Thứ Bảy, 2 tháng 4, 2016

ĐĐVU 12 / THỨC TỈNH HỒN NGƯỜI / Thánh giáo


Thánh thất Trung Thành (Đà Nẵng)
ngày 15-10 Canh Thìn (thứ Năm 14-11-1940)
VÕ CÔNG TÁNH [1]
Chào chư hiền Thiên sắc.[2] Chào toàn thể nam nữ lưỡng ban.[3] Tịnh tâm, tịnh đàn! Xông trầm, khử trược! Trật tự! Ai lộn xộn phạt à! Thôi, tiếp lịnh Lý Giáo Tông.
TIẾP ĐIỂN
LÝ THÁI BẠCH
Chào chư hiền đệ. Chào toàn thể nhơn sanh nam nữ. Thành tâm nghe dạy!
Thế giới đi đến cuộc điêu tàn. Biển gò sông núi, nhơn loại bước chơn lên đường thống khổ, gió đạn mưa tên. Than ôi! Còn đâu hạnh phúc, hòa bình! Còn đâu nhơn tâm, thế đạo! [4] Đau khổ mà nhơn loại còn đeo đai trong vòng tư dục,[5] say mê trên giấc mộng trường.
Mười bốn năm nay,[6] dộng chuông cảnh tỉnh, đánh trống giác mê inh ỏi trong ba ngàn thế giới là Tam Kỳ Phổ Độ, mà coi lại nhơn sanh đương [7] còn ngon ngủ, chỉ đặng một số ít người chợt tỉnh, nhưng cũng còn đương gục lên gục xuống, mơ mơ mộng mộng như kẻ không hồn, như con mất mẹ.
Hỡi ôi! Đường gió bụi, nẻo chông gai, rồi ai cất gánh lên đường? Nhơn loại còn phải lắm nỗi thảm thê đau khổ!
Đạo đức. Đạo đức là phương thuốc tận thiện tận mỹ [8] để làm cho phiền não trở ra bồ đề,[9] đời khổ não trở nên hạnh phúc, thế giới bi quan trở nên lạc quan.
Than ôi! Đạo đức mê hoặc, đạo đức giả dối là phần nhiều. Mượn đạo đức để cầu cho đặng phước đặng tài,[10] hết đau hết khổ; rủi không y lời nguyện, sanh lòng sè sụt lảng lơi, trở lại nghịch thù đạo đức.
Mấy ai hiểu cái chân chính đạo đức là tu thân. Thân ai thân nấy đều tu thì gia đình hòa thuận. Quốc gia xã hội đặng hòa bình thì thế giới đại đồng. Chừng ấy đâu còn chiến tranh xâm lược, cướp bóc giựt giành. Không có thế giới cường quyền thì đâu còn nô lệ. Trở nên thế giới nhà chung, đời sống của nhân loại thế nầy, ngắm ra [11] mới có phần thú vị.
Ở vào thời kỳ nầy, nói theo thuyết chân chính đạo đức, ai khỏi cho là ảo tưởng. Nhưng phải biết rằng trên đời chẳng có gì khó, có chí rồi nên, huống hồ là xưa nay muốn khai hóa một phương pháp gì cũng phải trải qua những thời kỳ trái ngược.
NGÂM
Khuyên đời học chí Ngu Công
Mặc dầu Trí Tẩu đem lòng cười chê.[12]
BÀI
Đời phải cuộc bể dâu [13] thay đổi
Người trong cơn chìm nổi bơ vơ
Năm châu thắng bại cuộc cờ
Nổ bùng một trận cõi bờ tả tơi.
Lòng tư dục ghen trời trách đất
Miếng đỉnh chung [14] đổi vật thay hình
Nổ rân lượn sóng bất bình
Phập phồng bể Bắc, gập ghình trời Đông.
Thây ma đói chất chồng đường sá [15]
Quỷ không đầu rỉ rả khóc than
Đêm đông tiếng kể bên đàng
Nỗi lo thiếu mặc, nỗi bàn [16] thiếu ăn.
Trường danh lợi đua chen lấn lướt
Lên võ đài mạnh được yếu thua
Chen nhau kẻ bán người mua
Vì thân phải lắm nỗi chua chát lòng.
Lại còn mắc trong vòng chế độ
Sóng cường quyền đạp đổ dân đen
Trần ai lắm nỗi nhọc nhằn
Vui chi nhơn loại, nằng nằng [17] say sưa!
Khổ nỗi khổ còn chưa kinh hãi
Người giết người bằng cái lương tâm
Lỡ chơn, sỉa bẫy [18] sa hầm
Chừng hay vực thẳm đã nhằm hang sâu.
Xót nhơn loại ăn sầu nuốt thảm
Động từ tâm hoài cảm Chí Tôn
Sông mê giục trống tỉnh hồn
Giác mê khải ngộ bảo tồn linh sanh.
Lửa phiền não Nam thành hực hực
Nước cam lồ rưới tắt không không
Cho dân Nam Việt thỏa lòng
Hòa bình lập trụ, đại đồng trúc cơ.[19]
Giọt mưa thánh gội nhuần bốn bể
Ngút mây lành thêu vẽ năm châu
Thái bình đất Á trời Âu
Hưởng chung hạnh phúc trong bầu càn khôn.[20]
Nhưng than ôi! Đời còn đau khổ
Thảm thiết thương quốc độ [21] Nam này
Nhơn tâm tan rã bạn bầy
Lòng đầy bản ngã, dạ đầy tư tâm.
Trải qua mười mấy năm khai hóa,
Trong ba kỳ [22] truyền bá chưa xong
Kẻ hướng đạo [23] chưa hết lòng
Kẻ vì thiếu đức, người không đủ tài.
Người tin đạo tin sai, tưởng quấy
Vái Phật Trời xin thấy huyền linh
Đổi thành niệm sám, tụng kinh [24]
Cầu qua tai nạn, cầu xin phước tài.
Lại có kẻ đứng ngoài bình phẩm
Chê chỗ buồn qua ngắm chỗ vui
Có người đợi vận chờ thời
Sấm xưa thi cũ, rung đùi ngâm nga.
Đời có lắm người mà như thế
Đời bảo sao không tệ, không hư
Ai ra gánh vác bây chừ? [25]
Có thân có nợ, nợ đời nợ chung.
Đem đạo đức sửa lòng nhơn loại
Vững đức tin cứng cỏi như đồng
Chim còn ngậm đá lấp sông [26]
Trên đường đạo đức, dắt cùng nhau lên.
Đại đồng lo gắng đắp nền.
Thôi. Ta chào lui.



Hu Khải chú thích:
[1] Võ Công Tánh: Tức là danh tướng Võ Tánh (?-1801). Xem phụ lục cuối bài thánh giáo này.
[2] Thiên sắc : Thiên ân chức sắc.
[3] Lưỡng ban : Hai ban chức sắc, chức việc và tín đồ khi hành lễ trước Thiên Bàn: <1> nam (phía bình bông trên Thiên Bàn) và <2> nữ (phía dĩa trái cây trên Thiên Bàn).
[4] Thế đạo 世道: Ðạo lý ở đời.
[5] Tư dục 私欲: Ham muốn ích kỷ, riêng tư.
[6] Mười bốn năm: Từ lúc Khai Minh Đại Đạo (rằm tháng 10 Bính Dần, 1926) tới lúc Đức Lý dạy bài này (rằm tháng 10 Canh Thìn, 1940).
[7] Đương: Đang.
[8] Tận : Rất, lắm. Tận thiện tận mỹ 盡善盡美: Hết sức tốt đẹp, hoàn hảo (perfect).
[9] Đức Mẹ dạy: Đất phiền não bồ đề vun xới / Lìa thế gian sao tới niết bàn. (Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, 13-8 Kỷ Mùi)
[10] Đặng tài: Có được tiền bạc.
[11] Ngắm ra: Xem ra.
[12] Ngu Công, Trí Tẩu: Xem phụ lục cuối bài thánh giáo này.
[13] Bể dâu: Do thành ngữ thương hải tang điền 滄海桑田: Biển xanh và ruộng dâu. Ý nói ruộng dâu biến thành biển xanh, hoặc ngược lại, ám chỉ biến cố thay đổi lớn lao ở đời; từ đây mà nói tắt là tang thương hoặc nói bể dâu.
[14] Đỉnh chung 鼎鐘: Đỉnh là cái vạc để nấu ăn, chung là chuông. Ngày xưa nhà giàu lớn có rất đông người, phải nấu cơm bằng vạc; tới giờ ăn phải đánh chuông để tập hợp mọi người. Miếng đỉnh chung: Cuộc sống quyền thế, sang giàu.
[15] Có lẽ là lời tiên tri nạn đói năm Ất Dậu (1945).
[16] Bàn: Bàn bạc, bàn luận.
[17] Nằng nằng: Một mực đeo bám, không chịu bỏ đi.
[18] Sỉa bẫy: Sập bẫy, sa chân vào bẫy, lọt bẫy.
[19] Trúc cơ 築基: Xây nền đắp móng, xây dựng nền tảng.
[20] Càn khôn 乾坤: Vũ trụ, thế giới, trời đất.
[21] Quốc độ (thổ) 國土: Đất đai quốc gia, lãnh thổ quốc gia.
[22] Ba kỳ: Thời Pháp thuộc, Việt Nam bị giặc chia làm ba miền, gọi là Bắc Kỳ (Tonkin), Trung Kỳ (Annam), Nam Kỳ (Cochinchine).
[23] Hướng đạo 向導: Người dẫn dắt đạo hữu.
[24] Đổi thành niệm sám, tụng kinh: Lấy việc tụng niệm kệ kinh, sám hối… để hòng đổi chác với Trời Phật trong việc cầu xin được ban ơn thỏa mãn tham dục tư riêng.
[25] Bây chừ: Bây giờ, lúc này.
[26] Bị chết đuối ở biển Đông, con gái Viêm Đế là Nữ Oa hóa thành chim Tinh Vệ 精衛, thường ngậm đá ở núi Tây bay ra lấp biển Đông. Trong bài thánh giáo này, Đức Lý nhắc tới tích chim Tinh Vệ để nói tới ý chí bất khuất của những người muốn lấp biển dời non. Bậc Thiên ân hướng đạo Kỳ Ba của Đức Chí Tôn cần có ý chí đó mới mong thi hành được mệnh Trời.
Phụ lục 1: VÕ CÔNG TÁNH
Võ Công Tánh hay Võ Tánh 武性(?-1801) là một danh tướng có công giúp Chúa Nguyễn Phúc Ánh (1762-1820) chống nhà Tây Sơn. Ông tuẫn tiết 殉節 trước khi nhà Nguyễn chính thức thành lập. Ông cùng Đỗ Thanh Nhơn (?-1781) và Châu Văn Tiếp (1738-1784) được tôn là Gia Định Tam Hùng (ba vị anh hùng đất Gia Định).
Căn cứ Việt Nam Sử Lược, quyển II, của Trần Trọng Kim (Sài Gòn: Trung Tâm Học Liệu xb, 1971), lược trích một số sự kiện nổi bật của danh tướng Võ Tánh như sau:
Võ Tánh người Biên Hòa, hùng cứ ở Vườn Trầu (Gia Định), sau lại về Gò Công, thủ hạ mấy vạn người. Lúc Nguyễn Vương đóng ở Nước Xoáy [Sa Đéc], vào tháng 4 năm Mậu Thân (1788) Võ Tính đem thuộc tướng và quân lính về với Nguyễn Vương, được phong làm Tiền Phong Dinh Chưởng Cơ và được Nguyễn vương gả em gái là công chúa Ngọc Du. (tr. 148) Từ đó, Võ Tánh lập nhiều chiến công giúp Nguyễn Vương.
Tháng 3 năm Kỷ Mùi (1799) Nguyễn Vương đem đại binh ra đánh Quy Nhơn lần thứ ba; hai tháng sau chiếm được thành Quy Nhơn, đổi tên là thành Bình Định. Khi kéo quân về Gia Định, Nguyễn Vương sai Võ Tánh và Ngô Tùng Châu [?-1801] ở lại giữ thành Bình Định. (tr. 157-158)
Tháng Giêng năm Canh Thân (1800), hai tướng Tây Sơn là Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng kéo quân vào giành lại thành Bình Định. [Với chủ ý cầm chân đại quân Tây Sơn để quân Nguyễn Vương dễ đánh chiếm nơi khác] nên Võ Tánh chỉ cố thủ, không ra đánh. Quang Diệu bèn sai đắp lũy chung quanh thành, vây chặt bốn mặt. (tr. 159)
Nghe tin thành Phú Xuân thất thủ, mà cho quân Tây Sơn từ Bình Định ra cứu lại thất bại, Trần Quang Diệu nổi giận, ngày đêm ráo riết đốc thúc quân lính đánh thành Bình Định. Bị vây hãm lâu ngày, trong thành hết cả lương thực, liệu bề không thể chống giữ được nữa, Võ Tánh bèn viết thư cho Trần Quang Diệu nói: “Phận sự ta làm chủ tướng, thì đành liều chết ở dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết hại.”
Võ Tánh sai người lấy rơm cỏ chất ở dưới lầu bát giác, đổ thuốc súng vào rồi tự thiêu. Ngô Tùng Châu uống thuốc độc tự tử. Cảm phục khí tiết ấy, Trần Quang Diệu vào thành tha hết cho các tướng sĩ nhà Nguyễn và sai làm lễ liệm táng Võ Tánh và Ngô Tùng Châu tử tế. (tr. 162)
Phu nhân Võ Tánh (công chúa Ngọc Du) khóc chồng:
Những tưởng ra tay giúp nước nhà
Ai dè bình địa nổi phong ba
Xót người vị quốc liều thân ngọc
Khiến thiếp cô phòng ủ mặt hoa
Gối mộng mơ màng duyên nợ cũ
Đài mây xiêu lạc phách hồn xa
Lửa trung đốt đỏ gương hào kiệt
Nóng ruột thiền quyên giọt lệ sa.
Tưởng nhớ Võ Tánh, ca dao Bình Định có câu:
Ngó lên ngọn tháp Cánh Tiên
Cảm thương quan Hậu thủ thiềng ba năm.
Thủ thiềng là thủ thành, giữ thành Bình Định. Tháp Cánh Tiên là tháp cũ của người Chăm. Ngày nay mộ Võ Tánh nằm ở thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định. Xem phụ bản 01: ảnh tháp Cánh Tiên và mộ Đức Võ Tánh.
Phụ lục 2: NGU CÔNG DỜI NÚI
Ngu Công di sơn 愚公移山
Sách Liệt Tử 列子 kể: Phía nam châu Ký có hai quả núi Thái Hàng 太行 và Vương Ốc 王屋 to bảy trăm dặm, cao muôn thước, cây cối rậm rạp, ác thú lại nhiều, đi lại khó khăn. Ở chân núi có nhà của cụ Ngu Công, chín mươi tuổi. [Ngu Công 愚公: Người đàn ông ngu, không khôn ngoan.] Một hôm cụ họp cả vợ con, người nhà lại bàn: “Ta muốn cùng các người hết sức bạt phẳng hai quả núi này thì có nên không?”
Ai nấy đều thuận, riêng người vợ hỏi: “Sức ông không bạt nổi một cái gò, làm thế nào bạt được hai quả núi? Mà dù cho có sức bạt được nữa, thì đất đá đem đổ đi đâu?”
Ngu Công nói: “Mang đổ xuống biển Đông.”
Ngu Công đem con cháu cùng cả họ ra phá núi. Kẻ đục đá, người đào đất, kẻ đầu đội, người vai mang, hết ngày này sang tháng khác. Láng giềng có người đàn bà góa và đứa con tám tuổi cũng xin góp sức phụ giúp.
Cụ Trí Tẩu [智叟: Ông lão (tẩu) có trí khôn, sáng suốt] trong vùng thấy vậy, cười Ngu Công: “Sao khờ dại vậy! Mình thì tuổi tác, núi thì cao lớn, phá thế nào nổi!”
Ngu Công nói: “Ngươi không bền lòng. Bền lòng thì việc gì cũng phải được. Ngươi không bằng người đàn bà góa và đứa trẻ thơ. Ta già, ta chết, đã có con ta. Hết đời con ta, đã có cháu ta. Hết đời cháu ta, đã có chắt ta. Con con cháu cháu sinh hạ vô cùng mà núi thì bao giờ cũng vậy, lo gì không bạt nổi.”
Trí Tẩu nghe nói, nín lặng.
Sau này vùng nam châu Ký không có núi non chướng ngại, đi lại thuận tiện là nhờ có Ngu Công.
*
Cổ Học Tinh Hoa của hai soạn giả Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (1890-1942) và Trần Lê Nhân bình luận (trích):
Ta không tưởng tượng rõ núi Thái Hàng và núi Vương Ốc to lớn thế nào. Ta chỉ biết ở cái đời Ngu Công bấy giờ chưa có máy móc tinh xảo như bây giờ, mà đã bạt được núi, thì giỏi thật. Lại không kể phải thuê hàng nghìn vạn người để làm, chỉ người trong một nhà, một họ và ít người lân cận giúp tay vào mà cũng làm nổi. Ôi! Nếu quả như vậy, thì cái gương kiên nhẫn của Ngu Công thực đáng để truyền lại mãi cho muôn nghìn đời về sau này. Vả chăng chỉ một câu Ngu Công nói với Trí Tẩu, cũng nên ghi nhớ lắm. Sự kiên tâm không phải chỉ hạn chế trong một đời, nhưng cứ tiếp luôn đời ấy, đời khác, theo đuổi mãi thì ở đời còn có gì gọi là khó được nữa.
VĂN UYỂN

CAN TRÀNG NGÀN THU
Việc công quả là dành âm chất
Lối thực hành là nấc thang cao
Dầu ai tráo chác đổi trao
Dễ gì thoát khỏi sa vào luật công.
Việc thất bại thành công chưa ắt
Hết sức mình mới đắc ý Thiên
Điều cần là chí nhẫn kiên
Ấy con đường sáng tìm Tiên non Bồng.
Làm sao được Tây Đông tiếp tục
Đó là xây hạnh phúc trời Nam
Tay Tiên đã dắt người phàm
Mong sao chư đệ cố làm cho nên.
Thánh bảng đã tuổi tên ghi để
Nhơn sanh đang bước trễ thời kỳ
Đạo đời hai lối hoài nghi
Đạo mau dung hiệp cứu nguy cho đời.
Đêm thanh vắng đôi lời tâm huyết
Hỡi ai ôi! Có biết cho chăng?
Non sông một gánh quại quằn
Ngàn thu vẫn một can tràng mà thôi.
Đức TỔNG LÝ ĐẠI ĐỒNG
Huờn Cung Đàn (Tam Giáo Điện Minh Tân)
Tý thời, 01-9 Tân Sửu (10-10-1961)