Thánh tịnh
Thanh Quang, ngày 01-01 Mậu Dần
(Thứ Hai 31-01-1938)
THI
Thời
tiết tam dương lộ vẻ Xuân
Trăm
hoa hớn hở sắc đua mừng
Trẻ
già tấp nập đoàn năm bảy
Cái
cuộc mừng Xuân ấy cuộc chung.
VĂN XƯƠNG ĐẾ QUÂN
Lão
phụng thừa Thiên mạng khai bút nghinh Xuân. Cười... Lão rất hân hạnh, rất vui
mừng cùng toàn thể sanh linh, đứng vào thời kỳ tam nguơn mạt hậu này mà còn
biết Xuân, vui Xuân, thú Xuân.
THI
Xuân
thử kêu ai, thử hỏi Xuân
Hỏi
Xuân, Xuân lộ cái chi buồn?
Xuân
cười, Xuân cợt, Xuân là thú
Xuân
mãi rồi Xuân, cũng đến Xuân.
Khá tiếp. Ta lui.
TIẾP ĐIỂN
THI
Chộn rộn
người đi, kẻ lại về,
Này ai! Ai
có biết Xuân tê?
Xuân rồi,
Xuân cũng, thôi Xuân đã
Đã biết
Xuân, người thấy mỏi mê
Mỏi mê, mê
mỏi cái trò Xuân
Xuân biết
là vui, chẳng biết buồn
Xuân dễ
đổi thay, người cảnh cũ
Xuân trời,
người cũng phải là Xuân.
NGỌC ĐẢNH CHƠN NHƠN
THI
Đàn nội
trầm nhang khá đốt xông
Nữ, nam
bái mạng tiếp xe rồng
Mừng xuân
mới biết, xuân nay đến
TỪ PHỤ giá
lâm có biết không?
BẠCH HẠC ĐỒNG TỬ
Chào chư hướng
đạo, các nhơn sanh đàn tiền. Nghiêm chỉnh thành tâm tịnh đàn tiếp giá Chí Tôn
nghe.
TIẾP ĐIỂN
NGỌC HOÀNG THƯỢNG ĐẾ
tá danh CAO ĐÀI TIÊN ÔNG
ĐẠI BỒ TÁT MA HA TÁT giáo đạo Trung Châu
THẦY CÁC CON
Thầy mừng các con.
THI
TỪ PHỤ từ
nay dạ rất mừng
Mừng con,
con biết, biết mừng Xuân
Cái Xuân
là cái mua lòng trẻ
Trẻ biết
là Xuân, thú hưởng đồng.
Thầy cho phép các con an tọa. Ban ơn cả thảy nam nữ.
Giờ nầy,
ngày nầy là cái Xuân mới, cái Xuân lạ của các con, thế mà đối lại cái Đông tàn,
cái buồn nhất của Thầy. Cười... Không đâu, thế mà Thầy vẫn vui, vui chia cùng
các con. Các con không buồn thì Thầy có buồn gì. Vui, vui chia cùng các con.
Xuân năm
mới, ngày mới, mỗi mỗi đều mới, cỏ cây thạnh mậu, khí tiết êm đềm, các con vui,
các con mừng là phải. Còn Thầy sở dĩ buồn, vì Xuân là một dương quang sáng suốt
như ban mai, như mặt trời mới mọc, như các con lúc trẻ, thế mà rồi đây, ngày nó
cũng trưa, mặt trời nó cũng xế, các con cũng già.
Ngày trưa
rồi còn làm chi? Sĩ lỡ lớp học, nông lỡ buổi cày, công mất ngày làm, thương mất
buổi chợ. Trời xế khí hừng nóng nảy, người phải sinh bệnh, vật phải điêu tàn,
người già sức yếu, da dùn, mặt nhăn, má tóp, thế thì những cảnh ngộ ấy còn đợi
gì, trông gì nữa con!
Thầy buồn
là lo cho các con gặp Xuân, mừng Xuân, quên rằng cái Xuân nó sẽ đi bây giờ, nó
lại bội với các con bây giờ. Nếu các con không sớm lo, sớm biết tìm lần cái
Xuân của mùa Hạ, mùa Đông, chừng gặp phải cảnh ấy sao các con khỏi chắt lưỡi
kêu Thầy. Thầy làm sao nữa?
Thầy dắt,
các con trì. Thầy đỡ, các con quá nặng. Không lên được nấc thang tuyệt đối là
không Xuân, Hạ, Thu, Đông mà Xuân luôn, Hạ luôn, Thu luôn, Đông luôn. Cười... thế
thì Thầy nhơn trong cái vui của các con, mà chỉ cái buồn của Thầy cho các con
biết, các con hay, chớ rồi Thầy vui với các con buổi nầy, nghe à! Cười...
THI
Xuân trẻ
mừng vui đó các con
Xuân sao
mỗi đứa, mỗi lo tròn
Xuân về,
Xuân ở, Xuân về ở
Ở cõi trần gian khổ lắm con.
Cười... Lần nầy THẦY ban ơn cho các con hướng
đạo. còn toàn thể nam nữ thì mỗi mỗi có sẵn phần.
Các con nầy, HIỂN, CHẤT, TRÁC, KHAI, SƠ,
BAN, LONG, HỔ, GIÁC, các con!
Từ Thầy sáng
lập chơn đạo Trung Hưng đến nay, Thầy chưa có
một lúc nào nói đến chỗ Thiên cơ tuyệt đối cho các con rõ. Thế hôm nay Thầy rất vui mà nhắc lại ngày qua nơi Tiên Cung
cho các con nhớ lại, các con làm bê trễ, các con làm sai quấy với luật Thiên
điều, đặng các con lo mà hành sự.
Trước khi lập Đạo, THẦY hội cả quần Tiên:
Phật, Tiên, Thánh, Thần, để chọn những chơn linh ban xuống thế gian mà truyền đạo.
Số đó cũng có một phần lớn trong các con mà không thể chỉ được. THẦY nói những
con, một là đặng ban xuống, hai là vì chuyển kiếp mà phải lập công, bao nhiêu
đại nguyện, trước Tòa phán đoán đều có Văn Xương chép cả. Sau khi cho những
chơn linh kia đến thế gian, thì mỗi con đều có một luồng Thiên điển của chư Tiên
đưa đến mới có thể nhập thế gian đặng.
THẦY kể thứ nhất là con HIỂN đại nguyện với
THẦY cho ở thế gian mà lập công rất lớn lao, đặng đền bù trách phạt, ngày nào
xong phận sự THẦY sẽ cho về mới đặng huờn nguyên bổn vị, dầu cho khó khăn hay
cực nhọc đến mấy con cũng không từ. THẦY nhận lời, kế cậy hào quang Trương Quả
Lão mà đưa cho con đi. Cười... Thế thì con là gì? Vẫn tánh hay rụt rè, không
quyết đoán, gặp đâu hay đó. Hôm nay THẦY nhớ lại mà đòi con đặng lập thân mà
hành đạo. Các con, THẦY nhắc lại.
TRÁC, con thỉnh thoảng còn nhớ lại mường
tượng nơi tâm rằng đại nguyện xin đến thế gian giao bản tánh linh này cho nhơn
loại để tìm tòi cho nhơn sinh một con đường hạnh phúc hơn. Song mà con xin nhờ
THẦY cho người theo nhắc nhở. Cười... THẦY truyền hào quang Nguơn Thỉ đưa đi,
hôm nay vì vậy mà THẦY đòi con phải nhớ lại. Con hiểu à.
CHẤT, con xin đến thế gian sẽ đem tư mạng
làm công mạng, bao giờ cũng chỉ biết nhơn sanh mà thôi. Con xin lập cho nhơn
sanh một cơ nghiệp rồi con sẽ về, nhờ THẦY cho người mặc hộ, nói rồi hào quang
Quan Thánh Đế Quân đưa đi, thì chắc con bao giờ cũng có nghĩ như một việc gì
nơi tâm cắn rứt. Cười... Đó là phận sự con chưa rồi.
KHAI, cười... con xin THẦY rằng con đến thế
gian tùy THẦY bảo chi con làm nấy, rồi phận sự con sẽ về, tánh con hay quên,
nhờ THẦY cho người nhắc nhở, nói rồi hào quang Đông Phương Lão Tổ đưa đi. KHAI
con có nhớ những lúc buồn hay thối chí của con, con sực nhớ lại mà ăn năn rất
khó chịu, là thần quang của con nó tự phạt. Cười...
BAN, con xin rằng con chỉ biết một chơn
linh này của THẦY mà liệu dụng của nhơn sanh, con nguyện sẽ tùy theo cơ hội mà
lập công, con chẳng có tài cán chi để gánh vác một phận sự lớn lao, xin THẦY
biết cho con, nói rồi Nam Cực Tiên Ông đưa đi.
SƠ, con nguyện sẽ gặp việc gì vừa ý con,
con xin vâng chịu. THẦY hỏi: “Việc thế nhiều, mà con nói lở dở sao được?”
Thưa rằng: “Con chỉ biết tùy nghiệp khai
hóa, chớ không biết sáng nghiệp lập cơ, xin THẦY giao phận sự con với một người
nữa.” Cười... Nói rồi Khương Thượng Tử Nha đưa đi. SƠ chừng khi nóng lòng căm
tức. Đó là thần quang nó tự phạt con.
LONG, con nguyện xin THẦY cho đến thế gian
làm một phận sự bí nhiệm hơn hết. Con nguyện xin một điều là bao giờ con cũng
làm cho rồi chánh sách của Đại Đạo mà THẦY định đó. Chừng xong con sẽ ẩn danh
hay là THẦY cho con về, chớ không muốn lập một sự nghiệp gì ở thế gian, xin
THẦY cho người kềm chế tính dục tốc của con. Nói rồi Lý Thái Bạch liền đưa đi.
LONG, nên nhớ những tánh con và ý con hằng ngày là do nguơn thần hiển hiện đó.
THẦY y lời. Con nên bảo TRÁC làm anh con đó nghe à.
HỔ, bổn kiến con nguyện xin để đến thời kỳ
THẦY đến thế gian giáo đạo, các con cái bạn bè, kẻ xin xuống, người bị trích,
người bị mãn căn cũng đều đi đặng, con cũng xin THẦY đến trước, chờ THẦY sai
cắt phận sự. Cười... Nói rồi Hớn Chung Ly đưa đi. Cưòi... Các con nghe chưa?
THẦY có dặn, nếu không nghe lời thì phải đọa ba kiếp đó con.
Vì lẽ, con nào trúng vào điển quang nào thì
tâm tánh hơi giống như vị Tiên ấy, các con nhớ, nghe à! Cười... Vậy thì ý kiến
mỗi con khác nhau là lý nhất định, có chi lạ mà chích mích nhau, con à! Cười...
GIÁC, con cũng một phận sự như nam [phái] vậy,
con về phần Thất Nương tiến dẫn.
Vậy mỗi con biết có một chơn thần hộ mệnh.
Cười... Hôm nay các con đã rõ rồi phải không?
THI
Nhân cái cảnh Xuân đến trước đàn
Xuân vui con trẻ hỏi cùng han
Hỏi han lời lẽ con hay biết
Biết hết Xuân rồi, Hạ cũng
sang.
BÀI
Sang Hạ cảnh trời thêm nóng nảy
Xuân này Xuân, Xuân hãy mua vui
Xuân sang vật thảy đổi dời
Xuân chào Thánh Đạo ra đời Kỳ Ba.
Xuân tươi tốt, Xuân đà đẹp đẽ
Xuân mở mang, Xuân vẻ vang thay
Xuân đêm cũng sáng như ngày
Xuân trời cao vọi, đất dày tăm tăm.
Xuân vừa đến, hỏi thăm Xuân thử
Xuân vừa qua, hỏi thử Xuân gì?
Xuân nầy, Xuân ở hay đi,
Xuân ơi, Xuân có ghét gì ai không?
Xuân là Xuân, Xuân đồng Tạo Hóa
Xuân là Xuân, Xuân chả riêng ai
Xuân ơi, Xuân vắn hay dài
Xuân ơi, Xuân có biết ai đợi kìa?
Xuân Xuân hiệp, hiệp chia, chia
hiệp
Xuân Xuân căn, căn kiếp, kiếp
xuân
Xuân vui Thầy lại riêng buồn
Xuân kìa, Xuân biết, Xuân cuồng, Xuân điên.
Ban ơn
chung các con. Thầy thăng.
SUY NIỆM 1
Đây là một thánh giáo rất đặc biệt
vào ngày Nguyên Đán năm Mậu Dần (1938), khi Đức Chí Tôn từ bi ban hồng ân cho
các bậc đại nguyên căn hướng đạo Trung Kỳ. (Thánh giáo này trích từ Thánh Truyền Trung Hưng.)
Thầy dạy: “Trước khi lập Đạo, THẦY hội
cả quần Tiên: Phật, Tiên, Thánh, Thần, để chọn
những chơn linh ban xuống thế gian mà truyền đạo. Số đó cũng có một phần
lớn trong các con mà không thể chỉ được.”
Thầy nhắc nhở chúng ta nhớ, những hàng hướng đạo Kỳ Ba vốn là các vị thiêng
liêng đã từ cõi thượng giới đi xuống chốn trần gian để giúp Thầy mở Đạo. Trong
số các vị đang hầu đàn hôm xưa đó, phần lớn vốn là các đại nguyên căn như thế,
nhưng vì Thiên cơ, Thầy không tiện nêu danh (chỉ rõ) ra hết tất cả, nên Thầy bảo:
“Số đó cũng có một phần
lớn trong các con mà không thể chỉ được.”
Thầy từ bi gọi tên lần lượt tám vị nam và duy nhất một vị nữ. Thầy lại
ban ơn cho biết rằng khi chơn linh chín vị tiền bối ấy đi vào trần gian thì Thầy
đều phái một Đấng thiêng liêng cao trọng khác đưa đi (dẫn lối). Đó cũng là Đấng
bảo hộ cho mỗi vị tiền bối trên đường hành đạo.
Theo thứ tự lời Thầy điểm danh từng vị tiền bối khai Đạo miền Trung, chúng
ta lần lượt kể ra như sau:
1. Tiền bối LÊ TRÍ HIỂN (1879-1943),
do Đức TRƯƠNG QUẢ LÃO (trong Bát Tiên) đưa đi.
2. Tiền bối HUỲNH NGỌC TRÁC
(1898-1945), do Đức NGUƠN THỈ THIÊN TÔN đưa đi.
3. Tiền bối TRẦN NGUYÊN CHẤT (1893-1950),
do Đức QUAN THÁNH ĐẾ QUÂN đưa đi.
4. Tiền bối CHƠN KHAI Nguyễn
Quang Châu (1912-1955), do Đức ĐÔNG PHƯƠNG LÃO TỔ đưa đi.
5. Tiền bối TRẦN CÔNG BAN (1906-1977),
do Đức NAM CỰC TIÊN ÔNG đưa đi.
6. Tiền bối NHƯ SƠ Nguyễn Đán
(1905-1958), do Đức KHƯƠNG THƯỢNG TỬ NHA đưa đi.
7. Tiền bối THANH LONG Lương Vĩnh
Thuật (1918-1982), do Đức LÝ THÁI BẠCH đưa đi.
8. Tiền bối BẠCH HỔ Trần Quang
Châu (1915-2000), do Đức HỚN CHUNG LY (trong Bát Tiên) đưa đi.
9. Tiền bối CHƠN GIÁC Lê Thị Khải (1885-1945),[1]
do Đức THẤT NƯƠNG DIÊU TRÌ CUNG tiến dẫn.
SUY NIỆM 2
Đức Vạn Hạnh Thiền Sư có lần đặt cho chúng ta hai câu hỏi cực kỳ hệ trọng.
Trước hết, Ngài hỏi:
“Thời kỳ này Đức Huyền
Khung Thượng Đế tá danh Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát đến với nhân loại bằng chiếc đàn không dây, bằng chiếc địch không lỗ để tái tạo dinh
hoàn lập thượng nguơn thánh đức. Chỉ có một Thiên Nhãn trong sự sùng bái của
dân tộc này dưới bảng hiệu Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ. Như vậy thì tất cả những
người Thiên ân chức sắc, tín đồ, đạo hữu nhắm
vào hình thức nào, ảnh hưởng nào, để biết được Đấng mà chư Thiên ân chức sắc,
tín đồ, đạo hữu đặt niềm tin trọn vẹn với bao sự hy sinh cao cả từ buổi sơ
khai?” [2]
Quả thực, so với các tôn giáo khác, dường như chúng ta thiếu
một cơ sở cụ thể để nhìn vào mà tin tưởng, ngoại trừ một biểu tượng đơn sơ. Về
biểu tượng ấy, Đức Vạn Hạnh Thiền Sư dạy:
“Trước Con Mắt được họa
lên bằng giấy bút, không đem đến cho
nhân loại chúng sinh một gương mẫu giá trị nào cụ thể như Thích Ca Phật Tổ,
như Khổng Thánh Tiên Sư, như Da Tô Giáo Chủ, chư Thiên ân chức sắc, tín đồ, đạo hữu vin vào lý do nào để đặt trọn
niềm tin hiện tại mà quên mình hành đạo?” [3]
Tại sao hai câu hỏi này cực kỳ hệ trọng? Trong Lòng Con Tin Đấng Cao Đài, tác giả đã trình
bày như sau:
“Chúng ta hãy suy nghĩ,
nếu muốn theo đạo Phật, chúng ta có cả hình ông Phật phương phi tốt đẹp, có ba
mươi hai tướng tốt, có cả lịch sử của Đức Phật từ lúc là Thái Tử Sĩ Đạt Ta (Siddhata)
đi qua bốn cửa hoàng thành thấy đủ tứ khổ (sanh lão bệnh tử), cho đến khi nửa
đêm bỏ hoàng cung đi tu, v.v... Như vậy chúng ta có thể thấy được chân dung của
Đức Phật, biết được tiểu sử của Đức Phật, hạnh hy sinh của Đức Phật để mình học
theo, tu theo.
Nếu chúng ta muốn theo
Khổng Giáo, chúng ta có thể biết rõ Đức Khổng Tử đã mòn gót đi khắp thiên hạ để
dạy người ta nhân nghĩa, thấy được cái hạnh cả một đời hy sinh của Ngài, thấy
được tấm gương vạn thế của Ngài và thấy được chân dung của Ngài.
Nếu chúng ta đọc Kinh
Thánh, tìm hiểu đạo Thiên Chúa, chúng ta có thể thấy được gương hy sinh đổ máu
để chuộc tội cho nhơn loài của Chúa Ki Tô. Chúng ta thấy rõ hình ảnh Ngài bị
đóng đinh trên thập tự giá khiến chúng ta rơi lệ và chúng ta có cả tiểu sử của Ngài
để học tập theo Ngài suốt cuộc đời.
Vậy chứ chúng ta theo đạo
Cao Đài có ai thấy mặt Đức Cao Đài ra sao không? Có ai biết được tiểu sử của
Đức Cao Đài không? Không! Chúng ta không hề thấy gương mặt ông Trời, không hề
biết cuộc đời của Trời… Vậy mà bao nhiêu triệu người đùng một cái ồ ạt đi theo
Đức Cao Đài. Cái gì vậy? Cái gì đã khiến xảy ra một chuyện ngộ như vậy?” [4] Và hơn nữa, cái gì đã khiến biết bao
người con áo trắng hiên ngang tử đạo để giữ tròn khí tiết Cao Đài?
Qua thánh giáo ngày Nguyên Đán năm Mậu Dần (1938), Đức Chí Tôn hé lộ cho
chúng ta biết: Sở dĩ chưa ai thấy mặt ông Trời, chẳng một ai biết “tiểu sử” hay
“hành trạng” của ông Trời mà lại một lòng một dạ đi theo Đạo Trời thì chỉ vì những
người ấy vốn đã có lời nguyện với Trời từ kiếp trước. Những ai từ khi vào Đạo,
hết lòng xả thân hành đạo, vun đắp cho cơ Đạo, thì chỉ vì những người ấy vốn đã
là đại nguyên căn từ thượng giới, đã xin lệnh Trời mà xuống trần giúp Thầy khai
Đạo, hoằng Đạo Kỳ Ba.
Ngày hôm nay, chúng ta được khoác lên người tà áo trắng Cao Đài, tức là đã
có thiện duyên với Cao Đài từ tiền kiếp. Chúng ta tuy chưa được ơn Thầy hé lộ
cho biết xưa kia chúng ta đã từng là ai trên cõi thiên thượng, chưa biết Đấng nào
đã đưa ta vào hạ giới trần gian (như chín vị tiền bối miền Trung), nhưng cứ hãy
tin chắc rằng chẳng phải tình cờ mà hôm nay chúng ta được làm môn đệ Cao Đài.
Ý thức như thế, trong từng cương vị và vai trò của mỗi người, ước mong
sao tín hữu chúng ta luôn luôn nhớ nghĩ về lời đại nguyện của mình trước Đức Chí
Tôn khi xưa, để ngày hôm nay dốc trọn năng lực của mình mà hết lòng chăm lo cho
cơ Đạo được sớm xiển dương. Và hãy nghĩ tới cái ngày chúng ta sẽ trở về quỳ trước
bệ Thầy, khi ấy coi lại những gì mình đã góp nhóp cho cơ Đạo ở trần gian, liệu
mỗi người có tròn vẹn lời nguyện hứa với Thầy trước khi chia tay với Thầy mà đi
vào ta bà thế giới?
Mùa Xuân này, xin cầu nguyện cho nhau sẽ không lỗi thệ cùng Thầy.
VĂN UYỂN