QUA NGỌC ĐẾ CHƠN TRUYỀN TÂN ƯỚC TRI NGUYÊN, THỬ
PHÁC HỌA MẤY NÉT VỀ VẤN ĐỀ VĂN HÓA CAO ĐÀI KẾ THỪA, NUÔI DƯỠNG VÀ PHÁT HUY VĂN
HÓA ĐẠO ĐỨC DÂN TỘC VIỆT NAM
* Tham
luận của Hội
Thánh Cao Đài Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý trong
cuộc hội thảo “Đạo Cao Đài Góp Phần Phát Huy Văn Hóa Dân Tộc”, tổ chức vào ngày
Thứ Sáu 10-4-2015 (22-4 Ất Mùi), tại Thánh Tòa Ngọc Kinh, xã Mong Thọ, huyện
Châu Thành, tỉnh Kiên Giang.
Để có thể nói được một cách đầy đủ và có hệ
thống về mối tương quan giữa văn hóa Cao Đài và văn hóa đạo đức của dân tộc
Việt Nam đòi hỏi đại cộng đồng Cao Đài cùng nhau phát huy trí tuệ tập thể của
từng Hội Thánh, từng tổ chức trong nhà Đạo Kỳ Ba; tức là tất cả đồng tâm hiệp
sức để nghiên cứu vấn đề một cách thâm sâu, thấu đáo, và đòi hỏi đầu tư thật
nhiều thời gian, tim óc... Mỗi một Hội Thánh, một tổ chức Cao Đài nếu làm sáng
tỏ được những nét độc đáo của văn hóa Cao Đài, văn hóa đạo đức dân tộc và trình
bày rõ ràng theo góc nhìn của mình, thì khi tổng hợp lại tất cả các công trình
ấy, ắt hẳn đại cộng đồng Cao Đài sẽ có được một kết quả chung thật mỹ mãn.
Nhận thức như vậy, bài tham luận này của Hội Thánh Bạch Y
Liên Đoàn Chơn Lý sẽ không bao quát toàn thể vấn đề văn hóa Cao Đài hay văn hóa
đạo đức dân tộc. Trái lại, bài tham luận này chỉ khai thác đề tài trong bối
cảnh riêng của Hội Thánh Bạch Y.
Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý là một bộ phận của
toàn thể đại cộng đồng Cao Đài (tức Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ). Mỗi một Hội Thánh
Cao Đài hầu như đều có ít nhất một bửu kinh riêng cho mình. Do đó, vào giữa
thập niên 30 của thế kỷ trước, Hội Thánh Bạch Y rất hữu hạnh khi được Đức Chí
Tôn ban cho bửu kinh NGỌC ĐẾ CHƠN TRUYỀN
TÂN ƯỚC TRI NGUYÊN. Cuối năm 2014, Hội Thánh Bạch Y đã có đủ thiện duyên chánh
thức in lại bửu kinh này, đáp ứng nhu cầu của đông đảo chức sắc, chức việc, tín
hữu thuộc Hội Thánh Bạch Y.[1]
Sau đây, căn cứ trên bửu kinh riêng của mình, Hội Thánh
Bạch Y thử phác họa mấy nét để đóng góp bước đầu vào công việc nghiên cứu chung
của Đại Đạo.
1. Truyền thống Tam
Giáo của người Việt được đạo Cao Đài phát huy
Các nhà nghiên cứu tôn giáo trước đây quen gọi Cao Đài là
“tôn giáo bản địa”, ngày nay thường gọi là “tôn giáo nội sinh”. Sở dĩ có hai
tên gọi như thế là nhằm phân định rõ nguồn gốc của nền tân giáo Cao Đài vốn
không phải do nước ngoài du nhập vào Việt Nam như các tôn giáo khác (Nho,
Thích, Lão, Thiên Chúa, Tin Lành, Islam, Bà La Môn, v.v…) đang có mặt tại nước
Nam.
Thật vậy, đạo Cao Đài là một nền tôn giáo mới, đã ra đời
tại Việt Nam là một đất nước nằm ở ngã tư giao thoa các nền văn minh trong khu vực Đông Nam Á; thế nên từ xưa Việt Nam đã sớm trở thành nơi hội tụ các luồng văn hóa Đông Tây bao gồm các tôn giáo và tín ngưỡng, trong
đó chủ yếu là nền tảng Nho, Thích, Lão (Tam Giáo) đã có sẵn từ lâu đời, trong
lịch sử dân tộc đã từng là ý thức hệ chủ đạo của nhiều vương triều Đại Việt.
Nền tảng Tam Giáo sẵn có này ví như mảnh ruộng thích hợp
để chính Đức Thượng Đế gieo xuống hạt giống Cao Đài, nhờ đó hạt giống thiêng
liêng càng dễ dàng nẩy mầm, đâm tược và phát triển thành cội cây to và cao với
tàn lá sum sê.
Xác định mối tương quan khăng khít giữa Tam Giáo và Cao
Đài như vậy để hiểu vì sao nền tôn giáo mới Kỳ Ba này luôn luôn nhắc tới yếu tố
Tam Giáo. Chẳng hạn, trong nghi thức mở đầu cúng kiếng hàng ngày, bài Khai Kinh (Kinh Nhựt Thời) của Hội Thánh
Bạch Y liền nhắc tới Tam Giáo:
Lão Quân Đạo Tổ Đẩu Cung
Ra tay dẫn độ dày
công giúp đời
Trong Tam Giáo có lời
khuyến dạy
Gốc bởi lòng làm phải
làm lành
Trung dung Khổng
Thánh chỉ rành
Từ bi Phật dặn: lòng
thành lòng nhơn
Phép Tiên Đạo: tu
chơn dưỡng tánh
Một cội sanh ba nhánh
in nhau…[2]
Điều cần lưu ý là: Tam Giáo trong Cao Đài không phải là
ba giáo lý rời rạc, đối chọi nhau; trái lại, Tam Giáo trong Cao Đài được phát
huy để luôn luôn là một thể thống nhất, hòa hài. Đó là lý do chỉ riêng trong
Cao Đài mới có Hội Công Đồng Tam Giáo
hay Tòa Tam Giáo, v.v...
2. Tín ngưỡng thờ
Trời của người Việt được đạo Cao Đài phát huy
Không phải chỉ có Tam Giáo, người Việt từ xa xưa đã sẵn
có tín ngưỡng thờ Trời, tin rằng con người có mặt ở thế gian là do Trời sinh ra:
Con chim nó hót trên
cành
Nếu Trời không có, có
mình làm sao?
Con chim nó hót trên
cao
Nếu Trời không có,
làm sao có mình?
(Ca dao)
Người Việt cũng tin rằng Trời sinh, Trời dưỡng; thế nên, sống với nền văn minh lúa nước, nông
dân Việt Nam tin tưởng có Trời bảo hộ cho cuộc mưu sinh của mình:
Lạy Trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm…
(Ca dao)
Trời cũng che chở cho con người những lúc tai ương, hoạn
nạn:
Nghiêng vai ngửa vái van
Trời
Trong cơn hoạn nạn độ
người trầm luân.
(Ca dao)
Trời là chỗ gần gũi để người con hiếu thảo cầu xin tuổi
thọ cho cha mẹ:
Mỗi đêm mỗi thắp đèn
Trời
Cầu cho cha mẹ sống
đời với con.
(Ca dao)
Lòng tin Trời đó còn là chỗ dựa cho một dân tộc trong
công cuộc trường kỳ chiến đấu bảo vệ non sông đất nước trước mọi thế lực chia
phân, thôn tính:
Nước non là nước non
Trời
Ai chia được nước, ai
dời được non!
(Ca dao)
Tuy người Việt sẵn có tín ngưỡng thờ Trời, nhưng phải đợi
đến khi đạo Cao Đài ra đời thì tín ngưỡng đó mới được xây dựng và cụ thể hóa
thành cơ cấu bao gồm nghi thức đầy đủ quy củ, kinh điển và giáo lý phong phú,
ngôi thờ tôn kính trang nghiêm… Nói cách khác, thay vì chỉ có một tín ngưỡng
thờ Trời bàng bạc trong tâm linh và đời sống, khi đạo Cao Đài xuất hiện, hình
thành thì người Việt đã có hẳn một thiết
chế tôn giáo thờ Trời.
Khi mang đến đạo thờ Trời, tôn giáo Cao Đài cho thấy một ý thức hệ mà trong đó cần chú ý ba điểm
chánh như sau:
(a) Bình đẳng:
Mọi người đều là con của Trời, con một Cha Trời, do đó tất cả bình đẳng và phải
biết thương yêu nhau, thành thật giúp đỡ nhau.
Sau khi nhập môn (khai
tánh), người tín đồ Bạch Y được dạy như sau:
“Hễ thọ giáo một Thầy
thì cũng như con một Cha, phải thương yêu nhau, liên lạc nhau, giúp đỡ nhau,
lấy lòng thành thật mà đối đãi nhau, dìu dắt nhau trong đường đạo và đường
đời.” [3]
Sự bình đẳng đó còn thể hiện trong khi cúng thời hàng
ngày. “Kỷ luật Cao Đài”, mục “Tiểu đàn nơi gia” của Hội Thánh Bạch Y quy định:
“Còn bạn bè tôi tớ trong nhà, kẻ nào có Đạo thì đặng phép quỳ
chung với chủ mà đọc kinh xưng tội. Ở ngoài thì tôi tớ, còn vô quỳ đọc kinh thì
con một Cha cùng nhau một máu mủ, anh em thân ái đó.” [4]
(b) Hòa đồng tôn
giáo: Người tín đồ Cao Đài kính trọng các tôn giáo khác như chính tôn giáo
mình, bởi lẽ được dạy rằng các tôn giáo thế gian đều do Trời lập ra:
Tam lục thiên, mối
giềng Cha nắm
Có ai ngoài cho đặng
quyền Thầy
Khắp miền Nam Bắc Đông
Tây
Nơi nào cũng có một
Thầy Chủ Ông
Tính chi nhiều việc
lòng vòng
Phật Tiên Thần Thánh
cũng trong tay Thầy.[5]
(c) Đại đồng nhân
loại: Người tín đồ Cao Đài không phân biệt màu da sắc tóc, vì được dạy rằng
nhân loại năm châu bốn biển đều từ một Đấng Cha Trời sanh hóa:
Thầy mở Đạo, Nam phương là
gốc
Dạy các con chủng tộc
thương nhau
Năm châu một thể đồng
bào
Dầu người khác giống
cũng nhau rún mình
Cầu cho tránh sự đao
binh
Cầu cho thiên hạ thái
bình muôn năm.[6]
Ba điểm chánh yếu này rất ý nghĩa, bởi vì trong thời hạ
nguơn mạt kiếp, nhân loại đấu tranh khốc liệt chủ yếu chỉ vì tham dục quyền lợi
bất bình đẳng, kỳ thị sắc tộc và kỳ thị tín ngưỡng. Cứu chữa cho thời hạ nguơn,
đem lại cho nhân loại đời thượng nguơn thánh đức như đạo Cao Đài chủ trương, ắt
hẳn không thể thiếu ba yếu tố bình đẳng, hòa đồng tôn giáo, và đại đồng nhân
loại.
3. Tình đồng bào
trong tình đồng đạo
Cái nôi của đạo Cao Đài chính là Nam Kỳ. Thế nên, ngoài
yếu tố về ý thức hệ như nói trên, còn có yếu tố thiên nhiên bản địa Nam Kỳ. Quả
vậy, trong khoảng ba trăm năm từ lúc người Việt mở đất phương Nam cho tới những năm đầu thế kỷ Hai
Mươi là thời điểm chuẩn bị cho đạo Cao Đài xuất hiện vào năm 1926, đất Nam Kỳ đã
tập hợp nhiều dân tộc khác nhau từ các nơi tìm tới, quy tụ để khai hoang lập ấp
mưu sinh trong hoàn cảnh thiên nhiên khắc nghiệt, như lời ăn tiếng nói dân gian
miền Nam còn lưu giữ từ buổi đó tới ngày nay như sau:
- Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lội tợ bánh canh.
- Cỏ mọc thành tinh, rắn đồng biết gáy.
- Tới đây nước mặn đồng chua, / Hổ mây, cá sấu
thi đua vẫy vùng.
- Chèo ghe sợ sấu cắn chưn, / Xuống sông sợ đỉa,
lên rừng sợ ma.
Chính môi
trường thiên nhiên khắc nghiệt như nói trên đã khiến cho những con người Nam
Kỳ sớm
biết gầy dựng tình đoàn kết tương
thân tương trợ trong cuộc sống, vượt qua những rào cản về sắc
tộc, ngôn ngữ, tín ngưỡng, phong tục tập quán… Bởi vậy, người dân Nam Kỳ vốn có
lòng hiếu khách, bao dung, nhân ái, hào sảng và trọng nghĩa khinh tài. Phản ánh
tính cách này, ca dao Nam Kỳ còn truyền lại những câu tiêu biểu như sau:
Nước sông trong sao cứ đục hoài
Thương người xa xứ lạc loài đến đây
Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh cây thì về.
Tinh thần
tương thân tương trợ đó, cách sống chia ngọt sẻ bùi, đồng cam cộng khổ từ buổi
phá rừng mở nước của tiền nhân Nam Kỳ đã được kế thừa, nuôi dưỡng và phát huy
trong đời sống bình thường của tín đồ đạo Cao Đài.
“… phải giữ dây tương thân, tương ái, giàu giúp
khó, kẻ mạnh giúp người đau, anh thương em, sang hèn chớ nệ, đói rách khá nhìn,
giúp người lỡ bước, thương kẻ cô thân, hoạn nạn tương cứu, khốn cùng trợ
nghĩa.” [7]
Hơn thế nữa,
thay vì để cho con người tự giác tùy theo ý muốn mà thực hành hay không thực
hành nghĩa cử tương thân tương trợ, đạo Cao Đài lại đưa đức tính này trở thành quy
tắc, luật lệ có tính bắt buộc phải thực hiện. Do đó, trong Hội Thánh Bạch Y,
sau khi “khai tánh” để trở thành tín đồ Cao Đài thì người đạo hữu phải thi hành
những điều như sau:
“3. Mỗi tháng hai kỳ sóc vọng, ngày rằm và ba
mươi, phải có mặt tại Tòa Thánh, hoặc thánh thất mà nghe trong Hội Thánh bàn
tính các việc và liên lạc anh em, chị em cùng nhau, lúc hữu sự phải hết lòng
giúp đỡ tấn thối (…).
4. Trong gia quyến có xảy ra việc chi mà mình
không thế lo đặng thì cho chức sắc hoặc anh em trong bổn đạo hay đặng chung lo,
chuyện người như chuyện mình.” [8]
“5. Nhứt là tang sự, hôn nhơn, sanh sản, cùng đau
ốm, các việc gấp rút phải lập tức cho người làm đầu trong Đạo hay và anh em lân
cận được biết. Ở cách xa Hội Thánh mà nghèo khổ thì phải đem đến Hội Thánh, khi
đến Hội Thánh phải có người trong thân theo kẻ đau, thì trong Hội Thánh sẽ giúp
đỡ theo cách từ thiện.
10. Đối với hàng đạo hữu, phải nuôi nấng cái tình
thù tạc với nhau, cho khắng khít cái dây liên lạc.
“12. Trong bổn đạo, có người mãn phần quy vị, thì
chư tín đồ phải chung cùng đến giúp, và chia buồn cùng tang chủ. (Mỗi họ cũng
nên lập nghĩa địa riêng.)” [10]
Tinh thần
tương trợ trong lúc có người qua đời như dẫn trên là một nét văn hóa của người
Việt, đã có từ rất xa xưa, vì trong sách Lĩnh
Nam Chích Quái của tổ tiên chúng ta khi chép về phong tục đời Hồng Bàng cho
biết rằng “có người chết thì giã cối làm
lệnh để người lân cận nghe tiếng đến cứu.”
Để tương thân
tương trợ được hiệu quả, còn phải biết ý thức tiết kiệm để có phương tiện vật
chất mà cứu giúp lẫn nhau. Thật vậy, tiền nhân người Nam Kỳ là những con người
tha phương tìm cuộc sống mới. Các nhà nghiên cứu từng gọi họ là “lưu dân”. Cuộc
sống khắc khổ, thiếu thốn của lưu dân ngày xưa trên vùng đất mới phương Nam buộc họ
phải biết tằn tiện, tiết kiệm. Đức tính này được xem là đạo lý phù hợp lẽ Trời
(Thiên lý), cho nên ca dao có câu:
Làm người nên biết tiện tằn
Đồ ăn thức mặc có ngằn thì thôi
Những người đói rách rạc rời
Bởi phụ của Trời, làm chẳng có ăn.
Đạo Cao Đài
ra đời trong hoàn cảnh đất nước loạn lạc, tín đồ phần lớn là người bình dân
nghèo khổ, thiếu thốn rất cần phải tằn tiện đã đành, mà những tín đồ dư giả,
sung túc lại càng nên ý thức tiết kiệm để còn góp phần chia sẻ những thiệt thòi
của đồng bào, đạo hữu thiếu thốn. Cho nên đức tính cần kiệm của dân tộc cũng
được nâng lên thành luật lệ trong đạo Cao Đài để mang tính bắt buộc thi hành.
Chẳng hạn, quy định tiết kiệm trong tang lễ:
“Trong việc tống chung không nên xa xỉ, không nên
để lâu ngày, không nên dùng đồ âm công có màu sắc lòe loẹt, chỉ dùng toàn đồ
trắng, không nên đãi đằng rần rộ, mà mất sự nghiêm tịnh và mất dấu ai bi.” [11]
4. Tạm kết
Như đã nêu trong lời mở đầu, bài tham luận này chỉ mới
khái quát ba nét lớn trong mối tương quan giữa văn hóa Cao Đài và văn hóa đạo
đức dân tộc, và minh họa bằng các dẫn chứng trích trong Ngọc Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên của Hội Thánh Bạch Y Liên
Đoàn Chơn Lý. Như thế, bài tham luận này thật sự chỉ mới khơi gợi chút ít mỏng
manh trong toàn thể nội dung rộng lớn của văn hóa Cao Đài và văn hóa đạo đức
dân tộc. Chúng ta tin tưởng rằng, trong thời gian tới đây, chúng ta sẽ còn có
thêm nhiều cơ hội nữa để tiếp tục khai thác đề tài rất ý nghĩa, và rất quan
trọng này.
HỘI THÁNH BẠCH Y
[1] Hội Thánh Bạch Y Liên Đoàn Chơn Lý: Ngọc Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên.
Hà Nội: Nxb Tôn Giáo 2014, dày 680 trang (bìa cứng).
[2] Ngọc
Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên, tr. 46.
[3] Ngọc
Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên, tr. 220.
[4] Ngọc
Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên, tr. 41.
[5] Ngọc
Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên, tr. 567.
[6] Ngọc
Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên, tr. 635.
[7] Ngọc
Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên, tr. 8.
[8] Ngọc
Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên, tr. 219.
[9] Ngọc
Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên, tr. 220.
[10] Ngọc
Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên, tr. 221.
[11] Ngọc
Đế Chơn Truyền Tân Ước Tri Nguyên, tr. 221.
Các giá trị đạo đức, một nền văn hóa và một tôn
giáo, duy trì những giá trị này thì còn tốt hơn nhiều so với luật lệ và quy
chế.
Moral values, and a
culture and a religion, maintaining these values are far better than laws and
regulations.
Đại sư SIVANANDA (Ấn Độ, 1887-1963)
|