Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2016

ĐĐVU 18 / TU ĐI CON! GÂY LẠI TÌNH THƯƠNG! / Thánh giáo


Huờn Cung Đàn
Tuất thời, 29-8 Ất Tỵ (Thứ Sáu 24-9-1965)
Thông công: Bộ phận Hiệp Thiên Đài Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý. (Pháp đàn: Vô vi. Đồng tử: Hoàng Mai. Độc giả: Huệ Chơn. Điển ký: Ngọc Kiều, Hồng Ân, Huệ Đăng. Hộ đàn: Diệu Chơn Quang, Diệu Long. Chứng đàn: Vô vi. Chưởng Nghiêm Pháp Quân: Thiện Bảo.)
THI
Vâng lịnh Mẫu Nghi ([1]) đến báo đàn
Chào chư liệt vị khắp tam ban ([2])
Pháp đàn trên có vô vi điển
Của Đức Đông Phương ánh bủa tràn.([3])
NHỨT NƯƠNG TIÊN NỮ
Chào chư Thiên mạng,([4]) chư đạo tâm nam nữ. Vâng lịnh báo đàn có Đức Vô Cực Từ Tôn giáng cơ. Vậy chư liệt vị thành tâm nghinh tiếp. Tiên Nữ xuất ngoại ứng hầu.
VÔ CỰC TỪ TÔN DIÊU TRÌ KIM MẪU
Mẹ linh hồn các con.([5])
Mẹ mừng các con nam nữ.
THI
Từ thử ([6]) dạy khuyên đã quá nhiều
Hỏi con còn nhớ được bao nhiêu
Nỗi đời nỗi đạo hai vai chích ([7])
Lỡ đệ lỡ thầy ([8]) một bước xiêu ([9])
Đứa dở bôn chôn ngay buổi sáng
Người hay luộm thuộm đến ban chiều ([10])
Non đoài ác lặn chuông linh giục ([11])
Bớ trẻ đường ngay kíp dắt dìu.([12])
Các con nam nữ! Mãi đến hôm nay, qua khỏi ngày lễ kỷ niệm Khai Đạo một tuần,([13]) Mẹ mới giáng đàn nơi đây, để kiểm điểm lại trong quá trình cơ Đạo, làm một bài học chung để các con ghi nhớ ngày kỷ niệm đó. Mẹ miễn lễ toàn tất. Các con an tọa.
Các con ôi! Đến nay, Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ đã trải qua ngót bốn mươi thu, sự phổ truyền chánh giáo, hướng dẫn quần linh ([14]) buổi hạ nguơn trên bước đường tu học, các con đã đóng góp một phần công quả rất lớn trong sử Đạo.
Về phương diện thế Thiên hành hóa,([15]) các con đã được một điểm son, nhưng còn về phương diện hiệp nhứt quy nguyên một thể thống đạo ([16]) tại nước nhà, các con còn vấp phải bao nhiêu trở ngại, nhưng dầu sớm dầu muộn, những trở ngại đó các con sẽ vượt qua. Có như vậy phương thức hành đạo, kinh điển, đạo luật mới có cơ hội soạn thảo duy nhứt,([17]) từ đó mới có thể phổ truyền năm châu bốn biển. Còn như trước hiện trạng, các con chưa thể làm gì được hầu ([18]) thực hiện sứ mạng cao cả đó.
Giả thử hiện giờ, nếu có một ngoại nhơn từ phương trời Âu, Mỹ, Úc đến hỏi sự tổ chức trong đạo Cao Đài, các con phải nói làm sao, giải thích làm sao, dựa vào tiêu chuẩn, đạo luật nào để giải thích cho ngoại nhơn đó khỏi thắc mắc lầm lẫn một khi được hỏi đến một con thứ hai ở chi phái khác?
Hôm nay các con hãy bình tâm cùng Mẹ kiểm điểm, ôn lại trong quá trình ([19]) với những sứ mạng thế Thiên hành hóa, gồm mấy lãnh vực và mấy xu hướng trong hàng huynh đệ các con.
Cũng thời một cõi lòng thiết tha thương Thầy mến Đạo, con nào cũng muốn sáng danh Thầy, rạng danh Đạo, nhưng chính trong mỗi con còn thiếu những điều kiện và hoàn cảnh, do đó là một trở ngại rất lớn:
- Con có đứa khi đặt mình vào đạo, hằng muốn đem chánh pháp, đạo luật, kinh điển phổ truyền khắp nơi để cho nhơn sanh tỉnh thức tu học, để tạo lập một cõi thiên đàng ở thế gian toàn là hiền nhân đạo đức.
- Cũng có đứa nóng lòng vì việc đạo, bước xa hơn một bước, là tạo thế lực bên đời để dễ bề phổ truyền chánh đạo, nhưng không hay rằng mình đã vướng chơn trong lưới rập thường tình của thế nhân.
- Cũng có đứa nóng lòng vì việc quốc gia đại sự, muốn chen chân vào đó để làm phương tiện hoạt động phổ biến Đạo Trời.
- Cũng có đứa vì tiền đồ ([20]) Đại Đạo và danh nghĩa đạo giáo,([21]) giữa buổi thế sự phân tranh, muốn được tiếng nói Đạo Thầy làm trung gian để giải hòa mọi mặt.
- Cũng có đứa muốn tại gia tu học, gìn giữ tân pháp.
- Cũng có đứa thường xuyên đi đến chùa, thất, để học hỏi điều hay lẽ phải trong hàng huynh đệ tiền phong.
- Cũng có đứa trong tâm chẳng muốn đi đâu, nhưng sợ e vắng mặt lâu ngày rồi huynh đệ cho mình là ngã đạo,([22]) nên ngày sóc vọng ráng trỗi bước đến chùa, thất cho có lệ.
- Cũng có đứa không quản của, công, đem đóng góp vào cơ quan Đạo ([23]) để được hưởng phúc hồng ([24]) Thầy Mẹ rưới chan.
- Cũng có đứa vào Đạo để thọ Thiên phong vào hàng anh lớn, đợi ngày lâm chung, tuổi tên được vào sử Đạo…
Nhưng rồi các con ôi! Ai là bực xứng đáng thay mặt Chí Tôn để nói lên được tiếng nói duy nhứt của đạo Cao Đài? Ai là người xứng đáng nói lên tiếng nói để cảnh tỉnh các lãnh tụ chi phái Đạo để cùng vạch một đường hướng chung cho bước tiến của Đạo Trời?
Bởi trong hàng huynh đệ các con có những điều kiện không đồng nhứt:
- Con thì có thành tích công quả với sử Đạo, nhưng thiếu tài cán hoạch định đường lối tiến cho nhơn sanh.
- Cũng có con đức tài vẫn có, nhưng thiếu thông minh hoạt bát lỗi lạc để diễn tả hết những tối thượng siêu đẳng của Đạo Trời.
- Cũng có con tài đã có, hoạt bát đã hay, nhưng thiếu thiện tâm, thiện chí hoằng dương Thiên Đạo.([25])
- Cũng có con tài có, thông minh có, thiện chí có, nhưng thiếu về thành tích tiền bối khai minh Đại Đạo.([26])
- Cũng có con thừa tài dư đức, thiện chí có dư, thành tích sử Đạo có sẵn, nhưng vì hai chữ nghèo nàn về vật chất ([27]) mà tiếng nói trung kiên chẳng được ai nghe, chẳng được lưu ý đến.
- Cũng có con chẳng có những điều kiện trên, chỉ có một mảnh tâm trung thương Thầy mến Đạo, chất phác hồn nhiên, như như mộc mạc, mà chính là những con đó đã đóng góp cả của lẫn công rất nhiều với cơ Đạo, đã hy sinh đặt mình dưới sự sai khiến hướng dẫn của đàn anh hướng đạo…
Nhưng ai là người xứng để lãnh nhiệm vụ hướng dẫn đó, hỡi các con?
Các con tự hỏi mình đặt thân vào cửa đạo để mà chi? Có phải để tự giác, tự tu, tự nhận làm những việc thiện, việc nhân nghĩa để trả lần bao nghiệp oan khiên tiền kiếp, nhẹ mình hầu sớm để hưởng đời thượng nguơn thánh đức, an cư lạc nghiệp, đất Thuấn trời Nghiêu, sau ngày viên mãn phủi sạch nợ trần, điểm linh quang được trở về hiệp nhứt cùng Thầy Mẹ hay chăng?
Đó là điều mà Chí Tôn và các Đấng thiêng liêng đã dạy ngay từ buổi khai Đạo.
Đạo khai để cứu đời, chớ không phải làm nhăng ([28]) cho đời, mà cứu bằng cách nào vậy hỡi các con?
Chính các con phải tự cứu mình trước rồi mới có phương tiện và điều kiện cứu kẻ khác. Tự cứu mình như thế nào đó các con?
Trước hết, phải thành thật với lòng mình, tự đóng khung mình trong kỷ luật đạo, gột rửa hết những tánh ích kỷ xấu xa, ý nghĩ đen tối, tánh nết ganh hiền ghét ngõ;([29]) tập lần đức bác ái vị tha, tinh thần phục thiện; thực hiện được đường lối công bình, bác ái, từ bi. Ba điểm đó là sơ khởi, người mới giữ đạo phải tập làm cho được.
Từ bi là mình phải bất nhẫn, thương tâm trước những sự đau khổ nhục nhã của kẻ khác, cốt làm sao giác ngộ và tạo mọi hoàn cảnh để giúp kẻ khổ sớm thoát ra vòng tội lỗi đen tối.
Bác ái là xót thương tất cả, chẳng những nhơn loài, mà thương luôn đến loài thú cầm thảo mộc, bò bay máy cựa. Tha thứ những kẻ có lỗi với mình để cảm hóa họ lại gần với mình, hầu hướng dẫn họ lần vào đường tu hành chánh đạo. Từ bi, bác ái, khi con làm được xong, cũng phải nhớ đến công bình.
Chính sự chay lạt của các con đã gắn liền với hai chữ công bình, vì không thể ngon miệng với cao lương mỹ vị trên cái đau khổ chết chóc của loài khác. Mình muốn Trời Phật, Thánh Thần hộ độ, khoan dung, dìu dắt mình tai qua nạn khỏi, sớm ngộ Đạo, thì mình cũng phải hộ độ, dìu dắt những kẻ khác và khoan dung, công bình với kẻ khác. Dầu kẻ đó là người nghịch, cũng phải tạo cho được lòng thương đối với họ. Chính trong chữ tự tu tự cứu, các con phải làm được những điều sơ đẳng đó rồi mới nói những việc khác.
Người tu tại gia là một đơn vị tín đồ, nếu chưa được làm bực hướng đạo,([30]) cũng phải cho xứng đáng một người tín đồ. Khuyên người làm từ bi, bác ái, công bình, mà chính mình không làm được thì sự khuyên đó không đem lại kết quả gì hết.
Các con đừng mong vọng Thiêng Liêng thố lộ Thiên cơ cùng thời cuộc. Mong vọng đó là kẽ hở, là chỗ yếu để cho mị tà lợi dụng sở thích đó, hướng dẫn các con xa Thầy xa Đạo.
Hỡi các con! Muốn biết để làm chi? Giả thử Thiêng Liêng cho biết đời thượng nguơn thánh đức sẽ lập vào năm, tháng, ngày, giờ nào đó, rồi các con phải làm gì cho thích hợp một khi các con thiếu công quả, thiếu những đức tính của người tu?
Tai hại hơn nữa, khi các con biết được Thiên cơ thời sự, bản tánh háo danh, hiếu kỳ sẵn có, tiết lậu đầu đàng xó chợ, đó là mầm tai họa nảy nở trong người các con.
Các con chỉ biết có một đường lối tu nhơn tích đức, công quả phổ giáo Đạo Trời, cảnh tỉnh sanh linh. Hễ mỗi người thực hiện được tình thương, hễ thương thì không còn giết hại lẫn nhau, đời thái bình thạnh trị dầu không cầu mong cũng đến.
Ngày mới khai minh Đại Đạo, những tiên tri đã có, cơ tiền định đã được hé mở đôi phần, nhưng chúng sanh không lưu ý, vì đương hưởng cảnh an cư, mấy ai nghĩ đến cơ cuộc sẽ diễn biến và diễn biến như ngày nay.
Nước đến trôn, tâm hồn rối loạn, chạy đến cầu xin Thượng Đế cứu rỗi cho mình. Thượng Đế thương tất cả chúng sanh, mở Đạo cho chúng sanh tu để tự cứu và cứu kẻ khác, nhưng nếu chúng sanh không tu, không tự cứu, Thượng Đế cũng chẳng biết làm sao!
THI BÀI
1. Các con hãy lần tay đếm lại
Đạo Thầy khai đã mấy mươi thu
Con nào quyết chí lo tu
Con nào nương ẩn bóng dù Tạo cơ.([31])
2. Lời thánh dụ phú thơ ([32]) còn đó
Bao thi văn dạy dỗ khuyên răn
Mong cho thế sự ăn năn
Tự tu tự tỉnh, lần phăng đường về.
3. Cõi trần là sông mê bể khổ
Tạm thời gian con ở nơi đây
Biết bao những việc quấy rầy
Lo ăn lo mặc, dở hay đủ điều.
4. Việc phải trái sớm chiều đây đó
Việc nghĩa nhân khắp ngõ cùng đàng
Tình thương lẫn với thù hằn
Khi hờn khi giận, cố dằn cho qua.
5. Xuân hạ đến thu tàn đông chí ([33])
Việc đói no cũng chỉ đấy thôi
Tai trời ách nước than ôi
Thương con trong cảnh quả nhồi ([34]) thế gian.
6. Quanh năm cảnh cơ hàn ([35]) túng thiếu
Nghèo với giàu đồng chịu ngang nhau
Nghiệp chung ([36]) mấy kiếp biết sao
Hẹn ngày để trả cho nhau tại trần.
7. Vì thương con bao lần mở đạo
Vì thương con đạo giáo khai minh
Miễn con giữ được chân tình
Kỳ Ba ân xá siêu sinh dễ dàng.
8. Con hỡi con, mau toan lo liệu
Con hỡi con, bận bịu chi đời
Mảng lo ([37]) phải trái cho rồi
Thân tàn sức mỏn ([38]) Đạo Trời chưa xong.
9. Tu đi con! Giữ lòng bác ái
Tu đi con! Gây lại tình thương
Kêu nhau chung bước một đường
Đừng phân màu sắc khác thường trắng đen.
10. Con phải cố khêu đèn chơn lý
Cho người đời để ý nhìn theo
Nữ nam chẳng luận giàu nghèo
Tình thương bủa rộng nhắm vèo hành y.([39])
11. Đêm thanh vắng Mẹ ghi mấy đoạn
Kêu con hiền phải ráng nghe qua
Chinh chinh bóng nhựt xế tà ([40])
Hẹn ngày hội ngộ canh gà ([41]) gáy tan.
THI
Tang thương ([42]) cuộc thế biết mà chi
Xáo trộn tâm trung mệt ích gì
Những việc nghĩa nhân tua ([43]) gắn bó
Đề tài chính xác ở khoa thi.([44])
Khoa thi tuyển chọn bực nhân hiền
Những kẻ căn tu hữu huệ duyên
Thánh đức thượng nguơn Trời chuyển lập
Thế trần chung hưởng cõi Thần Tiên.
NGÂM
Dạy con kể cũng khá nhiều
Đem về dành để sớm chiều lần xem
Siêng năng học hỏi chị em
Những điều chưa biết, biết thêm để làm.
Thế trần giả tạm đừng ham
Quả công khuya sớm siêng làm cho tinh ([45])
Ban ân con trẻ tấc tình ([46])
Thế gian tu học, Thiên Đình ([47]) Mẹ lui.
Thăng.




([1]) Mẫu Nghi 母儀: Tấm gương cho các bà mẹ noi theo (an example for mothers). Ngày xưa, vợ vua (hoàng hậu) được xem là mẫu nghi thiên hạ 母儀天下, có nghĩa bà là gương mẫu cho tất cả các bà mẹ trong nước (a motherly model of the nation). Do đó, mẫu nghi còn là từ để gọi người phụ nữ đứng đầu một nước. Trong thánh giáo này, Mẫu Nghi là một từ dùng để gọi Đức Mẹ.
([2]) Tam ban : Ba ban hay ba nhóm chức sắc, chức việc và tín đồ khi hành lễ trong bửu điện:  Nam (bên phải) và nữ (bên trái) ở chánh giữa nhìn vào Thiên Bàn; Nữ ở bên trái nhìn vào bàn thờ Đức Nhị Trấn Oai Nghiêm Thường Cư Nam Hải Quan Âm Như Lai; ƒ Nam ở bên phải nhìn vào bàn thờ Đức Tam Trấn Oai Nghiêm Hiệp Thiên Đại Đế Quan Thánh Đế Quân.
([3]) Câu 3-4: Phàm một đàn cơ phải có một vị chức sắc Hiệp Thiên Đài làm pháp đàn. Nhưng đây là trường hợp không có pháp đàn hữu vi (không có chức sắc Hiệp Thiên Đài ) nên Đức Đông Phương Lão Tổ (là đấng Chưởng Quản Hiệp Thiên Đài) làm pháp đàn vô vi.
([4]) Thiên mạng (mệnh) 天命: Bậc hướng đạo đang nhận lãnh sứ mạng của Trời giao phó là thế Thiên hành hóa 替天行化 (thay Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu hành). Đồng nghĩa với Thiên ân sứ mạng.
([5]) Mẹ linh hồn các con: [Ta là] Mẹ Linh Hồn [của] các con ( I’m your Spiritual Mother). Lưu ý: Trong tiếng Việt, chữ của thường được hiểu ngầm. Thí dụ: Nhà tôi, cha tôi… Đức Chí Tôn khi giáng cơ thường xưng: Thầy các con / I’m your Master. Một số người viết “Thầy, các con!” thì sai.
([6]) Từ thử (tự thử 自此): Từ ấy, từ đó (since then, henceforth).
([7]) Chích : Đơn chiếc, lẻ loi (alone, lonely). Hai vai chích: Một thân lẻ loi gánh vác, một mình đơn chiếc gồng gánh, không có người chia sẻ, giúp đỡ.
([8]) Lỡ đệ lỡ thầy: Cũng như lỡ thầy lỡ tớ. Có lẽ ý muốn nói khả năng không phù hợp với một hoàn cảnh cụ thể nào đó, cho nên không đủ sức để đứng ra làm người lãnh đạo, mà cũng không thích hợp để đem thân phụng sự người khác.
([9]) Bước xiêu: Bước chân không vững vàng (unstable step).
([10]) Bôn chôn: Lật đật, vội vã (to hurry, to make haste). Luộm thuộm: Cẩu thả, tắc trách (to do something carelessly and casually). Câu 5-6: Người kém cỏi thì sớm biết lo liệu từ lúc ban đầu. Kẻ ỷ giỏi thì chểnh mảng, khi nước tới chân mới vội vàng cuống quýt nên công việc bị sai sót.
([11]) Non đoài: Núi ở phía tây. Ác: Mặt trời chiều. Chuông linh: Ý nói tiếng chuông thức tỉnh con người hãy biết lo tu hành.
([12]) Đường ngay: Chánh đạo. Kíp: Cấp tốc, đừng trì hoãn. Câu 7-8: Ngày giờ đã muộn, kiếp người không đợi, các con hãy mau chân dắt dìu nhau bước lên đường đạo, cùng lo tu hành.
([13]) Ngày lễ kỷ niệm Khai Đạo: Tức là ngày 23-8 âm lịch, kỷ niệm ngày các tiền khai lập thủ tục Khai Tịch Đạo, xác lập tư cách pháp nhân của đạo Cao Đài trước khi tiến hành một tháng Phổ Độ Lục Tỉnh (từ giữa tháng 10 đến giữa tháng 11-1926).
([14]) Quần linh 群靈: Các linh hồn (all souls); cũng có nghĩa như quần sinh 群生, chúng sinh 眾生 (all living beings, all human beings), vì mỗi người là một điểm linh quang chiết từ Thượng Đế (khối Đại Linh Quang).
([15]) Thế Thiên hành hóa 替天行化: Thay Trời hành đạo để giáo hóa dân chúng tu hành.
([16]) Thể thống đạo: Thể thống của đạo Cao Đài.
([17]) Duy nhứt: Theo một hệ thống duy nhất.
([18]) Hầu: Ngõ hầu, để mà (in order to, so as to).
([19]) Quá trình 過程: Quãng đường đã qua (course of past events).
([20]) Tiền đồ 前途: Tương lai (the future).
([21]) Đạo giáo: Tôn giáo (religious, religion)
([22]) Ngã đạo: Trợt té trên đường đạo, ý nói nhạt đạo, bỏ đạo.
([23]) Cơ quan Đạo: Cơ sở của đạo Cao Đài (Caodai institution).
([24]) Phúc hồng: Hồng phúc 洪福, phước lớn.
([25]) Thiên Đạo 天道: Đạo Trời, tức đạo Cao Đài.
([26]) Thiếu về thành tích tiền bối khai minh Đại Đạo: Xét về tiểu sử thì không có tên trong các bậc tiền bối có công mở Đạo vào năm 1926.
([27]) Hai chữ nghèo nàn về vật chất: Nghèo tiền của. Ca dao mỉa mai: Vai mang túi bạc kè kè / Nói quấy nói quá người nghe ầm ầm / Trong lưng chẳng có một đồng / Lời nói như rồng cũng chẳng ai nghe. Đây là thực trạng xã hội vốn có từ xa xưa, và trong cửa đạo vẫn chưa thoát khỏi tệ trạng người giàu thì được nể nang, còn tín đồ nghèo lại bị coi thường.
([28]) Làm nhăng: Làm những điều sái quấy (to do wrong things).
([29]) Ngõ: Người có tài. Ganh hiền ghét ngõ: Ganh ghét người hiền đức và tài giỏi (to envy and hate the worthy).
([30]) Hướng đạo 向導: Người dẫn dắt đạo hữu (those who lead their brethren).
([31]) Tạo: Tạo Hóa, Trời (the Creator). Nương ẩn bóng dù Tạo cơ: Ý nói vào Đạo không phải thực lòng muốn cải sửa bản thân cho nên người đạo đức, mà chỉ vọng tưởng sẽ được Ơn Trên che chở (mặc dù thói hư tật xấu bản thân vẫn không chừa bỏ).
([32]) Lời thánh dụ phú thơ: Thánh giáo dạy dỗ bằng thơ phú.
([33]) Đông chí: Mùa đông đến.
([34]) Quả nhồi: Quả báo xấu diễn ra dồn dập, ráo riết (accumulated karmic retributions).
([35]) Cơ hàn 飢寒: Đói lạnh (hungry and cold).
([36]) Nghiệp chung: Cộng nghiệp 共業: Nghiệp báo xấu mà cả một tập thể phải cùng nhau chung trả (collective karmic retributions).
([37]) Mảng lo: Mải lo, cứ lo lắng hoài.
([38]) Sức mỏn: Sức lực hao mòn.
([39]) Vèo: Chỗ rẽ, khúc quanh trên sông. Nhắm vèo: Xem xét hoàn cảnh mà tìm cách hành động cho thích hợp. Hành y: Làm đúng theo sự hướng dẫn, lời dạy bảo.
([40]) Chinh chinh bóng nhựt xế tà: Ánh mặt trời chiều tà chiếu chênh chếch, nghiêng nghiêng.
([41]) Canh gà: Tiếng gà gáy cầm canh. Một đêm có năm canh: Canh một (giờ Tuất, 19-21 giờ); canh hai (giờ Hợi, 21-23 giờ); canh ba (giờ Tý, 23-01 giờ sáng); canh tư (giờ Sửu, 01-03 giờ sáng); canh năm (giờ Dần, 03-05 giờ sáng).
([42]) Tang thương 桑滄: Nói tắt thành ngữ thương hải [biến vi] tang điền 滄海[變為]桑田: Biển xanh biến thành ruộng dâu, ám chỉ biến cố (thay đổi lớn lao) ở đời; cùng nghĩa với cuộc dâu biển hay biển dâu (life’s vicissitude).
([43]) Tua: Nên, hãy nên (should, had better), do chữ tu . Tua gắn bó: Nên gắn bó (had better attach yourselves to it).
([44]) Đại ý bốn câu: Tìm biết Thiên cơ thế sự chả ích lợi gì, mà chỉ khiến cho lòng người xáo trộn. Chớ nên lơi lỏng thực hành những việc nhân nghĩa, vì nghĩa nhân chính xác là đề thi tuyển chọn người hiền đức được sống đời thượng nguơn thánh đức.
([45]) Tinh: Kỹ càng, hoàn hảo, không sơ sót (thoroughly).
([46]) Tấc tình: Tấc lòng, tấm lòng.
([47]) Thiên Đình : Thiên Tào (the Heaven Court).
HUỆ KHẢI & LÊ ANH MINH hiệp chú