Thứ Ba, 5 tháng 4, 2016

ĐĐVU 13 / VỚI MỘT TẤM LÒNG / Huệ Khải


Ba ngày cuối năm 2014 tôi nếm lại cái lạnh của Hà Nội khi ra tham dự cuộc tọa đàm quốc tế về đề tài Tôn Giáo Trong Đời Sống Công Chúng / Religion in Public Life, tổ chức tại Trung Tâm Nghiên Cứu Tôn Giáo Đương Đại thuộc Đại Học Khoa Học Xã Hội Và Nhân Văn.[1] Tôi mang theo ba đầu sách song ngữ Việt-Anh tôi viết về đạo Cao Đài để biếu các vị tham dự tọa đàm (hơn một trăm quyển). Trong lúc giải lao giữa hai phiên thuyết trình và thảo luận, Giáo Sư Winfried Löffler, người Áo,[2] đã hỏi tôi về đạo Cao Đài. Thấy ông quan tâm, tôi gợi ý ông thử đọc Giáo Sư Ralph Bernard Smith (1939-2000), người Anh, dạy Trường Nghiên Cứu Phương Đông Và Châu Phi (SOAS) thuộc Viện Đại Học London.[3]
Sau khi về Sài Gòn ba hôm, ngày 04-01-2015 tôi gởi ông toàn bộ nghiên cứu của Giáo Sư Smith và tiểu sử của tác giả qua e-mail. Ngay hôm ấy, từ Quảng Châu, Giáo Sư Löffler hồi âm, nhã nhặn cảm ơn và cho biết ông đã đến thăm thánh thất Hà Nội ở số 48 Hòa Mã vào tối Tết dương lịch.[4] Đến nơi khoảng 20 giờ 30, muộn rồi, nhưng ông vẫn được tiếp đón niềm nở, được mời uống trà pha chút gừng và được đưa đi viếng bửu điện thờ Thượng Đế. Ông bảo rằng rất thích thú (Very interesting!).
Cuối thư, nhắc tới công trình nghiên cứu của Giáo Sư Smith, ông bảo khi trở về Áo chắc chắn ông sẽ đọc. Rồi ông muốn tôi xác định lại, phải chăng nghiên cứu của Giáo Sư Smith trình bày đạo Cao Đài đúng đắn và thích đáng (So you tell me that the study depicts Caodaism in a correct and appropriate way?).
Tôi chưa kịp phúc đáp thư ông thì nhằm lúc e-mail chập chờn, nghe nói vì đường cáp quang dưới biển sâu bị đứt. Như thế cũng có lý do để tôi trì hoãn, bởi lẽ tôi đang muốn tìm cách trả lời câu hỏi của ông sao cho phù hợp.
*
Tôi ngộ đạo Cao Đài năm hai mươi tuổi, nhờ được đọc thánh giáo Đức Cao Đài Thượng Đế qua bộ Thánh Ngôn Hiệp Tuyển (hai quyển) và bửu kinh Đại Thừa Chơn Giáo. Nhưng khi muốn tìm hiểu thêm về đạo Cao Đài, tôi hầu như chỉ tìm được rất ít ỏi sách khảo luận khả tín. Duyên may, vài năm sau, tôi được đọc phần thứ nhất nghiên cứu của Giáo Sư Smith, nhan đề An Introduction to Caodaism - Part I: Origins and Early History (Giới thiệu đạo Cao Đài. Phần I: Căn nguyên và lịch sử buổi đầu), in trong tập san khoa học BSOAS của Trường Nghiên Cứu Phương Đông Và Châu Phi (Vol. XXXIII, Part I, London 1970).[5] Vừa mở đầu, tác giả viết:
“Hiếm có hiện tượng nào trong lịch sử châu Á hiện đại lại có thể bị người phương Tây hiểu sai hoàn toàn như đạo Cao Đài. Đặt nền tảng trên sự dung hợp tôn giáo, với các đàn cơ giữ một vai trò trọng yếu, tôn giáo này chắc chắn đã bị các cây bút Kitô Giáo với lòng nghi ngờ (nếu không nói là khinh thường) xem như là một kiểu “thông linh học” phương Tây; sự thiếu cảm thông từ ban đầu này còn bị làm cho tệ hại hơn bởi sự kiện là trong các đàn cơ Cao Đài đã xuất hiện các nhân vật quen thuộc như Victor Hugo và Jeanne d’Arc. Kế đến, tại Tây Ninh có một ngôi đền của tín đồ Cao Đài là nơi khách du lịch hay đặt chân tới, đã khiến ông Graham Greene mô tả là “Chúa Kitô và Phật từ trên mái giáo đường nhìn xuống một biến tấu phương Đông của Walt Disney, rồng rắn sặc sỡ.” [6] Sự hiểu biết hời hợt như thế về yếu tố tôn giáo trong đạo Cao Đài lại rất phù hợp với thói nhạo báng hoặc lối chỉ trích cay độc của các quan sát viên chánh trị, đặc biệt là Bernard Fall, một người nhìn thấy trong đạo Cao Đài chẳng có gì khác hơn là một phong trào chánh trị chỉ lo bảo thủ quân đội riêng và quyền lực địa phương của mình, dùng tôn giáo chỉ để lừa gạt đám nông dân nhẹ dạ cả tin.[7] Trong những tình huống như thế, có lẽ chẳng ngạc nhiên rằng thực chất và căn nguyên của đạo Cao Đài đã không được nhìn thấy, và thậm chí lịch sử tôn giáo này cũng chưa hề được tóm tắt đầy đủ bằng bất kỳ một ngôn ngữ phương Tây nào.” [8]
Quả thật, trước khi đọc Smith tôi có xem một vài ấn bản tiếng Anh viết về đạo Cao Đài, và không khỏi bất nhẫn! Thế nên, ngay từ những dòng đầu tiên như dẫn trên, vị giáo sư người Anh rất thông thạo tiếng Việt, nổi danh là nhà Việt Nam học lỗi lạc, đã chiếm trọn thiện cảm của gã thanh niên chân ướt chân ráo bước vào một tôn giáo mới.
Từ năm 2008 tới nay, tôi cố gắng trình bày những hiểu biết của tôi về đạo Cao Đài qua một vài tập sách nhỏ viết bằng tiếng Anh, vì lẽ năm hai mươi mấy tuổi, tôi rất thấm thía lời Giáo Sư Smith nhắn nhủ: “Trong chừng mức nào đó, việc người phương Tây không hiểu biết về đạo Cao Đài là trách nhiệm của chính những người Cao Đài.” [9]
Đúng một tuần sau khi nhận được câu hỏi của Giáo Sư Löffler, tôi phúc đáp: Tôi muốn nói rằng Giáo Sư Smith quả thật đã viết về đạo Cao Đài với sự cảm thông sâu sắc từ tấm lòng của ông. Thế nên, giả dụ như có vài chi tiết nho nhỏ không chính xác (vì thiếu thông tin lịch sử khả tín vào lúc ông ấy thực hiện nghiên cứu), thì cũng chả quan trọng.[10]
Ngày 11-01-2015, Giáo Sư Löffler hồi âm, đôi dòng vắn vỏi cảm ơn tôi đã minh định thêm (additional clarification) như thế. Nhưng đến cuối ngày hôm ấy, tôi nhận tiếp lá thư khá dài của ông, cho biết những nhận xét về ba quyển sách song ngữ Việt-Anh tôi đã tặng ông lúc ở Hà Nội.
Lá thư từ nước Áo đã đến tôi giống như một món quà ý nghĩa đầu năm mới 2015.[11] Tôi chuyển ngữ như sau:
Kính Thầy,[12]
Cảm ơn Thầy! Tiện thể, chính xác là hôm nay tôi đã đọc ba quyển sách của Thầy (tôi bị bệnh chút ít, chẳng nghiêm trọng, đủ khỏe để đọc sách nhưng không đủ khỏe để ra khỏi nhà). Đây là mấy nhận xét:
0) Nói chung: Xin chúc mừng về các quyển sách thú vị, bố cục tốt, viết bằng tiếng Anh tuyệt vời (và - một sự hiếm hoi tuyệt đối ngày nay - hầu như hoàn toàn không có lỗi in sai; cái lỗi duy nhất là chữ “Hydrargyrum” trong một chú thích về phái luyện đan,[13] và đôi chỗ sau dấu phẩy lại thiếu một khoảng cách, nhưng tất cả chỉ có vậy thôi).
Cũng quý giá cho tôi có được nhiều sách tiếng Anh về Việt Nam phối hợp ở đây và những tấm ảnh xưa [in kèm trong các sách].
1) Quyển Đất Nam Kỳ - Tiền Đề Văn Hóa Mở Đạo Cao Đài thì thú vị và gây ngạc nhiên; dĩ nhiên tôi đã tưởng là những hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt, nhưng tôi ngạc nhiên khi đọc thấy tính năng động ở miền đất đó (về phương diện thực tế cũng như phương diện văn hóa), và về những truyền thống dân chủ.
2) Quyển Gia Đình Trong Tân Luật Cao Đài nhắc tôi nhớ rất nhiều tới luật đạo Công Giáo (thí dụ, công bố việc kết hôn trước đó khoảng một tuần) và thần học luân lý Công Giáo. Hầu như chẳng có gì mà một nhà thần học Công Giáo không thể góp phần vào, tôi cho là như vậy. Phải chăng đạo Cao Đài tiếp thụ nhiều giáo lý của Tam Giáo và nhiều yếu tố về cơ cấu và các bí tích của Công Giáo?
3) Quyển Tam Giáo Việt Nam - Tiền Đề Tư Tưởng Mở Đạo Cao Đài đối với tôi là thú vị vì tôi (a) hiện nay biết được “ai là ai” trong nền triết lý ban sơ của Việt Nam và (b) giờ đây tôi hiểu rõ hơn một chút về tôn giáo của công chúng (tôi vẫn luôn có ấn tượng rằng Tam Giáo dung hòa cho nhiều người, rằng một số đền chùa - có thể nói vậy - mang tính chất “đa tín ngưỡng”, v.v…). Chỉ tiếc là tôi đã chẳng đọc sách này ngay khi đang còn ở Hà Nội, biết đâu tôi đã viếng một vài đền chùa có nhắc tới trong sách.
Tóm lại: Hình ảnh về đạo Cao Đài trong tôi đã thay đổi rất nhiều. Tôi rất may mắn được gặp Thầy.
Với mọi lời chúc tốt lành,
Giáo Sư W.L.
*
Câu kết lá thư của vị giáo sư triết học, thần học người Áo khiến tôi suy nghĩ: Hình ảnh về đạo Cao Đài trong tôi đã thay đổi rất nhiều. Phải chăng, trước đây ông đã đọc những bài viết bóp méo về đạo Cao Đài theo kiểu Graham Greene hay Bernard B. Fall mà Giáo Sư Smith đã nói tới? Nếu đúng thế, thì tôi cảm thấy vui sướng khi nhận ra những cố gắng từ khả năng hạn hẹp của tôi để gióng lên một tiếng chuông trong trẻo đã có lời đồng vọng đầy thiện cảm.
Còn câu ông hỏi (Phải chăng đạo Cao Đài tiếp thụ nhiều giáo lý của Tam Giáo và nhiều yếu tố về cơ cấu và các bí tích của Công Giáo?), có lẽ lúc này chưa dễ trả lời thỏa đáng. Để giúp người nước ngoài thấu suốt được những giá trị mới mẻ, độc đáo mà đạo Cao Đài cống hiến cho thời đại mới, thì quả là cả một gánh nặng đang đặt lên vai giới trí thức Cao Đài hôm nay và mai sau.
Khả năng của tôi rất hạn chế. Ý thức như vậy nên tôi luôn luôn tự nhủ phải rất cẩn thận và phải cố gắng tận dụng chỗ hạn chế của mình trong công việc trình bày đạo Cao Đài sao cho trong sáng. Giữa buổi sáng 29-12-2014, đang lúc giải lao, trong khi trò chuyện với vị giáo sư người Áo về tôn giáo Cao Đài, về những tập sách mỏng tôi đã xuất bản, bất chợt tôi hỏi ông có nhớ phương danh nhà văn Mỹ Dale Carnegie (1888-1955) không. Tôi thổ lộ: Tôi thích câu Carnegie nói rằng nếu đời cho ta một quả chanh thì ta hãy pha ly nước chanh. Rồi tôi giải thích: Quả chanh của Mỹ lớn lắm (tôi lấy bàn tay khum khum lại làm ni), nên có thể pha được rất nhiều ly nước chanh chứ nào phải một ly. Ông gật đầu. Tôi cười, nói tiếp: Riêng tôi chỉ có được một trái tắc - quả quất / kumquat - nhỏ bé (tôi giơ đầu ngón tay cái làm ni), thì tôi cứ vắt kiệt nó để pha một cốc nước tắc nho nhỏ. Vâng, tôi chỉ có thể hiến tặng ít ỏi như thế.
Nhiêu Lộc, 14-01-2015


PHỤ ĐÍNH 1
TIỂU SỬ GIÁO SƯ R.B. SMITH
A. DẪN NHẬP
Cuối thập niên 70 tôi được tham khảo phần I chuyên khảo An Introduction to Caodaism rất công phu của Giáo sư R.B. Smith đăng trên chuyên san thông báo khoa học của Trường Nghiên Cứu Phương Đông Và Châu Phi (BSOAS), Vol. XXXIII, Part I (Origins and Early History). Chuyên khảo giá trị này giúp tôi có một tổng quan khi biên soạn Lịch Sử Đạo Cao Đài Thời Kỳ Tiềm Ẩn 1920-1926 (Huế: Nxb Thuận Hóa, 1996). Thế nhưng, phải hơn hai mươi năm sau, tôi mới có được bản sao chụp trọn vẹn phần I và phần II (Vol. XXXIII, Part II, nhan đề Beliefs and Organization). Hai phần khảo luận này có được là nhờ cụ Đỗ Văn Anh nhiệt tình giúp đỡ cho kẻ hậu bối như tôi, và không phải chỉ duy nhất một lần.
Cụ Đỗ là một tên tuổi quốc tế trong ngành Thư Tịch Học (Bibliography). Cụ làm cho Viện Khảo Cổ ở Sài Gòn những năm 1950-60; là hội viên Hội Nghiên Cứu Đông Dương (SEI) những năm 1951-75; và làm Giám Đốc Thư Viện Viện Khảo Cổ (Sài Gòn) trong mười năm (1965-75). Thư viện này nằm trên đường Gia Long, Sài Gòn. Sau 1975, con đường đổi tên và thư viện mang tên Thư Viện Viện Khoa Học Xã Hội Miền Nam (sau rút gọn là Thư Viện Viện Khoa Học Xã Hội), và cụ tiếp tục làm một chuyên viên tại đây. Từ năm 1986 cụ về hưu nhưng vẫn gắn bó với nghề thư viện (làm việc ngoài giờ), và là một địa chỉ vàng cho những ai cần tìm sách vở, tài liệu khảo cứu.
Đầu năm 2001, qua một bài báo trên tạp chí Xưa & Nay số 86 (Hà Nội: tháng 2-2001, tr. 28), tôi biết tin Giáo Sư Ralph B. Smith tạ thế ngày 20-12-2000. Hai năm sau, trong lúc tìm hình ảnh và tiểu sử của Giáo Sư Smith, thông qua website http://www.soas.ac.uk/Alumni/home.html, tôi liên lạc được với SOAS (địa chỉ: University of London, Thornhaugh Street, Russell Square, London WC1H 0XG) và rất may mắn là vào ngày 15-9-2003 đã được cô Sangeeta Banerjee, Phụ Tá về Quan Hệ Cựu Sinh Viên (Alumni Relations Assistant) của SOAS nhiệt tình giúp đỡ.
Thật vậy, một tập Alumni Newsletter (Edition 22, Spring 2001), là bản tin của cựu sinh viên trường SOAS, đã được cô Sangeeta chuyển về tận nhà tôi chín ngày sau đó. Ngoài chân dung R.B. Smith ở trang 13, bản tin còn có bài của Giáo Sư Ian Brown (Trưởng Khoa Sử Trường Nghiên Cứu Phương Đông Và Châu Phi, Viện Đại Học London), viết về công nghiệp của người quá cố. Một vài câu hỏi của tôi liên quan tiểu sử của Smith qua bài viết của Giáo Sư Brown đã được cô Sangeeta sốt sắng giải đáp rất chu đáo.
Và tiểu sử Giáo Sư R.B. Smith sau đây đã hình thành trên cơ sở những gì mà cô Sangeeta đã giúp cho tôi, đặc biệt là bài viết rất hay của Giáo Sư Ian Brown.
B. TIỂU SỬ R. B. SMITH
Giáo Sư Ralph Bernard Smith sinh ngày 09-5-1939 ở Bingley, Yorkshire (một hạt – county – ở phía bắc nước Anh). Theo học Burnley Grammar School (trường trung học ở thành phố Burnley, một trung tâm công nghiệp khai mỏ và dệt ở tây bắc nước Anh), sau đó ông vào Viện Đại Học Leeds ở trung bắc nước Anh, và đậu thủ khoa khi tốt nghiệp ngành Sử (a First in History).
Năm 1963 ông hoàn tất học vị tiến sĩ với luận án nghiên cứu về đất đai và xã hội ở West Riding thuộc hạt Yorkshire vào nửa đầu thế kỷ 16. Khoảng thời gian này ông đang tu nghiệp để làm sử gia ngành Đông Nam Á. Những năm 1962-1963 trong lúc tham gia Viện Nghiên Cứu Lịch Sử (the Institute of Historical Research) ở thủ đô London, ông được tuyển vào Trường Nghiên Cứu Phương Đông Và Châu Phi (SOAS), làm trợ lý phụ giảng bán thời gian (part-time tutorial assistant) môn Lịch Sử Nước Anh Từ Sau 1760. Tiếp theo đó ông được bổ nhiệm làm trợ giảng (assistant lecturer) môn Lịch Sử Đông Nam Á.
Trong bốn hay năm năm kế tiếp ông đã quên mình để bồi đắp năng lực giảng dạy lịch sử Đông Nam Á và phát triển tài năng nghiên cứu lịch sử Việt Nam; ông cũng đạt tới mức thông thạo tiếng Việt hiện đại và bắt đầu nghiên cứu Hán ngữ cổ đại. Ông sang Việt Nam nhiều lần để nghiên cứu mà chuyến đi đầu tiên là vào năm 1966. Một thành tựu quan trọng trong thời gian ấy là việc công bố vào năm 1968 kết quả nghiên cứu về Việt Nam và phương Tây. Công trình ấy cùng với một số bài báo chuyên khảo đã củng cố uy tín của ông là sử gia về Việt Nam. Năm 1971 ông được thăng lên học hàm Phó Giáo Sư (Reader).[14]
Giữa thập niên 1970 Smith khởi sự nghiên cứu về chiến tranh Việt Nam, một công trình học thuật to tát gồm nhiều tập. Tập đầu tiên xuất bản năm 1983, nhan đề An International History of the Vietnam War: Revolution versus Containment, 1955-61 (Một lịch sử quốc tế của chiến tranh Việt Nam: Cách mạng đối đầu với chính sách ngăn chặn, 1955-1961). Tác phẩm được đón nhận cực kỳ nồng nhiệt cũng như hai tập nối tiếp sau đó: The Struggle for South-East Asia 1961-65 (Cuộc tranh đấu cho Đông Nam Á 1961-1965), xuất bản năm 1985; và The Making of a Limited War, 1965-66 (Gây ra cuộc chiến tranh có giới hạn, 1965-1966), xuất bản năm 1991. Bộ sách dự kiến gồm ít nhất bốn tập, nhưng ngay cả khi bị ngắn bớt đi, đây vẫn là một đóng góp quan trọng cho một đề tài to tát. Khi thành tựu này và sự chuyển hướng tập trung nghiên cứu khoa học của Smith được công nhận, năm 1989 ông được thăng học hàm Giáo Sư Vĩnh Viễn môn Lịch Sử Quốc Tế Châu Á.[15]
Những năm cuối đời sức khỏe Giáo Sư Smith càng lúc càng suy, nhưng ông vẫn quên mình dành nhiều thời gian và công sức giúp đỡ các sinh viên nghiên cứu khoa học.
PHỤ ĐÍNH 2
THƯ CỦA GIÁO SƯ W. LÖFFLER
Dear Master,
Thank you! By the way, exactly today I read your three books (I am a bit sick, not seriously, well enough to read but not well enough to go out of house). Here are a few comments:
0) Overall: Congratulations to the interesting, well-structured books in marvellous English (and - an absolute rarity today! - the almost complete absence of typos; the only one is “Hydrargyrum” in the footnote on the Alchemist, and somewhere there is a blank missing after a comma, but that’s all).
It's also valuable for me to have a lot of the English-speaking literature on VN united here and some old photos.
1) The book about Cochinchina was interesting and surprising; of course, I expected hardships of nature in the Mekong delta, but I was surprised to read about the mobility there (factually and culturally) and about the democratic traditions.
2) The book on family & marriage reminds me very much of Catholic canon law (e.g. the public announcement a week or so before) and Catholic moral theology. Almost nothing to which a Catholic theologian could not subscribe to, I presume. Is it so that CD adopts much of the doctrine from the three teachings and much of the structures & sacraments from Catholicism?
3) The book on the three teachings is interesting for me since I (a) have now a “Who's who in early VN philosophy” and (b) now I understand public religion a bit better (I always had the impression that the three teachings merger for many people, that some temples are (so to say) “multiconfessional”, etc.). It’s just a pity I didn’t immediately read the book in HN, maybe I would have visited some of the temples mentioned.
In sum: my picture of CD has changed very much. I am happy to have met you!
With every good wish,
Prof. W.L.




[1] Bài tham luận của tôi có in trong Văn Uyển Xuân 2015 này.
[2] Giáo Sư Löffler sinh năm 1965, có hai bằng tiến sĩ, là giáo sư ngoại hạng đương nhiệm (Ao.Univ.-Prof. / Außerordentlicher Universitätsprofessor), theo chế độ học hàm của Áo và Thụy Sĩ. Ông đang giảng dạy tại Viện Triết Học Kitô Giáo (Institut für Christliche Philosophie). Trò chuyện với tôi, ông cho biết phu nhân của ông là một nhà hoạt động tôn giáo nhiệt thành ở nước Áo. Có thể vào xem trang web của ông tại địa chỉ: http://www.uibk.ac.at/philtheol/loeffler.
[3] Xem Phụ đính 1: Tiểu sử Giáo Sư R.B. Smith.
[4] Vì thời gian hạn hẹp ở Hà Nội, tôi không tiện đưa ông đến thăm thánh thất. Nhưng trước khi tôi về Sài Gòn, ông có nhờ tôi ghi lại địa chỉ thánh thất và phương danh chức sắc cai quản. Ông nói vui, vì ở thánh thất biết tôi, ông sẽ chìa ra quyển sách tôi tặng ông để làm “danh thiếp”.
[5] Phần thứ hai cũng là phần chót, nhan đề Beliefs and Organization / Tín ngưỡng và tổ chức (Vol. XXXIII, Part II, 1970), thì phải rất muộn màng sau đó tôi mới tìm được, nhờ sự giúp đỡ của cụ Đỗ Văn Anh, nguyên Giám Đốc Thư Viện Viện Khảo Cổ (Sài Gòn), và nhà thư tịch học danh tiếng.
[6] Graham Greene, The Quiet American / Người Mỹ trầm lặng (Penguin Books, 1962), p. 81.
[7] Bernard B. Fall, “The political-religious sects of Viet-Nam” / Các giáo phái chánh trị của Việt Nam, Pacific Affairs, XXVIII, 3, 1955, pp. 235-53.
[8] “Few phenomena in the modern history of Asia can have been so completely misunderstood by Westerners as the Vietnamese religious (and political) movement known in European languages as ‘Caodaism’. Based upon a syncretic approach to religion, in which a key role is played by spirit-seances, it has inevitably been regarded by Christian writers with the same suspicion (if not contempt) as occidental ‘spiritualism’; and this initial lack of sympathy is compounded by the fact that the spirits who have revealed themselves at Caodaist seances include such familiar figures as Victor Hugo and Jeanne d’Arc. Then there is the show-piece temple of the Caodaists at Tây Ninh, which drew forth Mr. Graham Greene's description of ‘Christ and Buddha looking down from the roof of the Cathedral on a Walt Disney fantasia of the East, dragons and snakes in Technicolor’. This superficial notion of the religious element in Caodaism fitted in very well with the cynicism of political observers, notably Bernard Fall, who saw in Caodaism no more than a political movement anxious to preserve its private armies and local power, using its religious ideas merely to dupe a credulous peasantry. In these circumstances, it is perhaps not surprising that the real nature and origins of Caodaism have been lost from view, and even its history has never been adequately summarized in any Western language.”
[9] “To some extent Western ignorance about Caodaism is the responsibility of the Caodaists themselves.”
[10] I would like to say that Prof. Smith really wrote about Caodaism with sympathy deeply from his heart. So, if there might be some “small” details incorrect (due to the lack of reliable historical information at his time of doing his research), it is not a matter.
[11] Xem Phụ đính 2: Nguyên văn lá thư.
[12] Lúc làm việc ở Hà Nội, khi trò chuyện ngoài lề hay khi thảo luận trong các phiên họp, một vị giáo sư người Đài Loan gốc Việt (họ Trần), luôn nhã nhặn gọi tôi là “thầy Huệ Khải”. Trần tiên sinh và tôi có dùng tiếng Anh giải thích cho Giáo Sư Löffler ý nghĩa chữ “thầy” trong tiếng Việt. Bởi thế, khi viết thư cho tôi, Giáo Sư Löffler gọi tôi là “Master” (thầy).
[13] Trong sách Tam Giáo Việt Nam - Tiền Đề Tư Tưởng Mở Đạo Cao Đài, ở trang 71, chú thích 14 (tiếng Việt), và trang 173, chú thích 14 (tiếng Anh), sách đã in là Hydragyum (tiếng Latin), chính từ gốc Latin đó mà tên hóa học của thủy ngân viết là Hg. Tuy nhiên, Giáo Sư Löffler nghĩ rằng tôi nên viết bằng tiếng Anh là Hydrargyrum.
[14] Reader là học hàm trên bậc giảng viên chính (senior lecturer) và dưới bậc giáo sư (professor).
[15] a personal Chair in the International History of Asia

Các em cần phải nâng cao tầm mức giáo lý cho có triết học, khoa học, văn học để tăng thêm tính chất hấp dẫn và phổ biến. (…) Các em cũng cần lưu ý: Giáo lý Đạo quá giản lược, chưa thỏa mãn sự tìm hiểu của các giới. Nhưng phần phô diễn phát huy không phải là việc của các Đấng hay chúng Tiên Huynh, mà chỉ có thể là của các em, với sự soi dẫn Thiêng Liêng.
Đức CAO TRIỀU PHÁT
Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 31-3-1985