Khi một tôn giáo mới mẻ được du
nhập vào một quốc gia thì ít nhiều sẽ phát sinh xung đột với một tôn giáo bản
địa. Đó là trường hợp của Phật Giáo trong giai đoạn bản địa hóa (localization) tại Trung Quốc. Tây Thăng Kinh và Hóa Hồ Kinh là hai tác phẩm của Đạo Giáo Trung Quốc nhằm tự đề
cao tôn giáo mình, cho rằng Đức Lão Tử sau khi truyền bộ Đạo Đức Kinh cho quan lệnh Doãn Hỷ trấn giữ ải Hàm Cốc thì Ngài
đã cỡi trâu đi sang hướng Tây để hóa độ người Hồ (tức người Ấn Độ) và đã truyền
đạo cho Phật Thích Ca và hai mươi tám thiền tổ Ấn Độ. Bên Phật Giáo cũng soạn
sách phản bác lại. Hóa Hồ Kinh từ
lâu đã bị xem là ngụy thư và bị đốt bỏ từ đời Đường. Tuy vậy, sau khi Phật Giáo
đã được bản địa hóa (thậm chí Phật Giáo còn vay mượn thuật ngữ của Đạo Giáo
trong việc phiên dịch kinh Phật sang Hán văn), vào đời Minh và đời Thanh đã nổi
lên tinh thần Tam Giáo (Nho-Thích-Đạo) hợp nhất, chủ trương Tam Giáo đồng
nguyên (Tam Giáo cùng nguồn gốc). Bài viết này nhằm giở lại trang sử cũ, đọc
lại một sự kiện trong lịch sử tôn giáo: Một cuộc đại tranh luận non một ngàn
năm giữa Phật Giáo và Đạo Giáo trong quá trình phát triển của Phật Giáo Trung
Quốc kể từ khi du nhập, tức là từ đời Hán cho đến nay.
|
Hành trạng của Đức Lão Tử sau
khi rời đất Chu được ghi chép trong Tây Thăng Kinh. Tây Thăng Kinh diễn giải
yếu nghĩa của Đạo Đức Kinh. Tác phẩm này được đưa vào Động Thần Bộ của Chính Thống Đạo Tạng. Tác giả và thời
gian hình thành tác phẩm chưa rõ. Livia Kohn cho rằng Tây Thăng Kinh xuất hiện khoảng
thế kỷ V Công Nguyên nhưng không biết cụ thể niên đại và tác giả.[1]
Theo
Khanh Hy Thái, tác giả Tây Thăng Kinh mượn danh quan đại phu nhà Chu là Quan Lệnh
Doãn Hỷ và căn cứ vào Lão Tử Đạo Đức Kinh mà soạn thành sách. Tên Tây Thăng
Kinh lần đầu xuất hiện trong Thần Tiên
Truyện của Cát Hồng, như vậy khoảng đời Ngụy-Tấn, một đạo sĩ nào đó sáng
tác ra. Hiện tồn bản Tây Thăng Kinh do Tống Huy Tông [tại vị 1101-1126] ngự chú
(ba quyển, nhưng trong quyển chót của Đạo
Tạng Tập Yếu chép là một quyển) và bản Tây
Thăng Kinh Tập Chú của đạo sĩ Trần Cảnh Nguyên (tức Bích Hư Tử, 1025-1094)
đời Tống kết tập thành sáu quyển. Cả hai bản đều có ba mươi chín chương nhưng
văn tự nhiều chỗ bất đồng.[2]
Theo
Livia Kohn, ngoài hai bản trên, gần đây xuất hiện bản Tây Thăng Kinh do đạo sĩ
Lý Vinh (sơ Đường) chú. Bản này do Fujiwara Takao (Đằng Nguyên Cao Nam) công bố
năm 1983.[3]
Theo bản Tây Thăng Kinh do nữ giáo sư Livia Kohn (Đại Học Boston) sưu tầm,[4]
ngay chương đầu thuật lại việc Đức Lão Tử đi sang Ấn Độ truyền đạo:
Đức
Lão Tử bay về hướng tây để mở đạo tại Trúc Càn [tức Ấn Độ]. Ngài được gọi là Cổ
tiên sinh, rất giỏi nhập vào vô vi, [nên ngài trở nên] vô thủy vô chung, miên
miên trường tồn. Vì thế, ngài bay [về hướng tây] đem đạo đến ải quan. Quan lệnh
ở đó là Doãn Hỷ trông thấy khí [đỏ tía] của ngài, bèn trai giới đón tiếp. [Đức
Lão Tử] vì quan lệnh mà thuyết hai chương Đạo
Kinh và Đức Kinh.[5]
Ấn Độ
ngày xưa cũng gọi là Thiên Trúc, Tây Trúc, trong Tây Thăng Kinh gọi là Trúc
Càn. Chữ kiến khí (thấy khí) trong
chương này ứng với câu rất nổi tiếng tử
khí đông lai (làn khí đỏ tía từ hướng đông bay tới). Rõ ràng tây thăng là bay về hướng tây, tức là
sang Ấn Độ.
Câu chuyện trên rất gần với những gì chép
trong Thần Tiên Truyện của Cát Hồng
(khoảng đầu thế kỷ IV Công Nguyên). Nhưng Cát Hồng ghi chép nhiều chi tiết ly kỳ
ở Hàm Cốc quan thuộc núi Chung Nam:
“Đức Lão
Tử thuê một tiểu đồng tên Từ Giáp phục vụ với giá một trăm tiền một ngày. Đến
nay đã nợ Từ Giáp bảy triệu hai. Khi thấy Lão Tử sắp rời bỏ Trung Quốc, Từ Giáp
bèn đòi tiền. Lão Tử không chịu trả. Một tên tôi tớ nơi Hàm Cốc quan biết chuyện
bèn xúi Từ Giáp đi kiện nơi quan lệnh (Doãn Hỷ), nhưng hắn không biết rằng Từ
Giáp theo hầu Lão Tử được trên hai trăm năm rồi. Hắn chỉ biết Từ Giáp sẽ có một
món tiền lớn nên ngỏ ý gả con gái cho Từ Giáp. Thấy ả ta xinh gái, Từ Giáp rất
bằng lòng. Họ rủ nhau đến gặp quan lệnh Doãn Hỷ. Ngài cực kỳ kinh ngạc. Bấy giờ
Đức Lão Tử nói với Từ Giáp rằng: ‘Mi lẽ ra đã chết từ lâu. Lần đầu gặp và thuê
mi, mi là tên nô lệ nghèo mạt. Nhưng vì ta không có tiểu đồng nên mới thuê mi
và cho mi sống lâu nhờ Thái Huyền thanh mệnh phù.
Vì thế mà mi mới thấy ngày nay. Mi còn than phiền nỗi gì? Ta đã bảo khi nào đến
Côn Lôn sẽ trả vàng cho mi, sao mi không chờ nổi?’ Đức Lão Tử buộc Từ Giáp há mồm
và bảo mọi người nhìn xuống mặt đất. Lá phù (bùa) phóng ra khỏi miệng Từ Giáp,
cắm thẳng xuống đất, trên đó có chữ đan 丹 đọc còn
rõ. Ngay tức khắc Từ Giáp biến thành bộ xương. Quan lệnh từ bi, xin Đức Lão Tử cứu Từ Giáp sống lại.
Từ Giáp sống lại, Đức Lão Tử trả tiền công và đuổi hắn đi. Từ đó Doãn Hỷ rất
sùng bái Đức Lão Tử và xin Ngài truyền bí thuật trường sinh. Đức Lão Tử truyền
lại Đạo Đức Kinh, Doãn Hỷ theo đó mà tu luyện thành tiên.” [6]
Thần
Tiên Truyện cho rằng Đức Lão Tử đi về núi Côn Lôn và Tây Thăng Kinh cho rằng Đức
Lão Tử bay về hướng tây truyền đạo ở Ấn Độ (hóa Hồ). Thuyết “Lão Tử hóa Hồ” (the conversion of the barbarians) thực sự
bắt đầu xuất hiện từ đời Đông Hán thời vua Hoàn Đế. Bấy giờ quan thượng thư
Tương Khải [7]
(năm 116 Công Nguyên) trình tấu với Hán Hoàn Đế rằng:
“Có người
bảo rằng Lão Tử vào xứ của bọn rợ mà thành Phật. Phật không nghỉ đêm dưới cây
dâu ba lần,[8]
không muốn sinh lòng ân ái lâu dài, tinh
chuyên một mực như vậy. Thiên thần tặng cho gái đẹp, Phật nói đó là túi da đầy
máu nên không nhìn. Cứ gìn giữ một lòng như thế là có thể thành đạo.” [9]
Liệt Tiên Truyện (xuất hiện từ thế kỷ II Công Nguyên, nhưng thường bị
gán nhầm do Lưu Hướng sáng tác khoảng năm 77-76 trước Công Nguyên) ghi chép tiểu
truyện của Quan Lệnh Doãn rằng sau khi nhận Đạo Đức Kinh từ Lão Tử, Doãn Hỷ
tháp tùng Lão Tử sang lưu sa để hóa độ rợ Hồ (Ấn Độ): “Cùng với Lão Tử đi sang vùng sa mạc cát trôi để hóa độ rợ Hồ.” [10]
Trong kinh cúng tứ thời của đạo Cao Đài
(bài Tiên Giáo) có câu: Tử khí đông lai,
quảng truyền đạo đức; lưu sa tây độ, pháp hóa tướng tông [11] có lẽ bắt nguồn từ thuyết “du lưu sa hóa Hồ” này.
Lời bình của Bùi Tùng Chi về bộ Tam Quốc Chí (phần Ngụy Thư,xuất bản năm
429 Công Nguyên) có chú dẫn Ngụy Lược
- Tây Nhung Truyện (do Ngư Hoạn soạn
khoảng giữa thế kỷ III Công Nguyên) cung cấp thêm cho ta về sự kiện hóa Hồ này:
“Những
gì ghi trong kinh Phật tương tự với [nội dung] Lão Tử
Đạo Đức Kinh của Trung Quốc. Người ta cho
rằng Lão Tử đi về hướng tây, ra khỏi ải quan, vượt qua nước Thiên Trúc ở Tây Vực,
giáo hóa rợ Hồ ...” [12]
Đoạn chót câu này, Zürcher bảo nên đọc
là: “...
Hóa Hồ vi Phù Đồ, thuộc đệ tử biệt hiệu, hợp hữu nhị thập cửu.[13] (... giáo hóa rợ Hồ thành Phật, đó là biệt hiệu dành cho cả thảy hai
mươi chín đệ tử).
Theo
trên, Phật Thích Ca cùng với hai mươi tám thiền tổ Ấn Độ là hai mươi chín đệ tử
của Lão Tử. Dựa trên cơ sở này, đạo sĩ Vương Phù (tức Cơ Công Thứ) đời Tây Tấn
(265-316) [14]
soạn Lão Tử Hóa Hồ Kinh. Nhưng tác phẩm
này ra đời do một động lực khác. Năm cuối triều vua Huệ Đế (tại vị 290-306) đời
Tây Tấn, một danh tăng tên là Bạch Viễn (tự là Pháp Tổ) đã bác bỏ thuyết Lão Tử
hóa Hồ. Bạch Viễn và Vương Phù tranh luận nhau. Vương Phù thua bèn sáng tác quyển
Lão Tử Hóa Hồ Kinh để bênh vực quan
điểm của mình. Sự việc này được ghi chép trong vài tư liệu như:
1. Cao
Tăng Truyện của Huệ Kiểu (497-554) sáng tác khoảng năm 530 Công Nguyên,
chép rằng: “Sau khi Bạch Viễn mất không lâu, có người tên Lý Thông chết đi sống
lại. Lý Thông nói đã gặp Pháp Tổ (tức Bạch Viễn) nơi âm phủ đang giảng kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội (Śūramgama-samādhi)
cho Diêm Ma Vương (vua Yāma) nghe... Đồng thời Lý Thông cũng thấy tên tế tửu [15] Vương
Phù tức đạo sĩ Cơ Công Thứ mang gông cùm xiềng xích một mực van xin Pháp Tổ
thương xót hắn. Trước đây, lúc sinh bình, Pháp Tổ đã luôn tranh luận với Vương
Phù về chuyện chính tà. Vương Phù cãi thua Pháp Tổ, uất ức không nhịn được bèn
sáng tác Lão Tử Hóa Hồ Kinh để hủy
báng đạo Phật.”
2. Tấn
Thế Tạp Lục (khoảng đầu thế kỷ V Công Nguyên) chép: “Đạo sĩ Vương Phù đã từng
tranh luận với sa môn Bạch Viễn và cãi thua. Sau đó họ Vương mới cải biên Tây Vực Truyện thành Hóa Hồ Kinh, nói rằng Doãn Hỷ đi theo
Lão Tử sang Tây Vực giáo hóa rợ Hồ và thành Phật. Đạo Phật bắt đầu từ đó.”
3. Cao
Tăng Truyện (cũng gọi Chúng Tăng Truyện)
của Bùi Tử Dã (467-528) chép rằng: “Dưới
triều Tấn Huệ Đế, sa môn Bạch Viễn tự Pháp Tổ đã từng tranh luận với tên tế tửu
Vương Phù (tức đạo sĩ Cơ Công Thứ) về vấn đề chính tà. Vương thua, uất ức mới
phỏng theo Tây Vực Truyện mà sáng tác Hóa Hồ Kinh để hủy báng đạo Phật. Quyển
sách này đã lưu truyền khắp nơi.”
4. U
Minh Lục của Lưu Nghĩa Khánh (403-444) cũng viết như Cao Tăng Truyện của Huệ Kiểu, nhưng thêm chi tiết là Lý Thông quê ở
Bồ Thành, Thiểm Tây.[16]
Lão Tử Hóa Hồ Kinh chỉ có một quyển, người đời sau tăng bổ thành mười
quyển. Thông Chí - Nghệ Văn Lược ghi là mười quyển. Quận Trai Độc Thư Chí (của Triều Công
Vũ) quyển 16, ghi là mười quyển. Văn Hiến
Thông Khảo, quyển 224, cũng ghi là có mười quyển. Tất cả đều chú dẫn Tam Quốc Chí Chú (của Bùi Tùng Chi), Tân Đường
Thư - Nghệ Văn Chí, v.v... nói về
nguyên nhân phát sinh cố sự hóa Hồ thành Phật và cuộc tranh luận về sự chân ngụy
của Hóa Hồ Kinh. Bản Đôn Hoàng Lão Tử Hóa Hồ Kinh mười quyển
bị hư hoại, chỉ còn giữ được quyển 2, 8, và 10. Nội dung chủ yếu của Hóa Hồ Kinh là kể lại câu chuyện dẫn
Quan Lệnh Doãn Hỷ đi sang hướng tây, vào nước Thiên Trúc (Ấn Độ), hóa thành Phật
Đà, lập ra Phù Đồ Giáo (tức Phật Giáo).
Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra đời, làm nảy sinh một đại công án tôn giáo kéo dài
gần một ngàn năm.
Bên Đạo
Giáo cố gắng chứng minh rằng Đạo Giáo có trước Phật Giáo, và Lão Tử hóa thành
Phật rồi mở đạo Phật tại Ấn Độ. Họ sáng tác thêm một số tác phẩm để bênh vực
quan điểm như: Huyền Diệu Nội Thiên, Xuất
Tái Ký, Quan Lệnh Doãn Hỷ Truyện, Văn Thủy Nội Truyện, Lão Quân Thiên Khai
Kinh, v.v...
Bên Phật Giáo ngoài việc chứng minh sự việc
hóa Hồ là hư ngụy, họ còn sáng tác những quyển như Chu Thư Dị Ký, Hán Pháp Bản Nội
Truyện, v.v... chứng minh rằng Phật Thích Ca là sư phụ của Khổng Tử và Lão
Tử.[17]
Đến đời
Đường Cao Tông, và sau là thời Vũ Chu (thời Vũ Tắc Thiên xưng đế, bà đổi quốc
hiệu là Chu 周), chư tăng xin triều đình cấm và hủy bỏ Hóa Hồ Kinh. Mặc dù bát đại học sĩ tâu rằng
kinh này không có gì tà ngụy nhưng triều đình cũng hai lần hạ lệnh đốt bỏ (dưới
triều Cao Tông và dưới triều Vũ Hậu). Nhưng bấy giờ mệnh lệnh không nghiêm, Hóa Hồ Kinh vẫn tiếp tục lưu hành.
Đến đời
Nguyên, dưới triều vua Hiến Tông (tại vị 1251-1260) và Thế Tổ (tại vị
1260-1295), Toàn Chân Đạo xâm chiếm chùa miếu và điền sản của Phật Giáo. Phật Giáo
lại đem Lão Tử Hóa Hồ Kinh ra tố cáo
là ngụy kinh. Thêm một lần nữa Phật Giáo và Đạo Giáo lại tranh luận kịch liệt.
Năm
thứ 8 (tức 1259) vua Hiến Tông và năm Chí Nguyên 18 (tức 1282) đời vua Thế Tổ,
Toàn Chân Đạo hai lần biện luận đại bại, và triều đình nhà Nguyên hai lần hạ lệnh
đốt bỏ đạo kinh. Lão Tử Hóa Hồ Kinh từ đó bị đốt mất. Chính Thống Đạo Tạng và Vạn Lịch
Tục Đạo Tạng đời Minh đều không ghi chép Hóa Hồ Kinh.[18]
Lão Tử Hóa Hồ Kinh mang nội dung hư cấu về hành trạng Đức Lão Tử sau khi
để lại cho Doãn Hỷ bộ Đạo Đức Kinh.
Điều mà con người hiện nay quan tâm không phải là nội dung Hóa Hồ Kinh mà chính là ôn lại một cuộc đại tranh luận non một ngàn
năm giữa Phật Giáo và Đạo Giáo trong lịch sử phát triển của Phật Giáo Trung Quốc
kể từ khi du nhập, tức là từ thời Lưỡng Hán cho đến nay.
LÊ ANH MINH
[1] Livia Kohn, Taoist Mystical Philosophy: The Scripture of
Western Ascension. State University of New
York Press, 1991, p. 4.
[3] Livia Kohn, sách đã dẫn, tr. 23. Fujiwara Takao (Đằng
Nguyên Cao Nam 藤原高男), Tây Thăng Kinh
Lý Vinh Chú 西昇經李榮注 (Saishōkyō ri ei chū), Hương Xuyên Đại Học Nhất Ban Giáo
Dục Nghiên Cứu 香川大學一般教育研究 (Kagawa daigaku kokubun kenkyū), 1983.
[5] Lão Tử tây thăng, khai đạo Trúc Càn, hiệu Cổ
tiên sinh, thiện nhập vô vi, bất chung bất thủy, vĩnh tồn miên miên. Thị dĩ,
thăng tựu đạo kinh lịch quan. Quan Lịnh Doãn Hỷ kiến khí, trai đãi ngộ tân. Vị
thuyết đạo đức, liệt dĩ nhị thiên. (Chương 1: Tây Thăng)
老子西昇, 開道竺乾, 號古先生, 善入無為, 不終不始 永存綿綿. 是以昇就道經歷關. 關令尹喜見氣, 齋待遇 賓, 為說道德, 列以二篇. [1. 西昇]
[7] Livia Kohn ghi là Hoài Khải 欀楷 (sách đã dẫn, p. 65), Khanh Hy Thái (sách đã dẫn, quyển
2, tr. 64) và Zürcher (The Buddhist
Conquest of China, Taiwan, 1970, p. 291) ghi là Tương Khải 襄楷.
[8] Tại sao gọi là nghỉ đêm dưới cây dâu? Có lẽ đây là sự hiểu
nhầm từ chữ tang môn 桑門. Nó không có nghĩa là nhà dâu để rồi bị suy diễn là nghỉ
đêm dưới cây dâu. Thời Hán đã có thuật ngữ này, đồng nghĩa với sa môn 沙門. Cả hai đều là phiên âm từ tiếng Phạn: Śramaņa. Ngữ căn
Śram có nghĩa là nỗ lực. Śramaņa còn phiên âm là bà môn 婆門, tang môn 喪門, sa môn na 沙門那, xá la ma nã 舍羅摩拿, thất ma ná nã
室摩那拿. Thuật
ngữ này chỉ bậc xuất gia tu đạo.
[9] Hoặc ngôn Lão Tử nhập di địch vi Phù Đồ,* Phù Đồ bất
tam túc tang hạ, bất dục cửu sinh ân ái, tinh chi chí dã. Thiên thần di dĩ hảo
nữ, Phù Đồ viết: Thử đản cách nang thịnh huyết, toại bất phán chi. Kỳ thủ nhất
như thử, nãi năng thành đạo.
或言老子入夷狄為浮屠, 浮屠不三宿桑下, 不欲久生 恩愛精之至也. 天神遺以好女, 浮屠曰: 此但革囊盛血, 遂不盼之. 其守一如此, 乃能成道.
* Phù đồ: Chữ Buddha
(Phật) được phiên sang Hán âm bằng nhiều chữ như: Phật Đà 佛陀, Phù Đà 浮陀, Phù Đồ 浮圖 (hoặc 浮屠), Phù Đầu 浮頭, Bột Đà 勃陀 (hoặc 浮馱), Bộ Đa 部多, Bộ Đà 部陀, Vô Đà 毋陀 hoặc 毋馱, Một Đà 沒馱 (hoặc 沒陀), Phật Đà 佛陀, Bộ Tha 步他, Phục Đậu 复豆, Phật Đồ 佛圖, Phật 佛, Bộ Đà 步陀, Vật tha 物他, v.v... Xem bài Phù
Đồ dữ Phật 浮屠與佛 (Phù Đồ và Phật) in trong tập tiểu luận Trung Ấn Văn Hóa Quan Hệ Sử Luận Tùng 中印文化關係史論叢 (Luận về mối quan hệ lịch sử giữa Trung Quốc và Ấn Độ) của
Quý Tiện Lâm 季羨林 (Bắc
Kinh, 1957, tr. 9).
E. Zürcher, The Buddhist
Conquest of China , Taiwan , 1970,
p. 291.
[12] Phù Đồ sở tái dữ Trung Quốc Lão Tử Kinh tương
xuất nhập, cái dĩ vi Lão Tử tây xuất quan, quá Tây Vực chi Thiên Trúc, giáo Hồ.
Phù Đồ thuộc đệ tử biệt hiệu, hợp hữu nhị thập cửu.
浮屠所載與中國老子經相出入,蓋以為老子西出關,過西域之天竺, 教胡. 浮屠屬弟子別號, 合有二十九.
Khanh Hy Thái chép Vương Phù sống vào đời Tây Tấn
(sách đã dẫn, quyển 2, tr. 64).
Vương Hữu Tam cũng chép Vương Phù sống vào đời
Tây Tấn: “Nói
chung Phật Giáo du nhập vào Trung Quốc khoảng thời Lưỡng Hán. [...] Năm du nhập
chính xác là bao nhiêu thì lịch sử còn phân vân. Không ít tín đồ Phật Giáo đời
sau đã cùng nhau xuyên tạc [thời gian du nhập] nên không đủ tin cậy. Đặc biệt
là Phật Giáo và Đạo Giáo đời Ngụy Tấn đã tranh nhau cao thấp nên rất nhiều tín
đồ đã đưa ra nhiều giả thuyết tranh giành thời gian xuất hiện trước sau. Đạo sĩ
đời Tây Tấn là Vương Phù từng ngụy tạo Lão
Tử Hóa Hồ Kinh, nói Lão Tử đi sang lưu sa hướng tây, vào Thiên Trúc thành
Phật, giáo hóa Hồ nhân, Thích Ca Mâu Ni là đệ tử của Lão Tử. Tín đồ Phật Giáo
cũng công kích lại, đưa ra nhiều thuyết, cho rằng Phật Giáo có trước Đạo Giáo,
du nhập vào Trung Quốc rất sớm.” (Vương Hữu Tam 王友三, Trung
Quốc Tôn Giáo Sử 中國宗教史, quyển I, Tề Lỗ xuất bản xã 齊魯出版社, Tế Nam 濟南, 1991, tr. 353.)
[15] Tế tửu: Đạo sĩ
có nhiệm vụ rót rượu tế lễ. Từ Hải
(tr. 928, mục từ tế tửu 祭酒) giảng: “Tế
tửu là nghi lễ cổ, trong yến tiệc lớn thì vị khách có tuổi tác cao sẽ rót rượu
dâng cúng. Từ đó tế tửu là danh xưng tôn kính, ý nói một vị tuổi cao hơn và phẩm
hạnh trội hơn những người khác trong nhóm. Về sau, tế tửu là tên một chức quan.
Như quan thị trung (đời Hán) và quan tản kỵ thường thị (đời Ngụy) nếu có công
trạng lớn thì được thăng làm quan tế tửu. Ngoài ra, trong các quan bác sĩ đời
Hán, vị nào thông minh uy trọng thì được cử làm tế tửu. Từ đời Ngụy về sau có
chức quan quốc tử tế tửu. Đến cuối đời
Thanh thì chức quan này mới bị bỏ đi.”
Charles O. Hucker (A Dictionary of Official Titles in Imperial China, Taipei, 1995, p.
130), dịch chức tế tửu là Libationer
và giảng đại khái: đời Hán đó là chức danh tôn quý giành cho các lão quan ưu
tú. Ngoài ra, cũng có thể dịch chức này là Chancellor:
Từ đời Hán đến đời Thanh, đó là chức quan cao nhất, phụ trách về giáo dục nơi
nhà Thái Học (từ đời Tùy gọi là Quốc Tử Giám). Chức danh này bắt nguồn từ chức
Bác Sĩ nơi nhà Thái Học đời Tiền Hán. Đời Thanh có hai người được bổ nhiệm làm
tế tửu: một là người Hán, một là người Mãn. Thường gọi là Quốc Tử Tế Tửu.
Theo Trương Chí Triết, trong hệ thống cấp bậc của
Đạo Giáo, cuối đời Hán, Ngũ Đấu Mễ Đạo hưng thịnh, Trương Lỗ tự xưng là Sư
Quân. Kẻ mới nhập đạo gọi là quỷ tốt; đạo đồ cốt cán gọi là tế tửu. Về sau tín
đồ gia tăng, có chức đại tế tửu là chức đứng đầu một Trị 治. Trị là một đạo trường hay giáo xứ, coi như một đơn vị
hành chánh của Ngũ Đấu Mễ Đạo; mục đích mỗi trị là: trước trấn giữ nhân tâm,
sau lập đài quan sát tinh tú. Lúc đầu có hai mươi bốn trị, sau tăng lên thành bốn
mươi tám trị, lấy Dương Bình Trị làm trung tâm. (Xem: Trương Chí Triết 張志哲, Đạo Giáo Văn Hóa
Từ Điển 道教文化辭典, Giang
Tô Cổ Tịch xuất bản xã, 1994, tr. 860, 881).
------------
Hễ ai
nghĩ rằng cứ ngồi trong nhà thờ thì có thể trở thành Kitô hữu ắt hẳn cũng nghĩ
rằng cứ ngồi trong nhà xe thì có thể biến họ thành cái xe. / Anyone who thinks sitting in church can make
you a Christian must also think that sitting in a garage can make you a car.
GARRISON KEILLOR (tác gia Mỹ, sinh năm 1942)