Thứ Bảy, 14 tháng 5, 2016

ĐĐVU 17 / CÂU ĐỐI TẾT XƯA VÀ NAY / Trần Văn Chánh


Câu đối hay đối liên 對聯 là thể văn có hai vế đối xứng, về từ, ngữ hoặc câu, với số chữ trên dưới bằng nhau và xếp theo luật bằng, trắc nhất định, được coi là loại hình nghệ thuật văn chương độc đáo hấp dẫn mà người Hoa và người Việt đều ưa thích, hợp với cả thành phần bình dân lẫn giới bác học, nhưng chủ yếu do giới bác học sáng tác để mọi người thưởng thức chung.
Theo Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc (1890-1942) thì:
“Câu đối, chẳng qua, chỉ là một lối văn vụn vặt, tính từng chữ, chớ không đếm từng trang, từng tờ. Tuy vậy mà câu đối là một thể văn rất cần. Phàm các lối văn vần của ta…, đều có câu đối lẫn ở trong… Quả vậy, người ta bất cứ về dịp nào, mối thất tình đã động, là cũng nên câu đối được cả. Dịp vui có câu đối mừng, dịp buồn có câu đối viếng; hết một năm, hơn một tuổi có câu đối thưởng xuân; qua mười năm, lên một giáp có câu đối chúc thọ; mến cảnh, chìu đời mà làm được câu đối, thì ghét người, giận thân cũng làm được câu đối; ở nơi đình chùa, miếu mạo oai linh, trịnh trọng mà đề được câu đối, thì ở chốn anh em bè bạn chơi đùa, cợt nhả cũng ngâm được câu đối… Văn câu đối tuy vụn vặt, mà không phải là khinh thường, cứ kể ra lại thật là khó…, chữ rất ít, rất gọn mà ý nghĩa bao hàm rộng rãi, càng xem càng nghĩ mới càng rõ được hết cái hay. Bởi vậy làm một câu đối cho nên, xưa nay hồ dễ đã được mấy người…”. (Thú Chơi Câu Đối. Nxb Văn Hóa Thông Tin in lại năm 2001.)
Về các câu đối xưa, từ lâu đã có vài bộ sưu tập câu đối chữ Hán lưu hành rộng rãi ở Trung Quốc, sau đó truyền sang Việt Nam, được các nhà Nho dùng như những tập sách tham khảo, chẳng hạn như:
- Cổ Kim Đối Liên Đại Quan 古今對聯大觀, do ban biên tập của Thượng Hải Trung Ương Thư Điếm biên soạn, in lần thứ ba, năm Dân Quốc thứ 25 (tức năm 1936).
- Đối Liên Tập Thành 對聯集成 , do Xuân Châu Hoàng Tải Trang sưu tập, bản của Bảo Hoa Các, không rõ năm in...
Trong các loại nội dung khác nhau của câu đối, hấp dẫn nhất có lẽ là câu đối về mùa xuân và ngày tết - cũng gọi xuân liên 春聯 - mà khi đọc lên, ta cảm nhận ngay được niềm hân hoan hớn hở, chứa chan hy vọng của con người trước cảnh tượng đổi thay của đất trời, hoa lá, cảnh sắc thiên nhiên lộng lẫy sáng sủa:
Dân hòa ngũ tộc văn minh thịnh
Vận khải tam dương cảnh tượng tân.([1])
(Dân hòa cả năm tộc văn minh đều thịnh
Vận mới mở ra tam dương cảnh tượng mới mẻ.)
Và cái không khí tươi vui, tưng bừng của những ngày đầu xuân:
Hoa nghênh hỷ khí giai như tiếu
Điểu thức hoan thanh diệc giải ca.([2])
(Bông hoa đón khí lành nên trông đều có vẻ như cười
Chim chóc biết tiếng vui nên cũng biết ca hát.)
Hoặc nói lên niềm vui, niềm hy vọng cuộc sống của con người trong những ngày tết đến:
Bạo trúc lưỡng tam thanh, nhân gian cải tuế
Mai hoa tứ ngũ điểm, thiên hạ giai xuân.([3])
(Pháo tre đùng mấy tiếng, cõi đời chuyển sang năm mới
Hoa mai nở vài đóa, thiên hạ đều được mừng xuân.)
Về đêm nguyên tiêu, tức đêm rằm tháng giêng, có câu như:
Nguyệt đáo bán luân thiên diệc túy
Hoa khai nguyên dạ địa giai xuân.([4])
(Trăng mọc nửa vòng tròn làm trời cũng say sưa
Hoa nở đêm rằm tháng giêng khắp đất đều xuân.)
Nguyên dạ là từ đồng nghĩa với nguyên tiêu. Câu vừa nêu trên dễ gợi nhớ tới đôi câu đối tiếng Việt quen thuộc:
Trừ tịch kêu vang ba tiếng pháo
Nguyên tiêu cao ngất một cành nêu.
Câu đối xuân chữ Hán của người Hoa rất phong phú đa đạng vì họ vốn có một bề dày sinh hoạt văn chương lâu đời. Nhưng người Việt ta cũng không kém, câu đối rất được mọi thành phần xã hội ưa chuộng, coi như một thú chơi văn chương tao nhã, đặc biệt sử dụng trong những ngày lễ tết, gắn với hình ảnh của ông thầy đồ viết chữ như phượng múa rồng bay:
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đông người qua...
Đoạn thơ hoài cổ trên đây của nhà thơ Vũ Đình Liên (1913-1996) đã đi vào văn học sử, thường được nhắc đến mỗi khi nhớ lại quá khứ cách nay chừng sáu, bảy mươi năm: Hình ảnh những ông đồ Nho đeo kính trắng, ngồi trong lều viết câu đối bán cho người đi chợ để người ta mang về treo trên bàn thờ tổ tiên, bàn thờ ông Táo hoặc dán ở nhà khách ngày tết.
Tập quán chơi câu đối tết của người dân Việt chưa rõ có từ lúc nào, nhưng chắc chắn đã trải qua thời gian khá lâu dài, như có thể chứng minh qua cặp câu đối tết do hòa thượng Pháp Thông làm, treo trước cổng chùa Siêu Loại để đón vua Trần Nhân Tông trong dịp vua ngự lên chùa vãn cảnh vào tiết đầu xuân, tháng giêng năm Kỷ Sửu (1289):
Tứ hải dĩ thanh, trần ai dĩ tĩnh
Tam dương khai thái, cảnh vật khai minh.([5])
(Bốn biển đã thanh bình, bụi trần đã sạch
Tam dương mở vận thái, cảnh vật sáng tươi.)
Tam dương chỉ mùa xuân hoặc chỉ tháng giêng âm lịch. Tam dương khai thái là tháng giêng mở đầu cho sự hanh thông cả năm, ý nói đông đi xuân lại, âm tiêu dương trưởng, vạn sự tốt lành hanh thông, thời xưa thường dùng làm lời chúc tụng năm mới.([6])
 Còn cặp câu sau đây tương truyền của Bà Huyện Thanh Quan (1805-1848) thời đầu nhà Nguyễn, làm để dán nhà vào dịp tết, cũng cho thấy thú chơi câu đối tết là một loại hình rất phổ biến:
Duyên với giang sơn nên dán chữ
Nợ gì trời đất phải trồng nêu.
Câu đối dán ở cột nhà ngày tết thường là một cặp câu chữ Nho, giản dị dễ hiểu mà đọc lên nghe phấn khởi:
Thiên tăng tuế nguyệt, nhân tăng thọ
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn đường.([7])
(Trời thêm năm tháng, người thêm tuổi
Xuân khắp đất trời, phúc khắp nhà.)
Trong quang cảnh rộn rã trước đây của những ngày tết đến, dân ta thường vui vẻ ngâm nga đôi câu đối giản dị chất phác mà sinh động này, vẽ nên được cái cảnh tượng “thanh bình tam bách niên thiên hạ” ([8]) của một thời xa xưa nào đó:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
Câu đối tết tiếng Việt từ xưa tới nay được cả giới trí thức lẫn người bình dân sáng tác nhiều vô số kể, phản ảnh cảnh vui tết hoặc buồn tết của mọi thành phần trong xã hội, không phân biệt già trẻ sang hèn, vì “xuân chẳng riêng ai khắp mọi nhà”:
Không dưng xuân đến chi nhà tớ
Có lẽ Trời nào đóng cửa ai.
(Khuyết danh)
Bầu một chiếc lăn chiêng, mặc sức tam dương khai thái
Nhà hai gian bỏ trống, tha hồ ngũ phúc lâm môn.
Nguyễn Công Trứ (1778-1858)
Hoặc câu đối dán tết tương truyền của Chiêu Lỳ tức Phạm Thái (1777-1813):
Bật cành nêu, đem mới lại về mau, già trẻ gái trai đều sướng kiếp!
Đùng tiếng pháo, đuổi cũ đi cho sớm, cỏ hoa non nước cũng mừng xuân.
Có bản chép khác: đem mới lại cho mau, đùng tiếng trúc, đuổi cũ đi đã đáng (tiếng trúc cũng là tiếng pháo).
Cảm động nhất là những đôi câu đối chuyên tả tâm trạng và tình cảnh của người dân nghèo, cực kỳ sinh động:
Hành niên qua đến cùng xương, nào tiền nhà, nào tiền học, nào tiền thuế, nào tiền ăn, nghĩ đời sống lắm phen bớ phở
Mùi tết mới tha hồ béo mỡ, này chén rượu, này chén chè, này chén anh, này chén chú, gặp ngày xuân thỏa xác đá gà.
(Khuyết danh)
Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống; biết khổ là vậy nhưng người lao động nghèo trong những ngày tết đến vẫn có tâm lý mượn dịp vui chơi cho thỏa. Chẳng những vậy, trong lúc “túy lúy càn khôn”, họ còn muốn cho thời gian ngày tết kéo dài thêm ra:
Có là bao, ba vạn sáu nghìn ngày, được trăm lần tết
Ước gì nhỉ, một năm mười hai tháng, cả bốn mùa xuân.
(Khuyết danh)
Tối ba mươi nần nợ rối Canh Thân, những ước mười năm dồn lại một
Sáng mồng một rượu chè say Quý Tỵ, muốn cho ba bữa hóa ra mười.
(Khuyết danh)
Riêng các thi nhân thường thường nghèo nhưng phóng túng lãng mạn, cái tết của họ được ghi lại thật khôi hài, bày tỏ mọi vẻ của tâm trạng:
- Chiều ba mươi, nợ hỏi tít mù, co cẳng đạp thằng bần ra cửa
Sáng mồng một, rượu say túy lúy, giơ tay bồng ông phúc vào nhà.
Nguyễn Công Trứ
- Tết có cóc gì đâu, uống một vài be củ tỏi
Nợ đâm ương ra đó, nói ba bốn chuyện cà riềng.
Nguyễn Công Trứ
- Tối ba mươi, giơ cẳng đụng cây nêu, ủa tết!
Sáng mồng một, lắng tai nghe tiếng pháo, à xuân!
Nguyễn Quý Tân (1814-1858)
Còn Tam Nguyên Yên Đỗ Nguyễn Khuyến (1835-1909) thì tếu một cách có duyên mà thâm trầm:
Thiên hạ dại vô cùng, pháo nổ đì đùng thêm mất chó
Ông này khôn bất trị, rượu say túy lúy lại nằm mèo.
Hai chữ Thiên hạ ở vế đầu, có dị bản chép thành Chúng nó, để đối chỉnh hơn với hai chữ Ông này ở vế thứ hai.
Câu dưới đây được cho là của Tú Xương, một nhà thơ nghèo kiết xác nhưng có tính khinh đời:
Nực cười thay! Nêu không, pháo không, vôi bột cũng không, mà tết!
Thôi cũng được! Rượu có, nem có, bánh chưng đều có, thừa xuân!
Cũng là nhà Nho, nhà thơ, nhưng đối với các cụ tiền bối cách mạng suốt đời bôn ba vì sự nghiệp giang sơn to lớn, đến khi thất bại thúc thủ trở về, ngày tết đến, lòng họ vẫn còn canh cánh một nỗi ưu thời mẫn thế:
Ba chục triệu đồng bào, híp mắt no say ba bữa tết
Bốn nghìn năm tổ quốc, ôm lòng chờ đợi một ngày xuân.
Ngô Đức Kế (1878-1929)
Truyền thống văn chương có lẽ đã thâm nhập khá sâu vào tâm hồn người Việt nên mặc dù nền học cũ đã qua lâu, trên báo chí thời cận hiện đại người ta vẫn còn mượn hình thức câu đối để bộc lộ khi thì những tâm tư tình cảm nghiêm túc, như lòng nhớ quê của kẻ tha phương cầu thực, khi thì để nói chuyện thời sự, châm biếm hoặc chúc tụng, thậm chí có khi chỉ để giải trí:
Nghiêm túc như:
Ngào ngạt mùi hương, dẫu tại đất người, không mất gốc
Lung linh ánh lửa, dù xa quê cũ, chẳng quên nguồn.
(Khuyết danh)
Tả cảnh tết Sài Gòn trước năm 1975, có người viết như cà rỡn:
Dưới biệt thự nguy nga, là ô tô bóng lộn, là váy cụt nhởn nhơ, cảnh tượng hiện hình xuân phá sản
Ngoài vỉa hè ngơ ngác, nào đói rách bơ vơ, nào tật nguyền côi cút, não nùng chào đón tết tang thương.
Đông Tùng (1972)
Câu đối trên hay, chỉ tiếc hai chữ cảnh tượng đối lại với não nùng không được chỉnh.
Câu đối sau đây có phần dí dỏm:
Giao thừa hái lộc, cung kính ông bà, rượu rót đôi ly, nghe lời chúc
Mồng một đơm hoa, nhớ ơn cha mẹ, trà dâng ba chén, nhận lì xì.
(Khuyết danh)
Nói gì thì nói, do đã cách biệt khá xa với truyền thống văn học cổ điển, kỹ năng sáng tác câu đối nói chung và câu đối tết nói riêng của người Việt hiện đại đã có phần sa sút đáng kể, không so được với người xưa. Không ít câu đọc lên chỉ được phần nội dung hay, nhưng về câu chữ đối nhau chan chát cho đúng luật về bằng trắc, từ loại thì họa hoằn lắm mới thấy có được một vài.
Nhiều năm gần đây, người ta trên báo chí vào dịp tết những câu đối tết mang tính thời sự, có màu sắc phê phán, như cặp đối dưới đây đăng trên báo Tuổi Trẻ Cười Xuân Quý Mùi (2003), mặc dù đối chưa được chỉnh lắm:
Cười bao chuyện chướng tai gai mắt, tinh nghịch trớ trêu, cho mọi tuổi thêm vui thêm trẻ
Biếm những trò vờ điếc vờ đui, côn đồ tham nhũng, để cuộc đời càng sáng càng trong.
(Thuần Tăng)
Giáo sư toán học Văn Như Cương (sinh năm 1937) đã hạ bút hai câu đối đăng ở trang đầu tạp chí Tia Sáng số đặc biệt Xuân Kỷ Sửu (2009):
 Năm Chuột đi, nhà cháy vẫn chưa ra mặt chuột
 Tết Trâu đến, đàn gảy liệu có lọt tai trâu.
Nhưng câu đối tết đôi khi cũng chỉ đơn thuần dùng cho việc giải trí bằng thứ ngôn ngữ lắt léo, để đố nhau cho vui. Tạp chí Sông Hương (số 29, Huế: tháng 1 và 2-1988) có nhắc lại một “vế ra” của Nguyễn Khoa Vy (1881-1968) ở Huế, rất khó tìm vế đối:
Tết tới túng tiền tiêu, tính toán toan tìm tay tử tế
Có người đã tìm cách đối lại nhưng thất luật, chỉ nghe vui thôi chứ không chỉnh:
Xuân xưa xài xa xỉ, xun xoe xin xỏ xếp “xăng xu”.
Xăng xu phiên âm tiếng Pháp ở vế dưới có thể hiểu theo hai nghĩa: trăm xu (cent sous) hay không có xu (sans sous), nghĩa là hết tiền, đều được.
 TRẦN VĂN CHÁNH



([1]) 民和五族文明盛 / 運啟三陽境象新.
([2]) 花迎喜氣皆如笑 / 鳥識歡聲亦解歌.
([3]) 爆竹兩三聲人間改歲 /梅花四五點天下皆.
([4]) 月到半輪天亦醉 / 花開元夜地皆春.
([5]) 四海以清塵埃以靜 / 三陽開泰境物開明.
([6]) Về ý nghĩa tam dương khai thái, xem thêm: Dũ Lan Lê Anh Dũng, Xuân Thái, in trong Đại Đạo Văn Uyển, tập Nguyên (13), xuân Ất Mùi. Hà Nội: Nxb Tôn Giáo, 2013, tr. 41-48.
([7]) 天增歲月人增壽 / 春滿乾坤福滿堂.
([8]) Thanh bình tam bách niên thiên hạ 清平三百年天下, câu thơ trích trong Chinh Phụ Ngâm [Khúc] 征婦吟曲 của Đặng Trần Côn (thế kỷ 18, đời Lê trung hưng). Hồng Hà Nữ Sĩ, tức bà Đoàn Thị Điểm (1705-1748), dịch: Nước thanh bình ba trăm năm cũ. [Văn Uyển chú]