ĐI TÌM
Đi tìm mình ở nơi đâu
Trong
chơi vơi cõi bạc đầu nầy chăng?
Nghe
hơi đất thở nhọc nhằn
Nghìn
năm trầm tích đã hằn vết roi
Rồi
ngày lững chững vành nôi
Vói
tay vịn mé vai đời đứng lên
Sâu
trong chớp bể mưa rền
Nước
từ vô thủy chảy vênh cánh bèo
Xoắn
mình làm sợi dây neo
Buộc
duyên nợ với đói nghèo trầm kha
Gió
từ tiền kiếp thổi qua
Hạt
mầm rơi xuống giữa sa mạc tình
Nở
thành một đóa vô minh
Cái
tâm cùng với cái hình sóng đôi
Lập
lòe ngọn lửa ma trơi
Tàn
tro vón lại thành người vô duyên
Nghĩa
nhơn quấn giữa đồng tiền
Cái
danh, cái lợi đem xiềng xích nhau
Một
hôm nước rẽ chân cầu
Một
hôm đất bỗng trắng màu thời gian
Gió
rơi vách đá đại ngàn
Lửa
rơi xuống nỗi bàng hoàng tử sinh
Về
ngồi gột vết điêu linh
Soi
vào trong bỗng thấy mình hiện thân.
HUỲNH
VĂN MƯỜI
MIỀN XA XÔI
Con tìm lại dòng sông năm tháng cũ
Có
còn không đất bên lở bên bồi
Lúa
có lên xanh một thời con gái
Để
nhớ ngày khoai sắn bỗng lên ngôi
Ôi mảnh đất đêm đêm rền xe nước
Gió
nồm trôi đọt mạ hóng sương khuya
Ngày
tháng ba thóc phơi chưa tròn nắng
Chiều
gió dông mẹ rũ rượi nong nia
Nước phèn đóng bàn tay đen chua chát
Dảnh
mạ non xanh ngợp ngụa đất sình
Giọt
mồ hôi chan mặn mòi con mắm
Lúa
trụi trần sởn gai ốc ba sinh
Quần vải thô cụt cùn hơn mái rạ
Áo
mỏng manh thăn thắt gió cơ hàn
Cha
cúi xuống tấm lưng mòn hơn nửa
Gánh
một đời oằn nặng tiếng ho khan
Nghe rin rít cột kèo đêm trở gió
Bờ
phên thưa co rúm khói ngày đông
Mẹ
chẻ đời mình như sợi lạt
Buộc
xuống đàn con một nuột long đong
Hạt cơm dẻo từ xương cha máu mẹ
Mãi
trồi lên, hụp xuống một đời con
Đêm
khói bếp lên thương ngày giáp hạt
Góc
bụi bờ cuống rạ trỗi xanh khôn.*
HUỲNH
VĂN MƯỜI
Thánh thất Nam Trung Hòa
Hội Thánh Truyền Giáo Cao Đài
* Xanh khôn: Cây lúa tái
sinh từ gốc rạ sau mùa gặt. [HVM chú]