà Ngài sống. Khi nói ba mươi tuổi, bốn mươi tuổi, năm mươi tuổi… chẳng qua là các mốc thời gian mà Ngài trải qua; không nhất thiết phải là cứ mười năm thì cảnh giới của Ngài có một lần biến đổi.
Chữ học trong mười lăm tuổi chí tâm học tập không phải là cái học thông thường. Ngài nói:
- Sáng sớm nghe Đạo, chiều tối chết cũng cam lòng. (Luận Ngữ, 4:8)
- Kẻ sĩ lập chí học Đạo mà còn xấu hổ vì áo xấu cơm thô thì chẳng đáng cùng ta nghị luận. (Luận Ngữ, 4:9)
Cái học mà Đức Khổng Tử nói ở đây là hc Đo. Cái học thông thường là để tăng gia tri thức, còn Đạo là cái nâng cao cảnh giới của con người. Cái học thông thường là cái học trong câu nói của Đức Lão Tử (Đạo Đức Kinh, chương 48): Theo học ngày một thêm, theo Đạo ngày một bớt.[3] Cái học ấy đối lập với Đạo.
Còn cái học mà Đức Khổng Tử và Nho Gia về sau nói, chính là cái học về Đạo. Cái học về Đạo của Nho Gia tuy không nhất thiết ngày một bớt, nhưng nó cũng khác với cái học thông thường. Tôi đã nói: Cảnh giới tự nhiên và cảnh giới công lợi là quà tặng của tự nhiên; cảnh giới đạo đức và cảnh giới thiên địa là sáng tạo tinh thần của con người. Con người muốn hiểu được hai cảnh giới sau thì phải hiểu cái gọi là Đạo. Con người sống ở thế gian xem việc nghe được Đạo là quan trọng nhất, nên Đức Khổng Tử nói:
- Sáng sớm nghe Đạo, chiều tối chết cũng cam lòng.
- Kẻ sinh sau đáng sợ. Làm sao chúng ta biết tương lai của họ sẽ chẳng bằng hiện tại của chúng ta? Đến bốn mươi hay năm mươi tuổi mà họ chẳng nghe được Đạo, thì họ không đủ cho chúng ta sợ nữa. (Luận Ngữ, 9:23)
Đức Khổng Tử ba mươi tuổi thì noi theo lễ mà hành động. Ngài còn nói:
- Noi theo lễ mà hành động (Lập ư lễ 立於禮).
- Không biết lễ, sẽ không noi theo lễ mà hành động. (Luận Ngữ, 20:3)
Lễ là chuẩn mực cho hành vi mà con người quy định, và lễ được xem là đại biểu cho nghĩa , là đại biểu cho trung trên phương diện đạo đức.
Chữ lập ở đây nghĩa là noi theo lễ mà hành động.[4] Có thể noi theo lễ mà hành động, tức là khắc kỷ phục lễ.
Phục lễ 復禮 tức là hễ cái gì phi lễ thì chẳng nhìn, chẳng nghe, chẳng nói, chẳng làm (Luận Ngữ, 12:1).
Khắc kỷ 克己 tức là khắc chế bản ngã, trừ khử tự tư tự lợi.
Một kẻ sống trong cảnh giới công lợi thì hành vi của hắn đều vì lợi ích bản thân. Đó là hạng tự tư tự lợi. Thực hành đạo đức thì trước tiên phải trừ khử sự tự tư tự lợi. Do đó khi Nhan Uyên hỏi Đức Khổng Tử về nhân (nhân ái), Đức Khổng Tử đáp: Khắc kỷ phục lễ là nhân. (Luận Ngữ, 12:1)
Đức Khổng Tử bốn mươi tuổi không còn nghi ngờ. Ngài còn nói: Người trí thì không còn nghi ngờ. (Luận Ngữ, 9:29)
Trí tức là hiểu biết về nhân, nghĩa, lễ. Đức Khổng Tử ba mươi tuổi đã noi theo lễ mà hành động. Lễ là đại biểu của nghĩa. Có thể noi theo lễ tức là có thể hợp nghĩa. Nhưng hành vi hợp nghĩa chưa chắc là hành vi nghĩa. Do đó phải có thêm một bước nữa tiến tới trí thì chúng ta mới có thể hiểu biết trọn vẹn về nhân, nghĩa, lễ. Hiểu trọn vẹn về lễ thì không còn nghi ngờ [bất hoặc]. Người tríkhông còn nghi ngờ thì mới có thể có hành vi nhânnghĩa chân chính. Cảnh giới của người đó mới có thể là cảnh giới đạo đức. Đức Khổng Tử học Đạo đến năm bốn mươi tuổi thì bắt đầu đạt tới cảnh giới đạo đức vậy.
Đức Khổng Tử nói: Có những người, ta có thể cùng học với họ nhưng chưa chắc cùng họ học Đạo; có thể cùng họ học Đạo nhưng chưa chắc cùng họ noi theo lễ mà hành động; có thể cùng họ noi theo lễ mà hành động nhưng chưa chắc cùng họ quyền biến. (Luận Ngữ, 9:30)
Họ có thể noi theo lễ mà hành động nhưng chưa chắc đã hiểu trọn vẹn về lễ. Không hiểu trọn vẹn về lễ thì không biết rằng sự quan trọng của lễ là tùy thời (lễ, thời vi đại). Đức Mạnh Tử nói: Chấp trung mà không quyền biến thì cũng như chấp nhất.[5]
Chấp trung tức là bám lấy một tiêu chuẩn chết cứng, một biện pháp cố định để đối phó muôn hoàn cảnh khác nhau. Đức Mạnh Tử nói: Bậc đại nhân khi nói không nhất thiết cho rằng lời nói đáng tin, khi hành động không nhất thiết cho rằng hành động hiệu quả, chỉ tùy hoàn cảnh mà nói và làm cho hợp nghĩa thôi. Ai đạt tới trình độ trí tuệ không còn nghi ngờ thì mới có thể quyền biến. Đây là chỗ tiến bộ mà Đức Khổng Tử đạt tới khi học Đạo.
Đức Khổng Tử năm mươi tuổi biết mệnh Trời. Nhân, nghĩa, lễ đều là sự việc thuộc phương diện xã hội. Tới giai đoạn này, Đức Khổng Tử biết ở trên xã hội là Trời. Do đó cảnh giới của Ngài đã vượt lên trên cảnh giới đạo đức. Cái gọi là Thiên mệnh ở đây có thể giải thích là các biến đổi của sự vật trong vũ trụ vượt ra ngoài sức người và sức người chẳng thể can thiệp được. Đấy là ý nghĩa của mệnh mà Nho Gia sau này đã hiểu. Cái gọi là Thiên mệnh ở đây cũng có thể giải thích là mệnh lệnh của Thượng Đế. Đây dường như là ý nghĩa mà Đức Khổng Tử dùng. Nếu quả như thế, thì điều mà Đức Khổng Tử gọi là tri Thiên mệnh có lẽ giống như từ tri Thiên (biết Trời) mà tôi dùng trong quyển Tân Nguyên Nhân.
Đức Khổng Tử sáu mươi tuổi thì đã thuận mệnh Trời.[6]
Đức Khổng Tử bảy mươi tuổi tùy ý mà làm nhưng không vượt ra ngoài phép tắc. Trong quyển Tân Nguyên Nhân tôi đã nói người sống trong cảnh giới đạo đức, làm việc đạo đức thì xuất phát từ sự lựa chọn cân nhắc và cần phải cố gắng; còn người sống trong cảnh giới thiên địa, làm việc đạo đức thì không nhất thiết xuất phát từ sự lựa chọn cân nhắc và không cần phải cố gắng. Điều đó không có nghĩa là anh ta làm theo thói quen, mà có nghĩa là anh ta đã hiểu biết cao. Đức Khổng Tử bảy mươi tuổi tùy ý mà làm nhưng không vượt ra ngoài phép tắc, có lẽ vì đã đạt sự hiểu biết cao, chẳng suy tính mà vẫn được, chẳng gắng sức mà vẫn trúng.[7] Trong quyển Tân Nguyên Nhân tôi gọi đó là lc thiên (vui với Trời).
[Nguồn: Phùng Hữu Lan 馮友蘭, Tân Nguyên Đạo (Tinh Thần Của Triết Học Trung Quốc), Lê Anh Minh dịch, Nxb Đại Học Sư Phạm TpHCM, 2010.]



[1] Tử viết: Ngô thập hữu ngũ nhi chí ư học, tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập nhi tri thiên mệnh, lục thập nhi nhĩ thuận, thất thập nhi tòng tâm sở dục, bất du củ. (Luận Ngữ, 2:4) 子曰: 吾十有五而志於學, 三十而立, 四十而不惑, 十而知天命, 六十而耳順, 七十而從心所欲不踰矩.
[2] Cảnh giới: Xem phụ chú cuối bài này.
[3] Vi học nhật ích, vi Đạo nhật tổn. 為學日益,為道日損.
[4] Tuần lễ nhi hành 循禮而行.
[5] Chấp trung vô quyền, do chấp nhất dã. 執中無權, 猶執 一也.
[6] Lục thập nhi nhĩ thuận 六十而耳順. Câu này các học giả tiền bối căn cứ mặt chữ mà giảng nên không thỏa đáng. Hư từ nhĩ tức là dạng rút gọn của nhi dĩ 而已 (mà thôi), trường hợp rút gọn này cũng giống như chữ chư tức là chi ư 之於 hay chi hồ 之乎. Do đó câu này nguyên tác có người chép là lục thập nhĩ thuận 六十耳順, tức là lục thập nhi dĩ thuận 六十而已順. Người đời sau không hiểu nhĩ tức là nhi dĩ, lại thấy trước và sau đều có chữ nhi , nên mới chép thêm một chữ nhi nữa thành ra lục thập nhi nhĩ thuận 六十而耳順. Đời sau hiểu nhĩ là lỗ tai, nên giải thích sai. (Ở đây tôi giảng theo thuyết của tiên sinh Trầm Hữu Đỉnh 沈有鼎). Lục thập nhi dĩ thuận (sáu mươi tuổi thì đã thuận), thuận tức là thuận mệnh Trời, tức là ý nghĩa mà trong quyển Tân Nguyên Nhân tôi gọi là s thiên 事天 (phục vụ Trời).
[7] Bất tư nhi đắc bất miễn nhi trúng. 不思而得不勉而中.
------------
PHỤ CHÚ: CẢNH GIỚI
Theo Phùng Hữu Lan, con người có bốn cảnh giới:
<1> Cảnh giới tự nhiên (con người sống theo bản tính hay tập quán tự nhiên).
<2> Cảnh giới công lợi (con người sống vì lợi ích cá nhân, vụ lợi riêng cho mình).
<3> Cảnh giới đạo đức (con người sống vì lợi ích của tha nhân, của cộng đồng).
<4> Cảnh giới thiên địa (con người hiểu được ý nghĩa của con người đối với vũ trụ, biết sống hợp nhất với vũ trụ).
Công dụng của triết học (hay đạo học) là giúp con người chuyển hóa từ hai cảnh giới trước sang hai cảnh giới sau, tức là nhằm sống đạo đức và hợp nhất với trời đất. [LAM]