Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2016

ĐĐVU 12 / THANH TĨNH KINH / Dịch & chú thích: Lê Anh Minh


Kinh này có nhan đề đầy đủ là: Thái Thượng Lão Quân Thuyết Thường Thanh Tĩnh Kinh.[1] các nhan đề khác là: Thái Thượng Hỗn Nguyên Thượng Đức Hoàng Đế Thuyết Thường Thanh Tĩnh Kinh;[2] Thường Thanh Tĩnh Kinh;[3] Thanh Tĩnh Kinh.[4]
Về nội dung, kinh giải thích diệu dụng của thanh tĩnh.[5] Để đạt được thanh tĩnh người tu phải tam quán: <1> nội quán (nhìn vào trong); <2> ngoại quán (nhìn ra ngoài), và <3> viễn quán (nhìn ra xa). Tam quán để thấy vạn vật đều là không; tức là trừng tâm (làm trong sạch tâm) để diệt trừ vọng tâm, diệt trừ phiền não.
Tác giả bản kinh này chưa rõ là ai. Có thuyết cho rằng đó là Cát Huyền 葛玄 (164-244); có thuyết cho rằng tác giả là một đạo sĩ ẩn danh, sống vào đời Đường (618-907) hoặc Ngũ Đại (907-1279).

Bản kinh này (có lời chú của Thủy Tinh Tử) đã được đưa vào Chính Thống Đạo Tạng.[6] Đây là bản kinh được giới đạo sĩ rất xem trọng.
Thanh Tĩnh Phái của Toàn Chân Đạo [7] quy định đây là bản kinh nhật tụng của môn phái, nên bản kinh được lưu hành rất rộng và có nhiều bản chú thích của các nhà như: Đỗ Quang Đình, Thủy Tinh Tử, Hỗn Nhiên Tử, Hầu Thiện Uyên, L‎‎ý Đạo Thuần.[8]
Bản dịch này căn cứ bản chữ Hán (468 từ) in trong Đạo Giáo Thập Tam Kinh (quyển Hạ), do Ninh Chí Tân chủ biên, Hà Bắc Nhân Dân xuất bản xã, 1994, tr. 1330-1333.[9]
THANH TĨNH KINH (dịch)
1. Lão Quân nói: Đại Đạo không có hình dáng, nhưng sinh ra và nuôi dưỡng trời đất. Đại Đạo không có tình cảm, nhưng khiến cho mặt trời và mặt trăng hoạt động. Đại Đạo không có tên, nhưng nuôi dưỡng và phát triển vạn vật. Ta không biết tên gọi của nó, nên gượng gọi tạm nó là Đạo.
2. Đạo thì có trong có đục, có động có tĩnh. Trời trong đất đục, trời động đất tĩnh. Trai trong gái đục, trai động gái tĩnh. Động và tĩnh, trong và đục tương tác nhau mà sinh ra vạn vật. Trong là nguồn gốc của đục, động là căn bản của tĩnh. Hễ con người luôn thanh tĩnh thì trời đất sẽ quy về họ [tức là con người hòa hợp với vũ trụ].
3. Cái thần của con người vốn thích sự trong trẻo nhưng tâm lại quấy nhiễu nó. Tâm con người vốn thích sự yên tĩnh nhưng lòng ham muốn lại lôi kéo nó. Hễ con người điều khiển được sự ham muốn của mình (tức là khống chế được nó) thì tâm của mình sẽ tự yên tĩnh. Hễ con người làm trong sạch tâm mình thì thần của họ sẽ tự trong trẻo. Tự nhiên sáu ham muốn sẽ không phát sinh và ba độc sẽ tự tiêu diệt. Nhưng sở dĩ người ta chưa thể đạt được điều đó bởi vì tâm họ chưa được thanh lọc, ham muốn của họ chưa bị khống chế. Để khống chế được ham muốn của mình thì hãy nhìn vào bên trong, xét cái tâm của mình, ắt thấy rằng tâm mình vốn không có tâm; hãy nhìn ra bên ngoài, xét hình của mình, ắt thấy rằng hình mình vốn không có hình; hãy nhìn ra xa, xét các sự vật, ắt thấy rằng vật vốn không có vật. Cả ba thứ ấy (tâm, hình, vật) đều là không. [Thấu triệt được điều ấy thì sẽ] thấy vạn vật đều là không.
4. Quán xét thấy không cũng là không; cái không thì không có cái vốn là không. Cái vốn là không đã không có, thì không có cái không có cũng là không có. [Thấy rằng] không có cái không có đã là không có, thì tâm luôn luôn tĩnh lặng. [Thấy rằng] tĩnh lặng không có cái vốn tĩnh lặng, thì dục vọng làm sao có thể phát sinh ra? Dục vọng đã không phát sinh, tức là ta đạt được sự tĩnh lặng đích thực. Sự tĩnh lặng đích thực đó luôn thích ứng với sự vật và luôn [khiến ta] giác ngộ được chân tính. Luôn thích ứng, luôn tĩnh lặng, luôn thanh tĩnh vậy.
5. Người đã thanh tĩnh được như vậy, thì đang tiến dần vào Đạo chân chính. Hễ tiến vào Đạo chân chính rồi thì gọi là đắc đạo. Tuy gọi là đắc đạo nhưng thực tế đã không đắc [không đạt được] cái gì cả. Hễ cảm hóa được chúng sinh, thì gọi là đắc đạo. Ai giác ngộ được điều đó thì có thể truyền dạy Đạo Thánh cho người khác.
6. Lão Quân nói: Bậc thượng sĩ chẳng tranh chấp với ai; kẻ hạ sĩ thích tranh chấp với người khác. Bậc thượng đức không chấp vào đức [không coi mình là có đức]; kẻ hạ đức chấp vào đức [tự coi mình là có đức]. Kẻ chấp trước vào nó chẳng hiểu đạo đức là gì. Chúng sinh sở dĩ không đạt được Đạo chân chính là vì có vọng tâm. Đã có vọng tâm tức là làm kinh động đến thần của mình. Đã làm kinh động đến thần của mình, tức là chấp trước vào sự vật. Đã chấp trước vào sự vật, tức là nảy sinh lòng tham lam và mong cầu. Đã nảy sinh lòng tham lam và mong cầu, tức là phiền não. Phiền não và vọng tưởng làm khổ cả thân và tâm, khiến ta gặp phải sự ô trọc và nhục nhã, trôi nổi luân hồi sinh tử, luôn chìm đắm trong biển khổ, mãi mãi đánh mất Đạo chân chính. Kẻ giác ngộ Đạo chân chính và thường hằng thì tự đắc Đạo. Kẻ đắc Đạo thì luôn thanh tĩnh vậy.
THANH TĨNH KINH (phiên âm Hán Việt)
1. Lão Quân viết: Đại Đạo vô hình, sinh dục thiên địa; Đại Đạo vô tình, vận hành nhật nguyệt. Đại Đạo vô danh, trưởng dưỡng vạn vật. Ngô bất tri kỳ danh, cưỡng danh [10] viết Đạo.
2. Phù Đạo giả, hữu thanh hữu trọc,[11] hữu động hữu tĩnh.[12] Thiên thanh địa trọc, thiên động địa tĩnh. Nam thanh nữ trọc, nam động nữ tĩnh. Giáng bản lưu mạt,[13] nhi sinh vạn vật. Thanh giả trọc chi nguyên, động giả tĩnh chi cơ. Nhân năng thường thanh tĩnh, thiên địa tất giai quy.
3. Phù nhân thần hiếu thanh, nhi tâm nhiễu chi; nhân tâm hiếu tĩnh, nhi dục khiên chi. Thường năng khiển kỳ dục, nhi tâm tự tĩnh; trừng [14] kỳ tâm, nhi thần tự thanh. Tự nhiên lục dục [15] bất sinh, tam độc [16] tiêu diệt. Sở dĩ bất năng giả, vị tâm vị trừng, dục vị khiển dã. Năng khiển chi giả, nội quán kỳ tâm, tâm vô kỳ tâm; ngoại quán kỳ hình, hình vô kỳ hình; viễn quán kỳ vật, vật vô kỳ vật. Tam giả ký vô, duy kiến ư không.
4. Quán không diệc không, không vô sở không. Sở không ký vô, vô vô diệc vô. Vô vô ký vô, trạm nhiên thường tịch. Tịch vô sở tịch, dục khởi năng sinh. Dục ký bất sinh, tức thị chân tĩnh. Chân thường ứng vật, chân thường đắc tính. Thường ứng thường tĩnh, thường thanh tĩnh hỹ!
5. Như thử thanh tĩnh, tiệm nhập chân đạo. Ký nhập Chân Đạo, danh vi đắc đạo. Tuy danh đắc đạo, thực vô sở đắc. Vị hóa chúng sinh, danh vi đắc đạo. Năng ngộ chi giả, khả truyền Thánh Đạo.
6. Lão Quân viết: Thượng sĩ [17] vô tranh, hạ sĩ [18] hiếu tranh. Thượng đức bất đức, hạ đức chấp đức. Chấp trước chi giả, bất minh đạo đức. Chúng sinh sở dĩ bất đắc chân đạo giả, vị hữu vọng tâm. Ký hữu vọng tâm, tức kinh kỳ thần. Ký kinh kỳ thần, tức trước vạn vật. Ký trước vạn vật, tức sinh tham cầu. Ký sinh tham cầu, tức thị phiền não. Phiền não vọng tưởng, ưu khổ thân tâm, tiện tao trọc nhục, lưu lãng sinh tử, thường trầm khổ hải, vĩnh thất chân đạo. Chân thường chi đạo, ngộ giả tự đắc. Đắc ngộ đạo giả, thường thanh tĩnh hỹ!
NGUYÊN VĂN (chữ Hán)
1. 老君曰 : 大道無形, 生育天地 ; 大道無情, 行日月 ; 大道無名, 長養萬物. 吾不知其名, 強名 曰道.
2. 夫道者, 有清有濁, 有動有靜. 天清地濁, 天動 地靜 ; 男清女濁, 男動女靜. 降本流末, 而生萬物. 清者濁之源, 動者靜之基. 人能常清靜, 天地悉皆 .
3. 夫人神好清, 而心擾之 ; 人心好靜, 而慾牽之. 能遣其慾, 而心自靜 ; 澄其心, 而神自清. 自然六慾 不生, 三毒消滅. 所以不能者, 為心未澄, 慾未遣也. 能遣之者, 內觀其心, 心無其心 ; 外觀其形, 形無其  ; 遠觀其物, 物無其物. 三者既無, 唯見於空.
4. 觀空亦空, 空無所空. 所空既無, 無無亦無. 無無 既無, 湛然常寂. 寂無所寂, 慾豈能生. 慾既不生, 即是真靜. 真常應物, 真常得性. 常應常靜, 常清靜  !
5. 如此清靜, 漸入真道. 既入真道, 名為得道. 雖名 得道, 實無所得. 為化眾生, 名為得道. 能悟之者, 可傳聖道.
6. 老君曰 : 上士無爭, 下士好爭. 上德不德, 下德執 . 執著之者, 不明道德. 眾生所以不得真道者, 有妄心. 既有妄心, 即驚其神. 既驚其神, 即著萬物. 既著萬物, 即生貪求. 既生貪求, 即是煩惱. 煩惱妄 , 憂苦身心, 便遭濁辱, 流浪生死, 常沉苦海, 失真道. 真常之道, 悟者自得. 得悟道者, 常清靜  !



[1] 太上老君說常清靜經
[2] 太上混元上德皇帝說常清靜經
[3] 常清靜經
[4] 清靜經
[5] Người Việt quen đọc là Thanh Tịnh Kinh. Chữ Tĩnh Tnh viết khác nhau.
[6] 正統道藏
[7] 清靜派 / 全真道
[8] 杜光庭 / 水精子 / 混然子 / 侯善淵 / 李道純
[9] 寧志新,道教十三經,河北人民出版社
[10] Cưỡng danh: Miễn cưỡng gọi tên là; gượng gọi tạm là.
[11] Thanh: Trong trẻo. Trọc: Đục.
[12] Tĩnh : Yên tĩnh (trái nghĩa của động) thường bị lầm với chữ tịnh (sạch sẽ).
[13] Giáng bản: Làm cho gốc hạ xuống. Lưu mạt: Làm cho ngọn lưu thông. Ninh Chí Tân giải thích: Trời đất thăng giáng, nam nữ giao hợp. Có thể hiểu đây là sự tương tác giữa động và tĩnh, giữa thanh và trọc, giữa dương và âm.
[14] Trừng: Làm cho trong sạch.
[15] Lục dục: Sáu ham muốn phát sinh từ lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp).
[16] Tam độc: Tham, sân (nóng giận), si (ngu si).
[17] Thượng sĩ: Bậc đạo cao đức trọng; như thượng đức.
[18] Hạ sĩ: Kẻ thấp kém đạo đức; như hạ đức.

Khoa học không tôn giáo thì què quặt, tôn giáo không khoa học thì mù lòa. / Science without religion is lame, religion without science is blind.
ALBERT EINSTEIN (Mỹ gốc Đức, 1879-1955)