Chủ Nhật, 3 tháng 4, 2016

ĐĐVU 12 / THƠ HUỲNH VĂN MƯỜI

ĐI TÌM
Đi tìm mình ở nơi đâu
Trong chơi vơi cõi bạc đầu nầy chăng?
Nghe hơi đất thở nhọc nhằn
Nghìn năm trầm tích đã hằn vết roi
Rồi ngày lững chững vành nôi
Vói tay vịn mé vai đời đứng lên
Sâu trong chớp bể mưa rền
Nước từ vô thủy chảy vênh cánh bèo
Xoắn mình làm sợi dây neo
Buộc duyên nợ với đói nghèo trầm kha
Gió từ tiền kiếp thổi qua
Hạt mầm rơi xuống giữa sa mạc tình
Nở thành một đóa vô minh
Cái tâm cùng với cái hình sóng đôi
Lập lòe ngọn lửa ma trơi
Tàn tro vón lại thành người vô duyên
Nghĩa nhơn quấn giữa đồng tiền
Cái danh, cái lợi đem xiềng xích nhau
Một hôm nước rẽ chân cầu
Một hôm đất bỗng trắng màu thời gian
Gió rơi vách đá đại ngàn
Lửa rơi xuống nỗi bàng hoàng tử sinh
Về ngồi gột vết điêu linh
Soi vào trong bỗng thấy mình hiện thân.
HUỲNH VĂN MƯỜI
MIỀN XA XÔI
Con tìm lại dòng sông năm tháng cũ
Có còn không đất bên lở bên bồi
Lúa có lên xanh một thời con gái
Để nhớ ngày khoai sắn bỗng lên ngôi
Ôi mảnh đất đêm đêm rền xe nước
Gió nồm trôi đọt mạ hóng sương khuya
Ngày tháng ba thóc phơi chưa tròn nắng
Chiều gió dông mẹ rũ rượi nong nia
Nước phèn đóng bàn tay đen chua chát
Dảnh mạ non xanh ngợp ngụa đất sình
Giọt mồ hôi chan mặn mòi con mắm
Lúa trụi trần sởn gai ốc ba sinh
Quần vải thô cụt cùn hơn mái rạ
Áo mỏng manh thăn thắt gió cơ hàn
Cha cúi xuống tấm lưng mòn hơn nửa
Gánh một đời oằn nặng tiếng ho khan
Nghe rin rít cột kèo đêm trở gió
Bờ phên thưa co rúm khói ngày đông
Mẹ chẻ đời mình như sợi lạt
Buộc xuống đàn con một nuột long đong
Hạt cơm dẻo từ xương cha máu mẹ
Mãi trồi lên, hụp xuống một đời con
Đêm khói bếp lên thương ngày giáp hạt
Góc bụi bờ cuống rạ trỗi xanh khôn.*
HUỲNH VĂN MƯỜI
Thánh thất Nam Trung Hòa
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài

* Xanh khôn: Cây lúa tái sinh từ gốc rạ sau mùa gặt. [HVM chú]