Thứ Năm, 28 tháng 4, 2016

ĐĐVU 14 / TẢN MẠN VỀ QUYỀN CỦA ĐỘNG VẬT / Trần Văn Chánh


Nhiều bà nội trợ không dám đập đầu con cá lóc, mặc dù rất thích món canh chua hay cá kho tộ. Đi chợ, họ nhờ người bán cá làm sẵn, dù có tốn thêm tí tiền bồi dưỡng cũng không tiếc.

Những người này thích ăn ngon nhưng không muốn nhúng tay vào, để người khác giết động vật thay cho mình, như vậy họ có đạo đức giả không?

Có lẽ là không. Chẳng qua họ vừa muốn thỏa mãn dục vọng ngon miệng vừa có chút lòng trắc ẩn, không nỡ thấy con vật bị đau đớn, chứ chưa nói gì đến sự tội lỗi là điều khó thể chứng minh một cách rõ ràng chắc chắn được. Họ thành thật đấy chứ, nhưng như vậy cũng đã tham gia gián tiếp vào quá trình giết hại động vật, vì không tự đấu tranh để thoát khỏi sự tham gia này bằng một phương thức hay lối sống nào khác, như chuyển từ ăn mặn sang ăn chay chẳng hạn…

Một số bậc thánh nhân hiền triết thời xưa dường như cũng chẳng hơn gì hạng thường nhân chúng ta. Đức Khổng Tử (551-479 trước Công Nguyên) từng nói “nhân cập cầm thú” (lòng nhân ái đạt tới loài chim thú), nhưng ông vẫn chấp nhận dùng những con thú để tế lễ (gọi là vật “hy sinh”), còn bản thân ông thì ăn thịt, thậm chí thịt mua ở chợ hoặc thịt không tươi ông còn chê (có nói trong Luận Ngữ, thiên “Hương Đảng”). Đức Mạnh Tử (372-289 trước Công Nguyên) cũng vậy, đâu có ăn chay, nhưng ông vẫn có lòng trắc ẩn khi thấy con vật bị giết mổ đau đớn: “Người quân tử đối với loài chim thú, trông thấy nó sống không nỡ trông thấy nó chết, nghe tiếng nó kêu mà không nỡ ăn thịt nó, cho nên người quân tử phải tránh xa chuyện bếp núc.” ([1])
Thật ra, con người luôn tự mâu thuẫn với chính mình. Đó là mối mâu thuẫn phổ biến vĩnh viễn giữa tình cảm với lý trí, và giữa lý trí với hành động. Người ta luôn nghĩ một đằng làm một nẻo, rồi cảm thấy áy náy, nên lương tâm thường không bao giờ được yên ổn hoàn toàn. Có lẽ chỉ những bậc siêu nhân trong truyền thuyết, trẻ con hồn nhiên, và (giả định) những người không hề suy nghĩ gì, mới không tự mâu thuẫn trong tư tưởng, hành vi và lối sống của bản thân mình.
 Đây chỉ mới nói đến suy nghĩ, hành vi cá nhân. Nếu trên phạm vi toàn nhân loại, mỗi tộc người hay cả dân tộc lại có lối sinh hoạt riêng, mà sự khác biệt lẫn nhau còn tùy theo hoàn cảnh địa lý, tập quán, tín ngưỡng... Nhưng dù có thể đại đồng tiểu dị, các sinh vật trên thế gian trong đó có loài người nhìn chung vẫn tiến triển theo luật cạnh tranh sinh tồn, khôn sống mống chết, mạnh được yếu thua: Con vật lớn mạnh ăn thịt con vật nhỏ yếu hơn, và loài người khôn ngoan hơn lại lấy hết thảy các loài động vật, thực vật khác làm thức ăn cho mình, coi đó là tự nhiên, chẳng có gì để phải thắc mắc.
Thực tế cho thấy, loài người xưa nay chỉ chú trọng kiến tạo hạnh phúc ích kỷ cho riêng mình. Loài người sẵn sàng sát hại các loài động vật, thực vật, đặc biệt động vật cao cấp có máu thịt, tình cảm, mặc cho chúng phải đau đớn khổ sở, để làm thức ăn, thuốc uống… phục vụ cho cái bao tử, sự ngon miệng và sức khỏe của mình… Ngoài sơn hào hải vị bao gồm các loài động vật sống tự nhiên trên rừng dưới biển, mà sự khai thác đã ngày càng cạn kiệt, loài người còn biết bổ sung nguồn dinh dưỡng cho mình bằng một số loài vật nuôi thông thường như dê, bò, heo, gà, vịt, cá… mà việc xử lý chúng để ăn thịt hằng ngày bằng phương pháp giết mổ thủ công đã tạo nên một bể khổ thể xác (và có thể cả tinh thần) không thể tưởng tượng, cộng thêm vào cái bể khổ vốn dĩ đã mênh mông vô bờ của toàn thể loài người!
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của nhận thức, loài người đi từ dã man đến văn minh đã có những giai đoạn phản tỉnh, phần nhiều do sự phát hiện của các phần tử ưu tú (giáo chủ, thánh nhân, hiền triết, nhà khoa học, nhà thần học…), và lần lần cho đến thời hiện đại đã nhận ra được mối quan hệ chặt chẽ hữu cơ cộng sinh giữa sự tồn tại của mình với muôn loài động vật, thực vật khác, từ đó nảy sinh ý thức ngày càng sáng tỏ hơn về nhu cầu phải bảo vệ sự sống, bằng cách tôn trọng luôn cả sự tồn tại của những loài sinh vật không phải người. Việc tàn sát các loài động vật hoang dã, làm mất cân bằng sinh thái, đã được khoa học chứng minh, sẽ dẫn đến những hệ quả nguy hại cho chính sự sống loài người, và nếu tiếp tục phá hủy như thế một cách vô tội vạ, loài người chắc chắn sẽ có lúc bị diệt vong, gọi là “tận thế”, mà các mối nguy cơ trên thực tế đã được ngày càng chứng tỏ. Có thể nói, ý thức bảo vệ động vật của xã hội loài người đã bắt nguồn và hình thành dần từ ý niệm xem động vật như là thành viên trong cộng đồng lớn của giới tự nhiên gồm cả loài người.
Cho nên, với nhận thức ngày càng tiến bộ hơn này, khởi đầu bằng lòng trắc ẩn thường chỉ mang tính cá nhân riêng lẻ, bộ phận loài người văn minh hiện đại đã nhận chân ra rằng việc thương yêu bảo vệ các loài sinh vật không phải người cũng thuộc trách nhiệm của mình, từ đó nảy sinh những vấn đề phức tạp cần được suy nghĩ và nghiên cứu sâu hơn. Đây cũng là một phần lý do sự xuất hiện của một ngành đạo đức học mới gọi là Đạo Đức Sinh Học (Bioethics), với phạm vi không chỉ giới hạn trong những vấn đề đạo đức liên quan sự sống con người giai đoạn đầu (thụ tinh, mang thai, sinh sản) và cuối (bệnh nan y, hôn mê sâu, chết êm dịu…), hay về sinh sản vô tính, cấy ghép nội tạng…, mà còn mở rộng ra đến chuyện phải đối xử ra sao với các loài động vật không phải người, và vì thế vấn đề quyền của động vật (animal rights) cũng đã được đặt ra một cách thật sự nghiêm túc từ những năm nửa cuối thế kỷ trước.
Mầm mống của vấn đề quyền động vật đã từng được phát biểu rải rác trên một số kinh sách cổ điển, nhưng tương đối còn mờ nhạt.
Các trường phái triết học Trung Hoa như Nho Giáo, nhất là phái Lão Trang, đều thừa nhận động vật cũng thuộc “đồng loại” với loài người và phải tôn trọng mạng sống của chúng.
Sách Luận Ngữ (thiên “Thuật Nhi”) có câu: “Tử điếu nhi bất võng, dặc bất xạ túc”, ý nói Đức Khổng Tử câu cá thì không dùng lưới, bắn chim thì không bắn những con chim đang nằm ngủ trong tổ.
Chỗ khác, theo Hiếu Kinh, Đức Khổng Tử cũng từng nói “Chặt một cây, giết một con thú, nếu không phải lúc, chẳng phải là hiếu.” ([2])
Hoài Nam Tử là một sách tổng hợp của Đạo Gia, trong thiên “Chủ Thuật Huấn” còn nêu rõ hơn tư tưởng bảo vệ sự cân bằng sinh thái tự nhiên, cho thấy thái độ của loài người đối với các sinh vật khác: “Theo phép trị nước của các bậc tiên vương thì khi săn bắn không được giết sạch các loài thú, không bắt hươu nai còn nhỏ, không tát cạn ao hồ để bắt cá, không đốt rừng để săn bắt thú. Chưa đến lúc có thể bắt giết thú non thì không được đặt lưới bắt ở nơi hoang dã. Chưa đến lúc rái cá bắt đàn cá thì không được thả lưới trong nước. Chưa đến lúc diều hâu bắt thỏ, các loại thức ăn… thì không được giăng lưới trong hang núi. Trước khi cỏ cây chưa tàn úa, không được vào rừng chặt cây
Những ý tưởng chứa đựng trong vài đoạn trích dẫn nêu trên phần nào cho thấy ý thức bảo vệ sinh thái của người xưa, có thể được coi là mầm mống sơ khai của sự công nhận quyền của động vật.
Kinh Thánh của Kitô Giáo ít đề cập vấn đề này hơn, mà chỉ cho biết, từ thời kỳ hồng hoang, khi Thượng Đế dựng nên Adam, Ngài đã trao cho quyền cai trị tất cả loài động vật. Trong câu chuyện của Noah được Chúa cứu khỏi cơn đại hồng thủy, Chúa đã truyền cho ông phải cứu các loài thú để đưa lên tàu tránh sự hủy diệt của nước lụt.
Tuy nhiên theo sự luận giải của Thánh Phanxicô thành Átxidi (1181-1226, người Ý, sáng lập Dòng  Phan Sinh) thì các động vật được xem như đồng hành với con người, những bạn đồng hành mà chúng ta có trách nhiệm đối với chúng trước Đấng Sáng Tạo. Còn theo nhà thần học Karl Barth (1886-1968, người Thụy Sĩ, thuộc trường phái Cải Cách), thì con người không thể giết chết động vật chỉ vì muốn giết, bởi lẽ làm như vậy sẽ giống như giết người. Theo ông, con người chịu trách nhiệm trước Thiên Chúa về cách thức mình sử dụng và giết chết các động vật. Con người phải thể hiện sự thương xót và gây ra càng ít đau đớn càng tốt.
Về chuyện ăn chay, theo Bader-Saye, một người Mỹ Kitô Giáo, ăn chay phản ảnh một thái độ lành mạnh hơn về đạo đức đối với động vật so với ăn thịt. Còn theo Singer, một học giả khác ngoài Kitô Giáo thì “Tập quán của chúng ta nuôi và giết các động vật khác để ăn là một ví dụ rõ ràng về sự hy sinh những lợi ích quan trọng nhất của những sinh vật khác để thỏa mãn những lợi ích tầm thường của chúng ta.” ([3])
Phải công tâm thừa nhận rằng, về vấn đề quyền của động vật, các tôn giáo như Cao Đài, Phật Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo từ lâu đã có chủ trương rõ rệt, dứt khoát hơn cả, thể hiện qua việc ăn chay, cấm sát sinh, và khuyến khích phóng sinh. Những chủ trương này, có lẽ chúng ta không cần tốn nhiều thời gian, giấy mực để minh họa, vì đã có sẵn hàng trăm kinh sách của các tôn giáo ấy luận giải tường tận.
Theo quan điểm ba tôn giáo nói trên, tất cả chúng sinh đều có Phật Tính (Thượng Đế Tính), bình đẳng, và loài người không có địa vị đặc biệt gì ưu tiên hơn các loài sinh vật còn lại. Con người không nên sát sinh vì mọi chúng sinh đều có sự sống và đều ham sống sợ chết, kể cả các loài nhỏ nhít như ruồi, muỗi, kiến, gián… Hơn nữa, nghiệp sát sinh còn được hiểu như là nguồn gốc của mọi khổ đau và là nguyên nhân căn bản của bệnh tật và chiến tranh.
Tuy nhiên, vấn đề xem ra không hề đơn giản, nếu xét trên toàn thể nhân loại. Chỉ có thể giải quyết vấn đề quyền của động vật một cách thực tế ra sao thôi, chứ không thể khuyến khích tránh hoặc cấm đoán việc sử dụng động vật để làm thức ăn được.
Nếu con người vẫn còn lòng trắc ẩn, thì quyền của động vật do vậy sẽ tiếp tục là một trong những chủ đề đạo đức lớn của loài người văn minh hiện đại. Theo các nhà chủ trương giải phóng động vật đi cùng với quyền của động vật, thì vấn đề đạo đức khi xem xét đến những người khác, gồm cả động vật không phải người, là chúng có đau khổ hay không, và khả năng đau khổ cũng như vui sướng như là những đặc điểm tạo cho một sinh vật quyền để được xem xét bình đẳng.([4])
Peter Singer, một người tích cực ủng hộ quyền động vật, trong quyển Animal Liberation (Giải phóng động vật) đại khái cho rằng những quyền lợi của động vật phải được xem xét bình đẳng với các quyền con người.
Ở đoạn cuối chương “Đối xử và không đối xử với động vật như thế nào?” trong quyển Đạo Đức Sinh Học Kitô Giáo, tác giả Agneta Sutton, một nữ giáo sư chuyên khoa Đạo Đức Sinh Học, nêu rõ như một kết luận cho vấn đề quyền của động vật: Hầu hết, nếu không phải là tất cả, các xã hội con người đều cho phép sử dụng các động vật… làm thực phẩm. Chúng ta được cho phép để làm như vậy, nhưng phải tránh những biện pháp tàn ác của việc giết mổ và những tập quán chăn nuôi tàn ác… Sự tàn ác một cách bừa bãi và việc hủy hoại không cần thiết đời sống động vật không bao giờ có thể lý giải được.” (tr. 193).
Tại một số quốc gia tiền tiến, với nền giáo dục phát triển cao, vấn đề quyền của động vật từ khá lâu đã được các nhà cầm quyền giải quyết tương đối ổn, một cách thực tế, bằng cách không nói chuyện ăn chay mà đưa ra những đạo luật cấm hành hạ súc vật, cũng như không được giết mổ đại đa số loại con vật theo cách có thể làm cho chúng bị đau đớn. Ngoài ra, súc vật nuôi nhà hoặc nuôi trong chuồng trại cũng phải được bảo vệ ở mức tối đa có thể, cấm người nuôi không được làm cho chúng phải ở trong tình trạng chật chội, khó chịu, và phải có sự chăm sóc y tế thích hợp…
Theo các đạo luật bảo vệ động vật ban hành từ năm 1911 đến năm 2000 tại nước Anh, người ta còn cấm cả việc đấu chọi động vật để tiêu khiển (như Luật Đá Gà năm 1952), hay dùng động vật làm mồi cho bất kỳ động vật nào khác…
Những việc khác như săn thú, tại những nước nêu trên, từ lâu cũng đã bị hạn chế tối đa bằng luật pháp nghiêm nhặt. Thậm chí, dùng con vật để thí nghiệm chữa bệnh cho người mà làm cho chúng đau đớn, cũng đang được nhiều nước xem xét trong vòng tranh cãi chưa ngã ngũ, nhưng theo cách hiểu của người Kitô Giáo là không được phép, và từng có những vụ biểu tình để chống đối.
Tại Mỹ, quyền của động vật hiện được thể hiện rất cao. Cả chó mèo cũng trở thành vấn đề tranh chấp trong những vụ ly dị, như khi tòa án phải quyết định quyền nuôi dưỡng chó mèo cho vợ hoặc cho chồng, vì chúng được coi như thành viên trong gia đình. Ngoài ra, theo luật định, người ta còn có quyền đòi bồi thường thương tích cho chó mèo hay cho một số súc vật khác khi chúng bị tai nạn.
Tuy nhiên, tình hình chấp nhận quyền của động vật ở những xứ sở nghèo đói, xem ra có vẻ khó khăn hơn nhiều. Tại những nơi này mà ngay cả quyền con người [nhân quyền] còn chưa được đảm bảo, chẳng những đa số dân chúng không ai nghĩ đến chuyện bảo vệ loài vật, mà còn coi việc giết mổ để ăn thịt là tự nhiên chẳng hề thắc mắc.
Tại Việt Nam, tuy đã tương đối thoát khỏi đói nghèo, tình hình cũng gần gần như vậy. Khái niệm Đạo Đức Sinh Học liên quan vấn đề đối xử với động vật dường như rất ít được biết đến.
Cho tới hiện nay, Việt Nam tuy đã có nhiều luật bảo vệ động vật hoang dã, thú quý hiếm, nhưng việc thực thi còn rất kém, nếu không muốn nói hầu như chưa làm được gì. Hàng loạt thông tin từ nhiều năm qua cho thấy, tình trạng sát hại, ngược đãi, mua bán động vật hoang dã đang ngày càng gia tăng, bất chấp mọi sự cảnh báo, ngăn chặn vốn ít hiệu quả của các cơ quan pháp luật nhà nước và các tổ chức bảo vệ môi trường khác. Theo báo chí, năm 2013 có đến khoảng trên dưới 4.000 con gấu đang bị giam hãm, đối xử tàn tệ trong các cũi, lồng chật hẹp, bị tước đoạt hoàn toàn tập tính leo trèo, nghịch ngợm vốn có, và vẫn bị hút lấy mật bán…, đời sống của chúng thật đau khổ! Tiếng vượn hú lạc cả giọng trong các nhà hàng như để kêu cứu, đang cần đến sự chia sẻ cùng nỗ lực cứu nguy của con người! Và tại những lò sát sinh thủ công tồn tại khắp nơi trên cả nước là những tiếng kêu la eng éc, tiếng gầm rống rền rĩ của heo, dê, bò…
Để thực hiện quyền của động vật, có hai khía cạnh cần giải quyết song song, đó là giáo dục ý thức và chế định luật pháp.
Về mặt giáo dục, nên đưa hẳn quyền của động vật vào chương trình giáo dục các cấp như một trong những nội dung chủ yếu của sách giáo khoa về môn giáo dục đạo đức, công dân, không chỉ đối với động vật hoang dã quý hiếm mà còn cả với những loài vật nuôi để giết thịt bình thường.
Về mặt luật pháp, áp dụng riêng cho súc vật nuôi chuồng trại để giết thịt, Việt Nam chỉ mới có một số văn bản quy định lẻ tẻ về giết mổ theo hướng nhằm vào mục đích đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm, chứ hoàn toàn chưa có những văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ động vật theo nghĩa quyền của động vật hiện đại, để hạn chế, ngăn cấm việc giết mổ động vật bằng những biện pháp thủ công gây đau đớn, riêng lẻ từng nhà hoặc trong các lò sát sinh sử dụng những kỹ thuật thủ công lạc hậu.
Điều vừa nêu trên cũng là một trong những lỗ hổng to lớn trong hệ thống luật pháp ở nước ta hiện nay. Thiết tưởng, việc thúc đẩy để soạn thảo những dự luật thích hợp đưa ra Quốc Hội có lẽ trước hết thuộc về lương tâm cũng như trách nhiệm của các chức sắc, các giáo hội Cao Đài, Công Giáo, Phật Giáo, Phật Giáo Hòa Hảo…
Từ rất lâu, nhiều quốc gia đã thực hiện hiệu quả việc bảo vệ động vật hoang dã và vật nuôi dưới mọi hình thức thông qua nền giáo dục tiên tiến và các văn bản quy phạm pháp luật, thì việc hướng dần tới những giá trị nhân đạo như thế, khởi đầu ngay từ bây giờ, đối với Việt Nam chúng ta, thiết nghĩ cũng là điều hoàn toàn có thể hiện thực hóa bằng những giải pháp khả thi.
 TRẦN VĂN CHÁNH



([1]) Quân tử chi ư cầm thú dã, kiến kỳ sinh bất nhẫn kiến kỳ tử, văn kỳ thanh bất nhẫn thực kỳ nhục, thị dĩ quân tử viễn bào trù dã. Mạnh Tử, “Lương Huệ Vương Thượng”.
([2]) Phạt nhất mộc, sát nhất thú, bất dĩ kỳ thời, phi hiếu dã.
([3]) Agneta Sutton, Đạo Đức Sinh Học Kitô Giáo. Giuse Phạm Ngọc Thành và Biển Đức Tạ Quang Hùng dịch. Nxb Thanh Niên, 2012, tr. 176-181.
([4]) Agneta Sutton, Đạo Đức Sinh Học Kitô Giáo, tr. 176.

Kẻ nào tàn ác với động vật thì cũng trở thành cay nghiệt khi đối xử với đồng loại. Chúng ta có thể xét đoán tấm lòng của một người qua cách người đó đối xử với động vật.

He who is cruel to animals becomes hard also in his dealings with men. We can judge the heart of a man by his treatment of animals.

Immanuel Kant (triết gia Đức, 1724-1804)
Nếu các lò mổ làm vách tường bằng kính, tất cả chúng ta sẽ ăn chay hết.
If slaughterhouses had glass walls, we would all be vegetarian.
Paul McCartney (ca sĩ, nhạc sĩ Anh, sinh năm 1942)
Sự sống là sự sống - bất kể là ở mèo, chó, hay con người.
 Life is life - whether in a cat, or dog or man.
Đức Aurobindo (hiền triết Ấn Độ, 1872-1950)